Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.08 KB, 23 trang )

TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI
NHTM
I. TÍN DỤNG VÀ CÁC HÌNH THỰC HÌNH THỰC TÍN DỤNG
1. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và
người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.
Hay nói cách khác: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ
kinh tế trong đó một cá nhân hay một tổ chức nhờng quyền sử dụng một khối l-
ượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hoặc một tổ chức khác với những ràng
buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Trong mỗi hành vi tín dụng thấy là hai bên cam kết với nhau như sau:
- Một bên thì giao ngay một số tài hoá hay tiền bạc
- Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tào hoá đó
trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định nào đó.
Nhà kinh tế Pháp, Ông Louis Baundin, đã định nghĩa tín dụng như là “một
sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai”. ở đây thấy yếu tố thời gian đã
xen lẫn vào và cũng vi sự xen lẫn đó, cho nên có thể có sự bất trắc, rủi ro xảy ra và
cần có sự tín nhiệm của hai bên đương sự đối với nhau. Hai bên đương sự dựa vào
sự tín nhiệm, sử dụng sự tín nhiệm của nhau nên mới có danh từ tín dụng.
Do tính đa dạng về đối tượng chuyển nhượng và các chủ thể tham gia trong
quan hệ tín dụng cũng như do sự phát triển của nền kinh tế thị trường và các hình
thức sản xuất kinh doanh đã cho ra đời nhiều hình thực tín dụng
- Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng bằng hàng hoá giữa những doanh
nghiệp hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hoá, được hình
thành trên cơ sở mua bán chịu hàng hoá. Về thực chất quan hệ tín dụng thương mại
thể hiện việc kéo dài thời hạn thanh toán của người mua. Do đó, trong quan hệ tín
dụng thương mại, người cho vay chính là người bán chịu hàng hoá, còn người vay
là người mua chịu hàng hoá.
- Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng và
một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với một bên là tất cả các tổ
chức cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa


là người cho vay.
- Tín dụng nhà nước: Là quan hệ tín dụng được thực hiện bằng hình thức
tiền tệ hoặc hiện vật giữa một bên là nhà nước và một bên là tất cả các tổ chức cá
nhân trong xã hội, trong đó nhà nước là người đi vay bằng cách phát hành tín phiếu
hoặc trái phiếu.
- Tín dụng hợp tác xã: Là quan hệ tín dụng tập thể hình thành trong nội bộ
các xã viên hợp tác xã.
- Tín dụng quốc tế: Là quan hệ tín dụng giữa các quốc gia, trong đó chủ thể
tham gia là nhà nước, ngân hàng, các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính tín
dụng quốc tế.
2. Tín dụng Ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân
hàng –một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các
tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay
vừa là người cho vay.
Với tư cách là người đi vay: Ngân hàng huy động mọi nguồn tạm thời nhàn
rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức cá
nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay: Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Đây là hình thức tín dụng chủ yếu
trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một
cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
3. Các hình thức tín dụng ngân hàng.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau mà chúng ta tiến hành phân loại các hình
thức tín dụng ngân hàng.
+ Căn cứ vào mục đích sử dụng
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở đất đai, bất động sản trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ xung

vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại dịch
vụ.
- Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất:
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động…
- Cho vay tiêu dùng cá nhân: Là loại vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
như mua sắm các vật dụng đặt tiền. Ngày này ngân hàng còn thực hiện cho vay để
trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
+ Căn cứ vào tài sản thế chấp
- Cho vay có tài sản thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách hàng
để đảm bảo việc trả nợ của khách hàng.
Cho vay cầm cố: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản khách hàng
mang đến cầm cố tại ngân hàng. Tài sản của khách hàng do ngân hàng bảo quản.
Trong suốt thời gian cầm cố, khách hàng không được sử dụng nhượng bán, cho
thuê…
Cho vay thế chấp: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách
hàng để đảm bảo cho khả năng trả nợ của khách hàng. Tài sản không cần mang đến
ngân hàng, khách hàng có quyền sử dụng nhưng không có quyền bán và cho thuê.
- Cho vay không có tài sản thế chấp (Tín dụng) : Ngân hàng cho vay trên cơ
sở tin tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của khách hàng. Ngoài
ra còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức
đoàn thể chính trị – xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
+ Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
- Cho vay bằng tiền: Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được
cung cấp bằng tiền: thấu chi, tín dụng thời vụ. tín dụng trả góp…
- Cho vay bằng tài sản: Phổ biến là tài trợ thuê mua.
+ Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
- Cho vay trực tiếp: Trước khi cấp tiền ra, ngân hàng có mối liên hệ trực tiếp
đối với người vay để thẩm định khách xem xét tình hình người vay…
- Cho vay gián tiếp: Ngân hàng bỏ tiền ra cho vay nhưng không có liên hệ gì
với người vay. Vì dụ: cho vay hợp vốn đối với ngân hàng khác.

+ Căn cứ vào thời hạn cho vay
Tín dụng có ký hạn: Là khoản tín dụng có thời gian xác định về ngày trả nợ.
Tín dụng có kí hạn bảo gồm: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Mặc dù
hầu hết các nước điều thống nhất về điều này nhưng thời hạn cụ thể được quy định
theo từng loại lại không hoàn toàn đồng nhất. ở Việt nam hiện nay, theo quy chế
cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng cùng với quyết định
1627/2001/QĐ-NNNN ngày 31/12/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
nam.
- Cho vay ngắn hạn: tối đa đến 12 tháng. được xác định phù hợp với chu kỳ
sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
- Cho vay trung –dài hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời
hạn thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn
vay của tổ chức tín dụng.
Thời hạn cho vay trung hạn: từ trên 12 tháng đến 60 tháng.
Thời hạn cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không qua thời
hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với
pháp nhân và không quá 15 năm đối với dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Tín dụng không kỳ hạn: Là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản vay
không xác định rõ thời hạn trả nợ.
4. Phân loại tín dụng
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng
và mục tiêu quản lý của Ngân hàng. Tín dụng Ngân hàng thương mại được chia
làm một số loại như sau:
4.1. Phân loại theo thời gian (thời gian tín dụng)
Việc phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với Ngân
hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng
như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:
Tín dụng ngắn hạn: là tín dụng có thời gian từ 12 tháng trở xuống.
Tín dụng trung hạn: là tín dụng có thời gian từ 12 tháng đến 60 tháng.
Tín dụng dài hạn: là tín dụng có thời gian từ 60 tháng trở lên.

Tài sản lưu động thường có vòng quay trên một lần trong một năm. Do vậy,
Ngân hàng cấp tín dụng ngắn hạn với thời gian từ 1 năm trở xuống.
Các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang
thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu, có yêu cầu tài trợ trên 5
năm, thậm chí có thể tới 10 năm.
4.2. Phân loại theo hình thức tín dụng: Gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho
thuê.
Chiết khấu thương phiếu là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu
một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ).
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải trả cả gốc và lãi trong thời gian xác định.
Bảo lãnh là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho
khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản để khách hàng thuê theo
những thoả thuận nhất định. Sau thời gian đó, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi
cho ngân hàng.
4.3. Phân loại theo tài sản đảm bảo.
Tín dụng có thể được phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của
chính khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cấm cố tài sản.
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản
mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả
nợ cho Ngân hàng.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải
ký hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài
sản đảm bảo như quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài
chính của người thứ 3, … có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo
quản tài sản đảm bảo.
4.4. Phân loại tín dụng theo rủi ro.

Hình thức phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lãi tình an
toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như
khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm. Khách hàng gặp
thiên tai, khách hàng chậm nộp báo cáo tài chính…
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn
và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn….
Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế
chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
II. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI NỀN KINH
TẾ.
1. Tín dụng trung –dài hạn:
Là những khoản tín dụng có thời hạn trên 12 tháng với mục đích là sửa chữa
khôi phục, thay thế tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật hợp lí hoá sản xuất, đổi mới
công nghệ và xây dựng những công trình mới.
2. Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn
2.1. Tính rủi ro lớn.
Bản chất của tín dụng trung –dài hạn khác so với tín dụng ngắn hạn là thời
hạn cho vay dài hơn. Tín dụng ngắn hạn đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn hạn do
đó có tính nâng cao, có thể xem như là một bộ phận đảm bảo khả năng thanh toán
của ngân hàng. Trái lại, tín dụng dài hạn thương được đầu tư vào mở rộng sản xuất,
xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị khoa học công nghệ, dây chuyền sản
xuất hiện đại, tức là các dự án chưa có khả năng sinh lời trong thời gian ngắn nên
thời hạn của các khoản tín dụng này thường dài và chỉ được hoản trả khi xuất hiện
nguồn thu từ dự án, mà thời hạn cho vay càng dài thì tính rủi to càng cao.
2.2. Lãi suất cao.
Đặc điểm này thực chất là hậu quả của đặc điểm trên. Một khoản vay chứa
đựng nhiều rủi ro hơn chắc chắn phải trả lãi suất cao hơn để có thể bù đắp cho
những rủi ro có thể xảy ra. Tuy vậy, đã có thời kỳ (năm 1996) chúng ta duy trì lãi

suất cho vay trung và dài hạn nhỏ hơn lãi suất cho vay ngắn hạn đây là một sự bất
hợp lý mà sau này chúng ta đã chấn chỉnh được.
2.3. Mục đích của vay trung và dài hạn.
Là để đầu tư mở rộng sản xuất, mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ
tầng, đổi mới dây chuyển sản xuất…. Tức là những dự án chưa thể sinh lời trong
thời gian ngắn, trong khi mục đích của cho vay ngắn hạn là để phục vụ chỉ tiêu,
mua nguyên vật liệu, trả tiền lương, bổ sung vốn lưu động… tức là để đáp ứng nhu
cầu thanh toán ngắn hạn. Chính việc sử dụng vốn vào các mục đích khác nhau, các
khoản tín dụng đầu tư chiều rộng cũng như chiều sâu phải có thời hạn dài hơn để
đợi cho đến khi có nguồn thu xuất hiện từ Dự án.
3. Các vấn đề cơ bản của tín dụng trung và dài hạn
3.1. Nguồn cho vay trung –dài hạn
- Vốn tự có và các quỹ của ngân hàng
- Vốn được từ phát hành kỳ phiếu hoặc huy động tiền gửi định kỳ dài hạn.
- Một phần vốn huy động trong nước có thời hạn dưới 1 năm : trên cơ sở quy
định của Thống đốc ngân hàng nhà nước, mức độ chính phụ thuộc vào tình hình
hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ
- Vốn uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư
của nhà nước, của các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước.
3.2. Đối tượng cho vay trung và dài hạn
Đó là các chi phí cầu thành trong tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây
dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học công
nghệ bao gồm : giá trị vật tư, máy móc thiết bị, công nghệ chuyển giao, sáng chế
và phát minh, chi phí nhân công, giá thuê và chuyển nhượng đất đài, giá thuê mua
các tài sản khác trong khuôn khổ luật định, chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự
án đầu tư và các chi phí khác.
Mức cho vay đối với một dự án đầu tư bằng tổng mức vốn đầu tư của dự án
trừ đi vốn tự đầu tư cho dự án của bên vay, nhưng tối đa bằng 70% giá trị tài sản
thế chấp, cầm cố.
3.3. Thời hạn cho vay trung –dài hạn

Thời hạn cho vay là thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền
vay cho đến khi bắt đầu trả nợ gốc và lãi tiền vay đã được thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Quy định về thời hạn tín dụng trung
và dài hạn có sự khác nhau giữa các nước, và ở Việt Nam quy định:

×