Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Giải pháp điều hành chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 89 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới. Cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu
đầy biến động, các giao dịch kinh tế, tiền tệ ngày càng trở nên phức tạp hơn. CSTT
ở Việt Nam trong thời gian qua gặp nhiều thách thức và bộc lộ một số hạn chế. Cơ
chế điều hành CSTT (giai đoạn trước năm 2012) tỏ ra không hiệu quả trong việc
kiểm soát lạm phát. Từ năm 2004 đến năm 2011, lạm phát cao và diễn biến phức
tạp, kinh tế vĩ mô bất ổn. Mặc dù từ năm 2012 đến nay, cơ bản lạm phát đã được
kiềm chế ở dưới mức một con số, tuy nhiên, cho dù lạm phát ở mức khá thấp được
duy trì trong năm năm qua nhưng không có sự cam kết nào của NHNN về ổn định
giá cả thì những kỳ vọng về tăng giá cả luôn là tiềm ẩn và có thể quay trở lại gây
ảnh hưởng đến sự ốn định và phát triển bền vững kinh tế của Việt Nam. Hơn thế
nữa, quá trình điều hành CSTT của NHNN thời gian qua cũng gặp nhiểu sức ép do
cùng lúc phải đạt được nhiều mục tiêu như kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng,
vừa ổn định lãi suất thị trường vừa ổn định tỷ giá, đảm bảo thanh toán, xử lý nợ xấu,
hỗ trợ NSNN... Chính việc thực hiện nhiều mục tiêu (mặc dù thời gian qua NHNN
cũng đã có thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu nhưng vẫn chịu nhiều sức ép và gặp khó
khăn trong công tác xác định mục tiêu ưu tiên) và giữa các mục tiêu điều hành của
CSTT cũng không được xác định một cách rõ ràng, chưa đảm bảo tính nhất quán
giữa mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, các mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng
đã gây khó khăn và giảm tính hiệu quả trong điều hành CSTT thời gian qua, một số
quyết định của NHNN còn mang nặng tính hành chính...
Vấn đề này đặt ra cho Việt Nam tìm kiếm một cơ chế điều hành CSTT cho
phép kiểm soát lạm phát hiệu quả hơn, đảm bảo vừa kiềm chế được lạm phát vừa
tiếp tục giữ vững tăng trưởng ở mức hợp lý.
Cùng với quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, các
luồng ngoại tệ chảy vào/ra khởi Việt Nam từ hoạt động xuất, nhập khẩu, đầu tư


nước ngoài trực tiếp và gián tiếp... biến động tương đối mạnh đã làm cho việc điều


2

hành CSTT trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi việc điều hành CSTT phải ngày càng linh
hoạt, phản ứng nhanh nhạy với sự biến động của thị trường trong nước và quốc tế,
đảm bảo ổn định tiền tệ, góp phần kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Xu hướng thế giới điều hành CSTT theo lạm phát chỉ có một mục tiêu. Các nước
điều hành CSTT theo cơ chế LPMT đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Theo Ủy ban kinh tế của Quốc hội, kinh nghiệm nhiều quốc gia trên thế giới
cho thấy LPMT có thể là lựa chọn hợp lý cho CSTT của Việt Nam trong thời gian
tới nếu đáp ứng được những điều kiện cần thiết. Theo đó, duy trì mức lạm phát hợp
lý là mục tiêu hàng đầu của CSTT để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng trong phiên trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII
cũng đã nhấn mạnh chính sách “ chủ động điều hành thực hiện LPMT”.
Tuy nhiên, để điều hành CSTT theo LPMT tại Việt nam, cần đảm bảo nhiều
điều kiện và các giải pháp điều hành. Các giải pháp nào để điều hành CSTT theo
LPMT một cách hiệu quả. Chính vì vậy em chọn đề tài: “Giải pháp điều hành
chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu
thực hiện luận văn tốt nghiệp cao học ngành Tài Chính Ngân hàng của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu thực trạng điều hành CSTT của Việt Nam giai đoạn 2011
đến 2015 và luận chứng sự cần thiết phải đổi mới phương thức điều hành
CSTT theo LPMT nhằm đề xuất các giải pháp để đảm bảo hiệu quả điều hành
CSTT theo LPMT.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Một là, đánh giá, phân tích cơ chế điều hành CSTT ở Việt Nam giai đoạn từ
2011 đến 2015, những thành công, hạn chế, nguyên nhân hạn chế trong việc điều

hành CSTT ở Việt Nam, mức độ đáp ứng các điều kiện cơ chế LPMT trong tổ chức
điều hành CSTT.
Hai là, nghiên cứu khả năng đáp ứng các điều kiện áp dụng cơ chế
LPMT của Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp để đảm bảo hiệu quả điều


3

hành CSTT theo LPMT.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Để làm rõ các nội dung trên, nghiên cứu sẽ trả lời các câu hỏi sau:
1/Thực trạng điều hành CSTT của Việt Nam từ 2011 đến 2015, những thành
công, hạn chế, nguyên nhân hạn chế?
2/ Việt Nam đã đáp ứng được các điều kiện để áp dụng CSTT theo LPMT
chưa? Đáp ứng ở mức độ nào?
3/ Giải pháp hoàn thiện các điều kiện để áp dụng CTTT theo LPMT và các giải
pháp điều hành CSTT theo LPMT như thế nào?
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Nghiên cứu tập trung vào cơ chế điều hành
CSTT của Việt Nam, kinh nghiệm của các nước trên thế giới về kiểm soát lạm
phát và từ đó đưa ra sự cần thiết lựa chọn CSTT theo LPMT trong điều hành
CSTT của Việt Nam.
Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu và phân tích về thực trạng điều hành
CSTT của Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2015, trên cơ sở phân tích kinh nghiệm
của các nước, đánh giá khả năng áp dụng của Việt Nam, đề xuất giải pháp điều
hành CSTT theo LPMT.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, cụ thể:
+ Phương pháp thu thập số liệu, phương pháp thống kê, phân tích, so sánh,
tổng hợp, phương pháp quy nạp, diễn giải kết hợp với nền tảng lý luận từ kiến thức

kinh tế học, tài chính - ngân hàng...
+ Luận văn cũng kết hợp tổng thuật các tài liệu nghiên cứu đã có từ trước
đến nay và phân tích định tính dựa trên số liệu tài chính - tiền tệ về hiệu quả của
CSTT trong thời gian qua. Ngoài ra tác giả đã sử dụng những đánh giá của các
chuyên gia am hiểu sâu về tài chính - tiền tệ làm cơ sở quan trọng để định vị mức
độ đáp ứng các điều kiện thực hiện CSLPMT của Việt nam hiện nay. (Các bài viết
trên các tạp chí, trang web...).


4

6. Đóng góp của đề tài
Một là, thông qua việc nghiên cứu tổng thể trên phương diện lý thuyết về
CSTT và CSLPMT, luận văn đã luận giải đầy đủ và khoa học để khẳng định được 4
nhóm điều kiện và hệ thống các chỉ tiêu đo lường, đánh giá mà các nền kinh tế phải
đáp ứng để có thể áp dụng CSLPMT bao gồm: (i) Mức độ độc lập về thể chế của
NHTW; (ii) Năng lực của NHTW; (iii) Hệ thống thị trường tài chính lành mạnh;
(iv) cấu trúc kinh tế phù hợp. Đây là khung quan trọng tạo cơ sở khoa học, làm căn
cứ để đánh giá NHTW các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam đã chuẩn bị và
hoàn thiện các điều kiện để áp dụng CSLPMT.
Hai là, Thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới từ
đó rút ra được những bài học bài học kinh nghiệm có giá trị vận dụng tại Việt Nam
khi áp dụng CSTT theo LPMT.
Ba là, thông qua các chỉ tiêu đo lường, luận văn đã định vị được mức độ đáp
ứng các điều kiện để áp dụng CSLPMT tại Việt Nam hiện nay, cho thấy Việt Nam
phải nỗ lực thì mới đáp ứng được các điều kiện áp dụng hiệu quả CSLPMT, thể
hiện trên cả 4 nhóm điều kiện. Từ đó đề xuất giải pháp hữu hiệu trong việc hoàn
thiện các điều kiện còn thiếu để Việt Nam có thể hướng tới áp dụng CSLPMT trong
giai đoạn tiếp theo.
Với những mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn kỳ vọng sẽ mang lại một

số đóng góp về mặt học thuật cũng như thực tiễn:
7. Tổng quan về lĩnh vực nghiên cứu
7.1. Tông quan nghiên cứu ngoài nƣớc
Có nhiều công trình nghiên cứu quốc tế về CSLPMT, các công trình tập
trung vào các nội dung cơ bản của CSLPMT bao gồm: (i) khái niệm, định nghĩa, và
phân loại CSLPMT; (ii) các yếu tố cơ bản của LPMT; (iii) những điều kiện tiên
quyết để áp dụng CSLPMT thành công; (iii) so sánh những lợi thế/bất lợi của việc
áp dụng CSLPMT so với các mục tiêu truyền thống (tỷ giá hối đoái, cung tiền, (iv)
kinh nghiệm thực tiễn của các quốc gia trong việc áp dụng CSLPMT và bài học rút
ra; và (v) các nội dung liên quan khác.


5

Khái niệm, các yếu tố chủ yếu của LPMT
Mishkin (2000, 2001) đưa ra tổng quan tình hình thực hiện LPMT ở các nền
kinh tế mới nổi và đang chuyển đổi, tác giả đề cập đến những ích lợi và bất lợi của
chiến lược CSTT lấy LPMT và một số bài học rút ra từ kinh nghiệm của một số
nước như Chile, Brazil. Tác giả cho rằng LPMT là một chiến lược CSTT (monetary
policy strategy) đã được sử dụng thành công ở các nước công nghiệp và đang trở
thành một sự lựa chọn hấp dẫn cho các nước có nền kinh tế thị trường mới nổi như
Chile, Brazil, CH Séc, Ba Lan, Nam Phi.
Theo tác giả, các nước đang phát triển (bao gồm các nước mới nổi và đang
chuyển đổi) đều đã trải qua khủng hoảng tài chính do thực hiện cơ chế tỷ giá hối
đoái cố định. Vì thế, việc tìm một neo khác cho CSTT thay cho cơ chế tỷ giá hối
đoái cố định là rất cần thiết. Trong công trình này, Mishkin đưa ra định nghĩa rõ
ràng về LPMT. Theo tác giả, lạm phát mục tiêu bao gồm 5 yếu tố chính: (i) công bố
ra công chúng mục tiêu lạm phát định lượng trong trung hạn; (ii) cam kết thế chế
nhằm ổn định giá cả như một mục tiêu chủ yếu của CSTT; (iii) chiến lược thông tin
bao gồm nhiều biến số không chỉ có tổng cung tiền hay tỷ giá hối đoái) được sử

dụng cho việc thiết lập công cụ chính sách; (iv) tăng tính minh bạch của chiến lược
CSTT thông qua việc thông báo với công chúng và thị trường về kế hoạch, mục
tiêu, những quyết định của NHTW; và (v) tăng trách nhiệm giải trình.
Lợi ích/bất lợi của CSLPMT
Mishkin (2000, 2001) đã chỉ ra các lợi ích chính của CSLPMT, như: (i)
cho phép NHTW tập trung vào các vấn đề trong nước và phản ứng với các cú
sốc tác động lên nền kinh tế; (ii) hiệu quả tương đối dù không cần có mối
quan hệ ổn định giữa cung tiền và lạm phát; và (iii) niềm tin của công chúng
và thị trường vào mục tiêu mà NHTW theo đuổi, do đó tăng tính minh bạch và
trách nhiệm giải trình của CSTT.
Tuy vậy, nghiên cứu cũng chỉ ra những bất lợi chính của CSLPMT, bao
gồm: (i) việc đánh đổi mục tiêu tăng trưởng và việc làm để đạt được lạm phát ổn
định; (ii) giảm trách nhiệm giải trình do lạm phát rất khó kiểm soát và độ trễ chính


6

sách dài; (iii) CSLPMT không giúp loại bỏ được tính lấn át của CSTK; (iv)
CSLPMT này đòi hỏi tính linh hoạt trong tỷ giá hối đoái, thế nhưng tỷ giá hối đoái
linh hoạt có thể làm tăng bất ổn tài chính (ổn định lạm phát không nhất thiết đi kèm
với môi trường vĩ mô/tài chính ổn định).
Kinh nghiệm các nước trong việc áp dụng và thực hiện LPMT
Một loạt các nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), bao gồm Masson,
Savastan, và Sharma (1997), Schaechter, Stone, và Zelmer (2000), Carare và các
cộng sự (2002) và Stone (2003) tập trung vào những khó khăn mà các nền kinh tế
mới nổi phải đối mặt nếu các nuớc này áp dụng LPMT. Các tác giả đưa ra các điều
kiện tiên quyết cần phải đáp ứng truớc khi đưa ra áp dụng CSLPMT. Tuy nhiên,
giữa các tác giả chưa có sự thống nhất về các điều kiện cần đuợc đáp ứng truớc khi
LPMT đuợc áp dụng vào các nền kinh tế mới nổi.
7.2. Tổng quan nghiên cứu trong nƣớc

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành năm 2007 của NHNN - “Nghiên

cứu việc điều hành chính sách tiền tệ bằng phương pháp lấy lạm phát làm mục tiêu
và cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ đến nền kinh tế Việt Nam”- KNH2005.07(
Nguyễn Văn Hà). Nghiên cứu đuợc triển khai sau khi Thống đốc NHNN Việt Nam
đã có đoàn khảo sát tại 3 nuớc Anh, Ba Lan, Hungary, thông qua báo cáo khảo sát
đã cho phép khẳng định cơ chế điều hành CSLPMT có thể vận dụng vào Việt Nam.
Đề tài cũng đã đưa ra các đánh giá về khả năng áp dụng, sự cần thiết áp dụng
CSLPMT và đưa ra giải pháp chủ yếu, lộ trình áp dụng LPMT của Việt Nam.
- Châu Thị Thu Ngân (2013): “Chính sách tiền tệ với lạm phát mục tiêu ở

Việt Nam”. Trong nghiên cứu cũng đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng
áp dụng thành công CSTT theo LPMT tại Việt Nam trong thời gian tới.
Ngoài ra còn có một số bài viết đã đề cập đến khuôn khổ CSLPMT, và phân
tích sơ bộ các điều kiện để có thể đưa ra áp dụng cơ chế điều hành CSTT này tại
Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo “ Khuôn khổ chính sách lạm phát mục tiêu - Lý thuyết
và thực tiễn” - Viện Chiến lược ngân hàng -Ngân hàng nhà nước Việt Nam -Tháng
12/2011. Đây là tập tài liệu với 15 bài viết của các tác giả, các nhà khoa học đến từ


7

các Bộ, Ngành, các trường đại học, Viện nghiên cứu. Với việc khái quát hóa cơ sở
lý luận của CSLPMT, phân tích các đặc điểm chính của CSLPMT, các điều kiện áp
dụng CSLPMT, kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp, cách thức thì đây là tài
liệu bổ ích cho tác giả để có thể có được nhũng nét khái quát nhất trong việc nghiên
cứu đề tài của mình.
Ngoài ra, trước đó cũng có một số bài viết đề cập đến khuôn khổ chính sách
tiền tệ CSLPMT, phân tích các điều kiện để có thể đưa ra áp dụng cơ chế điều hành
chính sách tiền tệ này tại Việt Nam. Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Nghĩa, Đỗ Thị

Đức Minh đã đề cập đến tổng quan về khuôn khổ CSLPMT, phân tích các điều kiện
để có thể đưa ra áp dụng cơ chế điều hành CSTT này tại Việt Nam. Đa số các tác
giả này cho rằng hiện tại Việt Nam chưa áp dụng được cơ chế điều hành CSLPMT
hoàn toàn, tuy nhiên, cần có các bước, có lộ trình để chuẩn bị các điều kiện cho việc
áp dụng CSLPMT. Tô Kim Ngọc (2012) đã đưa ra các phiên bản của CSLPMT sau
giải đoạn khủng hoảng; Phí Trọng Hiển (2005), Nguyễn Văn Tiến và Vũ Hoàn
Phương (2005) nghiên cứu so sánh kinh nghiệm áp dụng CSLPMT của một số nước
và đưa ra gợi ý cho Việt Nam.
Bên cạnh đó, khá nhiều nghiên cứu đã tập trung vào chủ đề CSTT ở Việt Nam.
Các nghiên cứu này chủ yếu đi sâu phân tích vào các khía cạnh liên quan đến CSTT
như: mối liên hệ giữa CSTT và các chính sách kinh tế vĩ mô và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện CSTT (Dương Thu Hương 2005); mối liên hệ giữa các tài khoản vĩ mô và
việc xây dựng và điều hành CSTT (Nguyễn Thị Kim Thanh 2004); điều hành CSTT
trong điều kiện tự do hóa các giao dịch vốn (Nguyễn Ngọc Bảo 2008).
Trong khi đó, một số công trình nghiên cứu về việc sử dụng và hoàn thiện
các công cụ CSTT, cơ chế truyền tải tác động của CSTT (Nguyễn Thị Kim Thanh
2005; Trần Thị Lộc 2002). Trần Thọ Đạt và các cộng sự (2010) và các tác giả khác
đã nghiên cứu về cầu tiền trong hoạch định CSTT ở Việt Nam. Trong khi đó, một
số tác giả nghiên cứu về cung tiền, mối liên hệ giữa cán cân thanh toán và điều hành
cung tiền tại Ngân hàng Nhà nước (Nguyễn Đồng Tiến 2001). Một số công trình
nghiên cứu đề cập tới vấn đề cải cách Ngân hàng Nhà nước nhằm nâng cao tính độc


8

lập của Ngân hàng Trung ương để thực thi CSTT hiệu quả hơn (như Vũ Thế Vậc
2006, v.v.).
Nhìn chung, các nghiên cứu về khả năng áp dụng CSTT theo LPMT ở
Việt Nam mới chỉ đưa ra được những nét tổng quan và khái quát nhất, các
nghiên cứu này chưa giải trình cụ thể về lợi ích từ việc áp dụng các mục tiêu

CSTT khác nhau, giúp Chính phủ (CP) có các lựa chọn để xem xét. Bản thân
các nghiên cứu này còn cố gắn định vào việc áp dụng ở Việt Nam, trong khi
chưa giải thích được thật thuyết phục là tại sao nên áp dụng chính sách này.
Nói chung, các nghiên cứu hầu như mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu khuôn
khổ lý thuyết và phân tích kinh nghiệm quốc tế; Một số nghiên cứu cũng đưa
ra các điều kiện/nhóm điều kiện để thực hiện LPMT tuy nhiên mới chỉ dừng
lại ở việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và phân tích sơ khai trên phương
diện lý thuyết. Việc nghiên cứu chi tiết, đánh giá, định vị được Việt Nam hiện
nay đang ở đâu và đáp ứng được các điều kiện ở mức độ nào là chưa có.
Từ những giá trị tham khảo của những nghiên cứu cùng với phân tích
thực trạng điều hành CSTT của Việt Nam từ năm 2011 đến 2015 là cơ sở quan
trọng giúp em thực hiện đề tài: “ Giải pháp điều hành chính sách tiền tệ
theo lạm phát mục tiêu tại Việt Nam” để từ đó đề các giải pháp hoàn thiện
các điều kiện mà Việt nam còn thiếu để có thể áp dụng CSTT theo LPMT một
cách hiệu quả cho giai đoạn từ nay đến năm 2020.
8. Kết cấu của Luận văn
kết cấu của luận văn được trình bày qua 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1 :Tổng quan về Chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu.
Chương 2: Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam giai đoạn
2011 đến 2015 và điều kiện áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu.
Chương 3: Giải pháp đảm bảo hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ theo lạm
phát mục tiêu ở Việt Nam.


9

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ THEO LẠM PHÁT MỤC TIÊU
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

1.1.1.Khái niệm chính sách tiền tệ
CSTT là tổng thể các biện pháp của nhà nước pháp quyền, là một bộ phận
của chính sách kinh tế tài chính của một quốc gia. Thông qua việc cung ứng những
phương tiện thanh toán cần thiết cho nền kinh tế và tạo ra những khuôn khổ mang
tính pháp lý cho hoạt động tiền tệ trong nền kinh tế, CSTT hướng đến mục đích ổn
định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội, nâng cao đời sống của người lao động ( Lê thị Tuyết Hoa, 2011).
Tại khoản 1 điều 3 của Luật NHNN Việt Nam năm 2010 quy định:
“CSTT quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền
biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp
để thực hiện mục tiêu đề ra”.
Như vậy, về bản chất, CSTT là việc Ngân hàng trung ương (NHTW) chủ
động sử dụng các công cụ để tác động đến các điều kiện (mức cung tiền hoặc lãi
suất thị trường) nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong mỗi thời kỳ mà
trọng tâm là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Để đảm bảo điều
hành CSTT đi đúng hướng và hiệu quả, NHTW thường xây dựng khung CSTT cho
quốc gia về dài hạn. Mặc dù có sự khác nhau về việc xây dựng và điều hành CSTT
ở các nước nhưng nhìn chung việc xây dựng khuôn khổ CSTT đều bao gồm các
bước: lựa chọn hệ thống mục tiêu CSTT; xác định cơ chế truyền dẫn của CSTT; và
lựa chọn các công cụ CSTT để điều hành.
1.1.2.Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ
Hệ thống mục tiêu của CSTT bao gồm: Mục tiêu cuối cùng, mục tiêu trung
gian và mục tiêu hoạt động.


10

- Mục tiêu cuối cùng: CSTT có vị trí và vai trò quan trọng và nó là hoạt
động có ý thức của NHTW nên những tác động của nó đến nền kinh tế là nằm trong

hệ thống mục tiêu của NHTW. Tuy nhiên, tùy vào tình hình kinh tế xã hội của mỗi
quốc gia khác nhau mà mỗi nước sẽ đeo đuổi những mục tiêu khác nhau. Mục tiêu
cuối cùng của CSTT có thể là: lạm phát thấp và ổn định, tăng trưởng kinh tế, tạo
công ăn việc làm, ổn định thị trường tài chính, ổn định lãi suất, ổn định thị trường
ngoại hối.
- Mục tiêu trung gian: Bao gồm các chỉ tiêu được NHTW lựa chọn nhằm
đạt được mục đích cuối cùng của CSTT. Việc lựa chọn chỉ tiêu nào làm mục tiêu
trung gian thì phụ thuộc vào NHTW mỗi quốc gia, nhưng các chỉ tiêu đó đều phải
thỏa mãn ba tiêu chuẩn sau: (i) Có thể đo lường được chính xác; (ii) NHTW có khả
năng kiểm soát kịp thời; (iii) Có mối liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng và mục
tiêu hoạt động. Một số mục tiêu trung gian mà các quốc gia thường lựa chọn bao
gồm: Cung tiền, lãi suất. và tỷ giá hối đoái. Một sự sai lệch của các biến số này khỏi
giá trị kỳ vọng có thể đồng nghĩa với một sự sai lệch của mục tiêu cuối cùng khỏi
giá trị mục tiêu và vì thế làm thay đổi kết quả thực thi CSTT.
- Mục tiêu hoạt động: Mục tiêu hoạt động của CSTT là các biến tiền tệ mà
NHTW có thể tác động hoặc kiểm soát trực tiếp hơn so với mục tiêu trung gian qua
đó tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Tương tự như mục tiêu trung gian,
các tiêu chuẩn lựa chọn chỉ tiêu làm mục tiêu hoạt động bao gồm các điều kiện: (i)
Chỉ tiêu đó phải đo lường được nhằm tránh những suy diễn thiếu chính xác làm sai
lệch dấu hiệu của CSTT; (ii) Phải có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với các công
cụ của CSTT; (iii) Có mối quan hệ trực tiếp và ổn định với mục tiêu trung gian
được lựa chọn. Các chỉ tiêu thường được NHTW lựa chọn làm mục tiêu hoạt động
bao gồm: Các chỉ tiêu đo lường dự trữ của NH (như tổng dự trữ, dự trữ đi vay, hoặc
dự trữ không vay); Các mức lãi suất ngắn hạn (như lãi suất qua đêm liên ngân hàng,
lãi suất nghiệp vụ tái cấp vốn, lãi suất đấu thầu trên nghiệp vụ thị trường mở); Chỉ
số về điều kiện tiền tệ kết hợp các biến số lãi suất và tỷ giá.


11


Lựa chọn mục tiêu CSTT được coi là vấn đề quan trọng và khó khăn nhất
trong xây dựng và thực thi CSTT, nó quyết định tính hiệu quả hay không hiệu quả
của CSTT. Vì vậy có thể nói rằng mục tiêu của CSTT quyết định cả một khuôn khổ
(hay chiến lược) CSTT. Việc lựa chọn các mục tiêu CSTT phù hợp được quyết định
bởi tính cấp thiết của mục tiêu, mức độ đánh đổi giữa các mục tiêu và khả năng đạt
được các mục tiêu.
Trong lịch sử điều hành CSTT của NHTW cho thấy, NHTW có thể lựa chọn
điều hành CSTT đa mục tiêu hoặc điều hành CSTT đơn mục tiêu. Điều hành CSTT
đa mục tiêu người ta thường gọi là điều hành theo phong cách “truyền thống”. Các
quốc gia có xu hướng lựa chọn CSTT theo đuổi nhiều mục tiêu như ổn định giá cả,
tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là NHTW
không thể đồng thời đạt được tất cả các mục tiêu này bởi có sự mâu thuẫn giữa các
mục tiêu trong ngắn hạn. Chính vì vậy, tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế từng giai
đoạn cũng như tính cấp thiết của mục tiêu, mà NHTW sẽ cân nhắc thứ tự ưu tiên
cho từng mục tiêu trong ngắn hạn. Ví dụ như, trong điều kiện thông thường, ưu tiên
hàng đầu của NHTW các nước là ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát. Mặc dù vậy,
trong điều kiện suy thoái kinh tế hoặc khủng hoảng, nền kinh tế có dấu hiệu tăng
trưởng chậm, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng thì NHTW có thể can thiệp để chống suy
thoái kinh tế và giảm tỉ lệ thất nghiệp, theo đó NHTW ưu tiên theo đuổi mục tiêu
tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm.
Thông thường NHTW thường theo đuổi chính sách đa mục tiêu trong ngắn
hạn và có sự ưu tiên cho từng mục tiêu trong từng giai đoạn cụ thể. Các NHTW lựa
chọn mục tiêu cuối cùng là mục tiêu duy nhất thì chắc chắn đó là mục tiêu ổn định
giá cả vì ổn định giá cả là phương tiện để đạt được mục tiêu cuối cùng là thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế một cách vững chắc (Nguyễn Duệ 2000 ). NHTW không thể lựa
chọn mục tiêu tăng trưởng cao là mục tiêu cuối cùng duy nhất vì bất kì sự tăng
trưởng kinh tế cao nào cũng kéo theo tăng tổng phương tiện thanh toán vào nền
kinh tế, và đây là mầm mống để lạm phát gia tăng. Tuy nhiên không vì vậy mà
NHTW cũng không thể loại bỏ mục tiêu tăng trưởng kinh tế vì nếu không tăng



12

trưởng kinh tế thì việc theo đuổi mục tiêu tỉ lệ việc làm cao của họ thực sự trở thành
vô nghĩa. Nền kinh tế có thể toàn dụng nhân công khi tăng đầu tư, số lượng và quy
mô doanh nghiệp phát triển. Nhưng giả định lựa chọn mục tiêu cuối cùng là kép, tức
là vừa bảo đảm lạm phát thấp và vừa bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao thì vấn đề lại
trở nên phức tạp. Một nền kinh tế tăng trưởng cao sẽ khó có thể có lạm phát thấp.
Sự mâu thuẫn giữa mục tiêu lạm phát thấp và mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao quả
thực là rào cản lớn cho NHTW chọn mục tiêu cuối cùng kép. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, do áp lực nhiệm vụ chính trị nên NHTW có thể vừa theo đuổi
mục tiêu cuối cùng kép là lạm phát thấp và tăng trưởng kinh tế cao. Vấn đề lạm
phát thấp không có nghĩa là lạm phát ở mức quá thấp, vì nếu duy trì lạm phát ở mức
quá thấp thì xuất hiện rủi ro thiểu phát, lúc đó sẽ làm tăng tỉ lệ không trả nợ, tổ chức
cho vay phải đối mặt với rủi ro và do vậy người đi vay cũng gặp nhiều cản trở. Lạm
phát thấp nhưng phải duy trì ổn định thì mới kích thích được đầu tư và duy trì được
tăng trưởng kinh tế. Điều này có nghĩa là lạm phát thấp nhưng phải là mức lạm phát
thấp và ổn định, còn tăng trưởng kinh tế cao cũng cần được hiểu không phải là tăng
trưởng “nóng” mà đó là tăng trưởng cao và bền vững. Giả định nền kinh tế tăng
trưởng thực cao hơn mức tăng trưởng ổn định thì đó là nền kinh tế phát triển quá
nóng, tuy nền kinh tế có sự phồn thịnh cao nhưng không thể mãi duy trì vì theo sau
sự phồn thịnh là sự suy thoái.
CSTT đơn mục tiêu là CSTT chỉ theo đuổi một mục tiêu duy nhất và đó cũng
là mục tiêu cuối cùng. Và đương nhiên mục tiêu cuối cùng đó là mục tiêu lạm phát
thấp vì một nền kinh tế không thể kiểm soát được lạm phát cũng đồng nghĩa với
việc nó đang rơi vào bất ổn định về kinh tế và xã hội. So với điều hành CSTT đa
mục tiêu thì việc điều hành CSTT đơn mục tiêu có những ưu điểm hơn do: (i) chỉ có
một mục tiêu nên NHTW sẽ lựa chọn được những công cụ có trọng lượng và quyết
định nhất để tác động và đạt được mục tiêu đó; (ii) thước đo hiệu quả của NHTW là
rõ ràng và cụ thể; (iii) tạo điều kiện tốt hơn cho việc xây dựng và triển khai thực

hiện chính sách của NHTW do đó đẽ đạt được kỳ vọng hơn; (iv) do mục tiêu đơn


13

nhất nên hiệu quả của mục tiêu này sẽ tạo nền tảng cho việc thực thi các mục tiêu
kinh tế vĩ mô khác ( Nguyễn Văn Hà 2007).
1.1.3. Cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ
CSTT tác động tới hành vi kinh tế thông qua các kênh khác nhau. Có 4 kênh
qua đó CSTT tác động tới các khu vực kinh tế bao gồm: kênh lãi suất, kênh tín
dụng, kênh tài sản khác và kênh tỷ giá.
1.1.3.1. Kênh tín dụng
Kênh tín dụng là một tập hợp các yếu tố làm phóng đại và lan truyền các tác
động của lãi suất. Hay nói theo cách khác, kênh tín dụng là một cơ chế tăng cường,
nó không phải là một kênh hoàn toàn độc lập hay song song với các kênh khác. Ở
các nước có thị trường tín dụng tư nhân kém phát triển hoặc chịu sự can thiệp của
CP, tác động của CSTT đến tổng cầu thông qua việc thay đổi khối lượng tín dụng
còn lớn hơn là thông qua lãi suất. Khi các điều kiện tiền tệ bị thắt chặt, các ngân
hàng (NH) không muốn chỉ dựa duy nhất vào việc tăng lãi suất để hạn chế khối
lượng tín dụng mà còn muốn thắt chặt các điều khoản tín dụng để ngăn chặn khách
hàng đầu tư vào các dự án rủi ro. Điều này làm giảm cung tín dụng. Bên cạnh đó,
CSTT cũng tác động đến khả năng tiếp cận nguồn tín dụng của người đi vay. Một
người đi vay có tình trạng tài chính không lành mạnh, giá trị tài sản ròng nhỏ, sẽ
phải chịu chi phí lớn hơn và các điều kiện tín dụng khắt khe hơn.
1.1.3.2. Kênh lãi suất
Khi thực hiện thắt chặt tiền tệ (giảm cung tiền), nhu cầu về trái phiếu sẽ
tăng trong khi nhu cầu về tiền giảm. Nếu giá cả không điều chỉnh kịp thời, cung
tiền thực tế sẽ giảm, làm tăng lãi suất, chi phí vốn tăng. Chỉ tiêu đầu tư giảm,
làm giảm tổng cầu và sản lượng. Cơ chế này diễn ra bên tài sản nợ của bảng
tổng kết tài sản của NH. Các nhà kinh tế đã nhấn mạnh vai trò của lãi suất

trong việc phản ứng trước những thay đổi của CSTT cũng như trong việc tác
động tới các hoạt động kinh tế thực.
Hiệu quả của cơ chế truyền dẫn được quyết định bởi: (i) Khả năng kiểm soát
của NHTW đối với mức lãi suất TTLNH; (ii) Mức độ ảnh hưởng lẫn nhau của các


14

mức lãi suất thị trường. Tuy nhiên, các yếu tố này lại chịu ảnh hưởng bởi các điều
kiện kinh tế, đặc điểm hệ thống tài chính, mức độ phân đoạn của thị trường tài chính
và ảnh hưởng của kỳ vọng thị trường đối với những thay đổi trong chính sách.
Trong điều kiện thuận lợi, sự thay đổi mặt bằng lãi suất sẽ làm ảnh hưởng
đến chi phí biên và chi phí bình quân của nhu cầu đầu tư và tiêu dùng. Điều đó được
lý giải khi lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay thay đổi sẽ làm giá quyền sử dụng
vốn mới cũng như chi phí cơ hội của nhu cầu tiêu dùng mới thay đổi. Sự thay đổi về
giá dẫn đến những thay đổi trong quyết định đầu tư và tiêu dùng thông qua hai kênh
gọi là hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập. Khi mặt hàng lãi suất tăng, các chủ
thể có xu hướng giảm nhu cầu vay do chi phí vốn tăng, đồng thời nhu cầu tiêu dùng
cũng giảm xuống do chi phí cơ hội của tiêu dùng tăng. Bên cạnh đó, khi lãi suất thị
trường thay đổi, các hoạt động đảo nợ, trả nợ trước hạn, các hoạt động thỏa thuận
lại giá cả của các hợp đồng tín dụng và các hợp đồng tiết kiệm sẽ tăng lên. Sự thay
đổi nghĩa vụ nợ (đối với các hợp đồng tín dụng) và mức sinh lời bình quân (đối với
hợp đồng tiết kiệm) làm ảnh hưởng đến giá bình quân, từ đó tác động đến các quyết
định đầu tư và tiêu dùng.
1.1.3.3. Kênh giá các tài sản khác
Các tài sản khác ở đây được hiểu bao gồm trái phiếu, cổ phiếu và bất
động sản. Khi lãi suất thị trường tiền tệ biến động sẽ ảnh hưởng đến giá thị
trường của cả tài sản tài chính và tài sản thực qua đó sẽ ảnh hưởng đến tình
trạng tài chính của các chủ sở hữu và cuối cùng quyết định hành vi chi tiêu của
họ. Bằng sự di chuyển vốn giữa các thị trường, giá các tài sản tài chính và bất

động sản sẽ tăng lên khi mức lãi suất thị trường giảm. Khi đó sẽ thúc đẩy nhu
cầu đầu tư và tiêu dùng của các chủ sở hữu. Tuy nhiên, ở đây phải tính đến cơ
cấu của các chủ sở hữu (thu nhập và tỷ trọng các tài sản nhạy cảm với lãi suất
trong danh mục của người đầu tư) để đánh giá mức độ tác động. Trong đó, khi
giá trị tài sản tăng và thu nhập của chủ sở hữu càng cao thì mức tiêu dùng biên
của họ càng thấp và nếu nhà đầu tư có tỷ trọng các tài sản nhạy cảm với lãi suất
thấp thì cơ chế điều chỉnh thông qua giá tài sản là không hiệu quả.


15

Tác động này còn được thể hiện ở sự thay đổi của tỷ lệ giữa giá trị thị trường
và giá thay thế tài sản của công ty tại thời điểm đó. Khi tăng lượng tiền cung ứng
mà giá cổ phiếu tăng thì giá thị trường của công ty có thể cao hơn giá thay thế tài
sản của nó. Trong trường hợp này, mức giá vốn hiệu quả của công ty giảm dẫn đến
việc tăng nhu cầu đầu tư mới. Khi đó, CSTT vẫn có thể tác động đến nhu cầu đầu tư
của các chủ thể kinh tế ngay cả khi lãi suất tín dụng không có hoặc ít phản ứng với
tác động của chính sách. Nhưng, cơ chế điều chỉnh này chỉ có hiệu lực khi thị
trường thứ cấp cho tài sản tài chính đạt được độ sâu và mức độ hiệu quả nhất định.
1.1.3.4. Kênh tỷ giá
Khả năng truyền dẫn tác động CSTT của tỷ giá được xem xét trên các góc độ sau:
-Tỷ giá tác động đến chi tiêu dùng: Khi tỷ giá thả nổi, thắt chặt tiền tệ
làm tăng lãi suất dẫn đến việc đồng nội tệ lên giá danh nghĩa. Sự lên giá này
ảnh hưởng đến nền kinh tế thông qua: (i) nhu cầu xuất khẩu giảm, từ đó làm
tổng cầu giảm do tương quan so sánh giá hàng hóa xuất khẩu tăng lên; (ii) sự
thay đổi tỷ giá dẫn đến những biến động giá trị tài sản ròng của các chủ thể
kinh tế khi họ nắm giữ các khoản mục bằng ngoại tệ, những biến động của tỷ
giá sẽ cải thiện hoặc làm xấu đi tình trạng tài chính của các chủ thể và từ đó
ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư và tiêu dùng.
Trong cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý, hiệu quả của CSTT qua tác động của

tỷ giá bị ảnh hưởng bởi: phạm vi dao động của tỷ giá và mức độ thay thế giữa tài
sản nội tệ và tài sản ngoại tệ. Nếu sự thay thế này là không hoàn hảo nghĩa là không
có tình trạng đô la hóa hoặc mức độ này thấp, thì sự độc lập của mức lãi suất nội tệ
so với mức lãi suất quốc tế sẽ cho phép CSTT ảnh hưởng đến tỷ giá thực và do đó,
tác động vào mức xuất khẩu ròng của nền kinh tế. Ngược lại, đối với những quốc
gia có mức độ đô la hóa cao, lãi suất nội tệ không thể độc lập thay đổi dưới tác động
của CSTT mà còn chịu ảnh hưởng của lãi suất quốc tế, khi đó khả năng điều chỉnh
gián tiếp thông qua cơ chế tỷ giá sẽ bị hạn chế rất nhiều.
1.2. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ LẠM PHÁT MỤC TIÊU
1.2.1. Khái niệm chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu


16

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) định nghĩa như sau: “CSTT lấy lạm phát làm
mục tiêu là một bản thông báo ra công chúng về chỉ tiêu trung hạn của lạm phát
cũng như uy tín của cơ quan thẩm quyền về tiền tệ để đạt mục tiêu này. Các yếu tố
khác bao gồm phổ biến thông tin về các kế hoạch và mục tiêu của nhà hoạch định
CSTT tới công chúng và thị trường, cũng như trách nhiệm giải trình của NHTW để
đạt được các chỉ tiêu lạm phát của mình. Các quyết định về CSTT sẽ dựa trên độ
lệch dự báo lạm phát (một cách hoàn toàn hay rõ ràng) đóng vai trò là chỉ tiêu trung
gian của CSTT”.
Theo NHTW Châu Âu (ECB) (2004) định nghĩa CSLPMT là “một chiến
lược CSTT nhằm mục tiêu duy trì ổn định giá cả bằng cách tập trung vào khoảng
chênh giữa dự báo lạm phát được công bố với mức CSLPMT đã được công bố”.
Quan điểm của ECB cho rằng trong cơ chế của LPMT, dự báo lạm phát là trọng tâm
của việc lập và công bố chính sách, đồng nghĩa với việc “NHTW thông báo các
quyết định CSTT dưới hình thức điều chỉnh đối với độ lệch của dự báo lạm phát
theo một thước đo cụ thể so với LPMT cụ thể trong một thời gian cụ thể”.
Theo quan điểm của Nguyễn Văn Hà (2007), LPMT được miêu tả như một

cơ chế điều hành CSTT dựa trên nền tảng sử dụng việc dự báo lạm phát làm mục
tiêu trung gian. Theo đó NHTW căn cứ vào chỉ tiêu lạm phát dự báo năm kế hoạch
cũng như độ lệch so với dự báo đó trong thực tế từ đó đưa ra những quyết định tiền
tệ để thực hiện mục tiêu đó và đây là mục tiêu duy nhất của họ.
1.2.2. Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu
1.2.2.1. Nội dung của cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu
Cách thức NHTW điều hành CSTT theoLPMT như sau:
Thứ nhất, NHTW phải xác định trước một mục tiêu lạm phát trung hạn và
mục tiêu lạm phát này được xác định rõ ràng về mặt định lượng bằng một con số
hoặc một khoảng biên độ xác định sẽ được công bố trước công chúng. Điều này có
nghĩa là NHTW phải có trách nhiệm hàng đầu về việc thực hiện mục tiêu lạm phát
đó và đó là mục tiêu duy nhất của NHTW, coi đó là cái chốt để điều hành CSTT.


17

Thứ hai, NHTW cần thiết lập một mô hình dự báo thông qua sử dụng các
chỉ số thông tin như tổng cung tiền, lãi suất, tỷ giá,… những chỉ số ảnh hưởng đến
lạm phát để dự đoán tỷ lệ lạm phát trong tương lai.
Thứ ba, dựa trên độ lệch dự báo lạm phát mà NHTW sẽ xây dựng kế hoạch
điều hành CSTT thông qua sử dụng các công cụ của mình để tác động, thực hiện
mục tiêu lạm phát sao cho tỷ lệ lạm phát thực tế bằng hoặc gần bằng với tỷ lệ lạm
phát mà NHTW thiết lập.
Thứ tƣ, báo cáo đánh giá lại hiệu quả, mức độ đạt được của CSTT theo
LPMT do NHTW thực hiện, đây là bằng chứng để thể hiện sự minh bạch trong
CSTT theo LPMT. Đồng thời thể hiện uy tín của NHTW trong việc hoàn thành mục
tiêu lạm phát đã đề ra, đó cũng là cơ sở để NHTW rút kinh nghiệm cho điều hành
CSTT ở giai đoạn sau.
1.2.2.2. Ƣu điểm và hạn chế của cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm
phát mục tiêu

a. Ƣu điểm
- CSLPMT làm tăng sự tự chủ và linh hoạt của NHTW trong thực hiện
mục tiêu kinh tế vĩ mô trong giới hạn của mình, NHTW có thể linh hoạt lựa
chọn và sử dụng các công cụ của mình để đạt một mục tiêu duy nhất đó là
chỉ số lạm phát mục tiêu.
- LPMT phát huy được hiệu quả kiểm soát kỳ vọng lạm phát và do vậy
tăng cường ổn định lạm phát, NHTW sẽ phải chịu trách nhiệm chính thức và
vô điều kiện trong việc thực hiện CSTT đề đạt được chỉ số mục tiêu dựa trên
chỉ số dự báo lạm phát do chính NHTW đưa ra, đó là cơ sở xác định lòng tin
của công chúng với cơ quan quản lí tiền tệ và là cơ chế để xác định mức độ
hoàn thành sứ mệnh của NHTW.
- CSLPMT thúc đẩy tăng trưởng mà không làm tăng mức độ biến động
của sản lượng. Khi thực hiện CSTT theo LPMT, mặc dù trong giai đoạn
giảm lạm phát thường xuất hiện mức sản lượng thấp hơn bình thường, nhưng
khi đã đạt được mức lạm phát thấp, sản lượng và việc làm sẽ quay về mức


18

cao như cũ và sản lượng không biến động thêm nữa. Mishkin (2000) kết luận
là một khi đạt được mức lạm phát thấp, CSLPMT sẽ không tác động xấu đến
nền kinh tế thực. Căn cứ vào sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ sau khi lạm
phát giảm đi ở nhiều quốc gia thực thi LPMT, có thể thấy rằng LPMT thúc
đẩy phát triển kinh tế thực và giúp kiểm soát lạm phát.
- Đây là cơ chế điều hành CSTT vừa tạo cho NHTW sự tập trung cần thiết,
vừa được quyền tự do, linh hoạt và quyền tự quyết nhất định trong điều hành CSTT.
b. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm thì CSTT theo LPMT cũng có nhược điểm là:
- Cơ chế LPMT có phần cứng nhắc, để đạt được mục tiêu lạm phát đã đề ra,
các quốc gia có thể phải đánh đổi bằng tăng trưởng thấp đi so với trước và tỷ lệ thất

nghiệp gia tăng. Khi năng lực điều tiết của CSTT không cao sẽ đẩy NHTW vào
vòng luẩn quẩn trong việc lựa chọn ưu tiên giữa các cơ chế điều hành (tỷ giá, lãi
suất và khối lượng tiền) của CSTT.
- Xuất phát điểm của các quốc gia khi áp dụng cơ chế LPMT cũng
phải thỏa mãn các điều kiện như: NHTW phải có tính độc lập cao; tình trạng
đô la hóa thấp; hệ thống tài chính phát triển; Nhiều quốc gia không đáp ứng
được những điều kiện khắt khe này có thể áp dụng cơ chế LPMT hoặc phải
có những điều chỉnh lớn trong nền kinh tế để có thể phù hợp với cơ chế này.
Khi áp dụng LPMT, NHTW sẽ phải chịu trách nhiệm chính thức và vô điều
kiện trong việc thực hiện CSTT để đạt được chỉ số LPMT dựa trên chỉ số dự
báo lạm phát do chính NHTW đưa ra để đảm bảo uy tín của NHTW trong
việc thực thi CSTT theo mục tiêu đã định, nhằm tạo sự tin tưởng cao từ xã
hội, điều này gây áp lực trong quá trình điều hành CSTT của NHTW.
- Một bất lợi khác là các quốc gia áp dụng cơ chế LPMT yêu cầu phải có cơ
chế tỷ giá linh hoạt. Trong khi đó điều hành tỷ giá linh hoạt có thể là nguyên nhân
gây ra sự không ổn định về tài chính, nhất là những quốc gia có nền kinh tế thị
trường mới nổi.


19

1.2.3. Điều kiện cơ bản để áp dụng cơ chế lạm phát mục tiêu
Có nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học, đặc biệt là các nghiên cứu trên
thế giới đã chỉ ra các điều kiện khác nhau. Trong số đó, các nghiên cứu của Batini,
Kuttner, Laxton (2005) là khá khái quát, theo đó 4 nhóm điều kiện cơ bản để
CSLPMT vận hành tốt như sau:
1.2.3.1. Tính độc lập của Ngân hàng Trung ƣơng
NHTW của bất kì quốc gia nào cũng đều mang trọng trách là chủ thể chính
trong việc hoạch định và thực thi CSTT quốc gia. Dù áp dụng cơ chế CSTT nào thì
vai trò, vị thế của NHTW cũng rất quan trọng và đòi hỏi phải có tính độc lập tương

đối với CP. Tính độc lập của NHTW ở đây cần được xác định là độc lập ở mức
tương đối trong việc điều hành CSTT, bởi vì trên thực tế NHTW rất khó có thể
hoàn toàn độc lập khỏi sự ảnh hưởng của CP. Tuy nhiên, NHTW cần phải được tự
do lựa chọn các công cụ để đạt được tỷ lệ LPMT. Đồng thời, NHTW cũng không bị
lệ thuộc bởi chính sách tài khóa (CSTK) của CP, tức là CSTT của NHTW không bị
NSNN chi phối, các khoản vay của CP rất thấp và gần như bằng không. Điều này có
nghĩa là CP phải có nguồn thu rộng rãi và không phải dựa nhiều vào nguồn thu từ in
tiền. Nếu có sự chi phối về mặt tài khóa đối với CSTT thì áp lực lạm phát có nguồn
gốc từ CSTK sẽ làm giảm hiệu lực của CSTT bằng việc buộc NHTW phải hỗ trợ
một phần nhu cầu chi tiêu của CP thông qua phát hành tiền.
Độc lập về chính sách là việc cho phép NHTW được quyền linh hoạt trong
việc hoạch định và thực thi CSTT. Độc lập về tài chính là việc NHTW được giải
phóng khỏi các áp chế tài khóa/áp lực chính trị, nghĩa là CP không dựa vào NHTW
để bù đắp thâm hụt ngân sách; kỷ luật thu, chi ngân sách phải được đảm bảo. Độc
lập về chính trị của NHTW được hiểu là những ảnh hưởng của CP trong thủ tục bổ
nhiệm, nhiệm kỳ và miễn nhiệm hội đồng Thống đốc của NHTW.
1.2.3.2. Năng lực của Ngân hàng Trung ƣơng
NHTW phải tuân thủ cơ chế minh bạch và đảm bảo trách nhiệm giải trình,
đảm bảo đủ khả năng và năng lực trong dự báo lạm phát; tuân thủ cơ chế minh bạch
và đảm bảo trách nhiệm giải trình; duy trì tín nhiệm CSTT đối với công chúng.


20

CSLPMT đòi hỏi mạnh mẽ việc sử dụng các kết quả dự báo bởi bản chất của cơ chế
này là sự dự đoán trước tương lai. Có thể hiểu trong CSLPMT thì mục tiêu trung
gian chính là dự báo lạm phát. Do đó để thực hiện CSLPMT các NHTW phải nhìn
trước và xây dựng được các dự báo lạm phát từ đó mới đưa ra được các quyết định
sử dụng hệ thống công cụ nào để điều chỉnh mức dự báo lạm phát cho sát với mục
tiêu đặt ra. Đồng thời NHTW cũng cần có bộ phận theo dõi, đánh giá kịp thời tình

hình hoạt động trên thị trường tiền tệ, TTLNH và các nhân tố tác động để kịp thời
có các giải pháp thích hợp cho CSTT. Theo Trần Thế Sao (2010), năng lực của
NHTW trong dự báo lạm phát bao gồm:
- Hệ thống cơ sở dữ liệu: bao gồm số liệu về lạm phát, các chỉ số kinh tế vi
mô, vĩ mô trong quá khứ làm cơ sở dự báo những diễn biến kinh tế trong tương lai;
- Mô hình dự báo là công cụ dùng để xử lí kỹ thuật về mặt kinh tế lượng của
các dữ liệu đầu vào;
- Yếu tố con người để đảm nhiệm công tác thống kê, phân tích và truyền đạt
thông tin.
Bên cạnh đó NHTW phải có năng lực để xây dựng và hoạch định CSTT
không lệ thuộc vào bất cứ chính sách nào khác.
1.2.3.3. Hệ thống thị trƣờng tài chính lành mạnh
CSLPMT đòi hỏi phải có một thị trường tài chính vững mạnh, có kỷ cương,
kỷ luật thị trường, cạnh tranh lành mạnh. Khi thị trường tài chính lành mạnh, cho
phép các kênh truyền dẫn CSTT xảy ra theo như đúng dự đoán của NHTW, và do
vậy, các công cụ CSTT sẽ phát huy hiệu quả như mong đợi. Khi thị trường tài chính
phát triển, tạo điều kiện cho các việc huy động vốn cho nền kinh tế cũng như là tài
trợ cho các khoản vay mượn của CP mà không phải phát hành tiền, do đó các yếu tố
này sẽ không còn cản trở việc thực hiện mục tiêu lạm phát. Đồng thời, thị trường
tiền tệ phát triển cho phép các công cụ của CSTT có thể ảnh hưởng nhanh chóng và
mạnh mẽ đến các điều kiện tiền tệ và lạm phát cũng như năng lực của NHTW trong
việc xây dựng mô hình và dự báo lạm phát (NHNN, Tài liệu hội thảo NHNN:
“Chính sách lạm phát mục tiêu: Sự lựa chọn thích hợp cho Việt Nam). Ngoài ra,


21

một thị trường tài chính phát triển còn cho phép các kỳ vọng của thị trường đạt
được ở điểm kỳ vọng hợp lí, do vậy, việc kiểm soát kỳ vọng lạm phát cũng có thể
diễn ra hiệu quả hơn.

Những nước đang phát triển thường gặp khó khăn khi áp dụng CSLPMT là
do sự yếu kém của thị trường tài chính, (Batini, 2005) bởi vì hệ thống tài chính cần
phát triển ở mức nhất định để đảm bảo CSTT được thực hiện bằng các công cụ của
thị trường tài chính và đảm bảo cho CSTT theo đuổi mục tiêu lạm phát và không
chi phối bởi biến động của thị trường tài chính (Laurens và các cộng sự, 2005).
1.2.3.4. Cấu trúc kinh tế phù hợp
Khi thực hiện CSLPMT đòi hỏi nền kinh tế phải có cấu trúc kinh tế phù hợp
bởi vì:
Thứ nhất, một quốc gia có tình trạng đô la hóa cao dễ làm ảnh hưởng đến cơ
chế truyền dẫn của CSTT. Đô la hóa thường khuyếch đại ảnh hưởng của biến động
tỷ giá hối đoái, dẫn đến thay đổi tổng cầu.
Thứ hai, CSLPMT đòi hỏi tỷ giá phải linh hoạt. Sự phá giá mạnh và bất ngờ
đồng nội tệ trong cơ chế tỷ giá cố định sẽ làm tăng gánh nặng nợ đô la, làm giảm
giá trị trên bảng cân đối tài sản và tăng độ rủi ro của khủng hoảng tài chính.
1.3. KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ ĐIỀU
HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THEO LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ BÀI
HỌC CHO VIỆT NAM
1.3.1. Kinh nghiệm của các nƣớc trong việc điều hành chính sách tiền tệ
theo lạm phát mục tiêu.
1.3.1.1. Kinh nghiệm của New Zealand
New Zealand áp dụng CSLPMT kể từ năm 1989 đến nay, là nước đầu tiên áp
dụng chính sách này. Hệ thống điều hành CSTT của New Zealand được quy định cụ
thể trong đạo luật Ngân hàng Dự trữ New Zealand (PTA – Policy Targets
Agreement) năm 1989, hiệu lực tháng 1 năm 1990. Theo đó, Ngân hàng Dự trữ
New Zealand đặt ra mục tiêu là ổn định giá cả, thay vì hệ thống đa mục tiêu như
trước đó. Việc thông qua đạo luật năm 1989 cũng như việc hình thành mục tiêu lạm


22


phát cụ thể bắt nguồn từ việc cải cách trên quy mô rộng nhằm cải thiện vai trò của
chính phủ New Zealand trong việc giải quyết các vấn đề về tài chính tiền tệ. Thực
tiễn và kinh nghiệm áp dụng đã cho thấy, công cụ này đã có những đóng góp khá
hữu hiệu trong việc ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát và đảm bảo tính minh bạch
của CSTT.
Xét mục tiêu, khuôn khổ này được thiết kế nhằm đạt được hai mục tiêu chính
là ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát trong khung cố định (1-3%), theo đó các
công cụ chính của CSTT của New Zealand là ấn định lãi suất (một cụ trực tiếp của
CSTT của Ngân hàng Dự trữ New Zealand) và thả nổi tỷ giá đối hoái của đồng đô
la. Theo cách điều hành này, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ New Zealand có vai trò
chính trong việc theo dõi các động thái của lạm phát, tìm ra nguyên nhân và hướng
khắc phục về mặt chính sách tiếp theo. Theo đạo luật PTA năm 1989 thì yêu cầu
Ngân hàng Dự trữ New Zealand có trách nhiệm cung cấp ít nhất 6 tháng 1 lần, báo
cáo về chính sách tiền tệ 6 tháng trước đó đồng thời đưa ra kế hoạch trong 6 tháng
tiếp theo phù hợp với mục tiêu lạm phát đã đề ra.
CSLPMT ở New Zealand cũng đã được kiểm chứng dài hạn, qua các thời kì
khó khăn như hạn hán, những thay đổi về điều kiện thương mại, khủng hoảng kinh
tế Châu Á và gần đây nhất là qua khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh
tế năm 2008 thì tỷ lệ lạm phát tại New Zealand phần lớn nằm trong khung này.
New Zealand là nước đầu tiên chính thức tuyên bố áp dụng LPMT và đã đạt
được nhiều thành công. New Zealand đã giảm được lạm phát hơn 7,6% trước khi áp
dụng xuống khung mục tiêu là 1-3%, và Ngân hàng Dự trữ New Zealand cũng được
đánh giá là phản ứng rất nhạy trong khủng hoảng kinh tế 2008.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Brazil
Brazil là quốc gia có nền kinh tế mới nổi và có những tương đồng với nền
kinh tế của Việt Nam. Từ trước những năm 1999, quá trình ổn định tài chính của
Brazil dựa trên chính sách neo tỷ giá cố định, điều này làm cho giá trị đồng nội tệ
của Brazil bị định giá cao do sự chênh lệch giá cả trong và ngoài nước làm cho cán
cân thanh toán quốc tế bị mất cân đối. Để duy trì sự cân đối trong cán cân thanh



23

toán quốc tế, cơ quan tiền tệ Brazil đã phải tăng lãi suất để thu hút nguồn vốn đầu tư
nước ngoài vào, tuy nhiên nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào lại lớn hơn mức cần để
cân bằng làm dự trữ ngoại hối tăng dẫn đến đồng nội tệ Brazil định giá cao, đồng
thời làm gia tăng nợ trong nước làm suy giảm nền kinh tế và xuất hiện đầu cơ tiền tệ
tấn công, trong năm 1995-1998, Brazil phải 3 lần đối đầu với đầu cơ tiền tệ. Do
chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng ở Nga, Brazil từ bỏ chính sách tỷ giá neo và
tiến hành thả nổi tỷ giá, làm đồng nội tệ bị mất giá và ảnh hưởng đến lạm phát tăng
lên. Đến giữa 1999, Brazil thực hiện CSTT theo LPMT để kiềm chế lạm phát, kết
hợp với nâng lãi suất cơ bản ngắn hạn để xoa dịu phá giá đồng nội tệ, kết quả là tỷ
giá tăng, lạm phát ở cuối năm 1999 giảm xuống một con số.
Để thực hiện CSTT theo LPMT, Brazil đã phát triển công cụ dự báo lạm phát
chính xác, NHTW Brazil đã thành lập Vụ Nghiên cứu để phát triển các công cụ: mô
hình kinh tế lượng cấu trúc về các cơ chế truyền dẫn của CSTT đến giá; mô hình
vecto tự hồi qui ngắn hạn phi cấu trúc; khảo sát hàng ngày về kỳ vọng lạm phát của
thị trường; các công cụ tính toán lạm phát cơ bản; và các ước lượng những chỉ số
lạm phát.
Về kênh truyền dẫn của CSTT, Brazil đã sử dụng các kênh truyền dẫn của
CSTT như kênh tổng cầu, tỉ giá và kỳ vọng lạm phát. Kênh tín dụng không quan
trọng bằng vì khối lượng tín dụng ở Brazil tương đối thấp so với chuẩn quốc tế
(khoảng 27% GDP vào giữa năm 1999).Việc mô hình hóa cơ chế truyền dẫn của
CSTT tới giá giúp NHTW Brazil có thể thiết lập bằng mô hình ảnh hưởng của thay
đổi lãi suất đến tổng cầu và đến lạm phát. Đồng thời, còn thiết lập được những ảnh
hưởng trực tiếp của việc thay đổi lãi suất lên tỉ giá, và đến giá cả. Lãi suất thay đổi
ảnh hưởng đến tổng cầu, những thay đổi về chênh lệch sản lượng đầu ra ảnh hưởng
đến lạm phát. Đối với kênh tỉ giá, ảnh hưởng của lãi suất đến giá gần như là ngay
lập tức do ảnh hưởng tức thì đến giá của hàng hóa thương mại.
Về mặt thể chế trong nội bộ NHTW, Hội đồng CSTT (Copom) là cơ quan chính

sách, họp hàng tháng để thiết lập mục tiêu cho lãi suất qua đêm (được gọi là Selic rate).
Để đảm bảo tính minh bạch, 8 ngày sau cuộc họp hội đồng sẽ công bố báo cáo về triển


24

vọng kinh tế, lạm phát và các quyết định của Hội đồng. Hội đồng cũng công bố Báo cáo
lạm phát hàng quí. Nội dung báo cáo trình bày về dự báo lạm phát, các kịch bản kinh tế,
lạm phát và phân phối xác suất của các kịch bản lạm phát.
NHTW chịu trách nhiệm đạt được mục tiêu lạm phát. Trong trường hợp
không đạt được mục tiêu, Thống đốc phải gửi một Thư mở đến Bộ Tài Chính giải
trình lý do không đạt được mục tiêu và các biện pháp cần thiết để lạm phát đi đúng
hướng, đúng thời gian.
Như vậy, NHTW Brazil đã thể hiện tính minh bạch rất cao trong việc giải
thích tại sao không đạt được mức lạm phát mục tiêu đặt ra và cách thức đối phó với
cú sốc, cũng như kế hoạch đạt được mục tiêu lạm phát trong dài hạn. Qua quá trình
áp dụng CSTT theo LPMT, Brazil đã mang đến nhiều thành công trong việc kiểm
soát lạm phát.
1.3.1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á là một trong những nước
rất thành công trong việc thực hiện CSTT theo LPMT
Sau thế chiến thứ 2, Thái Lan áp dụng chính sách cố định tỷ giá nhưng
không hiệu quả mà còn gây ra những bất ổn về tài chính do tình trạng đầu cơ tiền tệ
và di chuyển vốn tự do. Để giải quyết tình trạng này, Thái Lan đã quyết định thực
hiện tỷ giá thả nổi trong một thời gian ngắn và duy trì lãi suất ngắn hạn ở mức cao
nhằm ngăn chặn sự biến động quá mức của lãi suất và bảo đảm tổng cung tiền tệ
trong nền kinh tế nhằm ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế bền vững. Tuy nhiên,
chính sách này phải dựa vào quan hệ giữa cung tiền và nền kinh tế, trong khi đây là
điều khó dự báo. Vì vậy, kể từ tháng 5/2000, Thái Lan chính thức áp dụng
CSLPMT. Mục tiêu đặt ra của chính sách này là ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát

để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Với chính sách này, định kỳ hàng năm, NHTW
Thái Lan đưa ra mức lạm phát mục tiêu cụ thể và công bố ra công chúng. NHTW
Thái Lan xây dựng dự báo lạm phát theo hai cách tiếp cận: Một là, dự báo dựa trên
dữ liệu chuỗi thời gian để tiên lượng những biến động ngắn hạn trên cơ sở hàng


25

tháng; Hai là, mô hình dự báo lạm phát theo Quý gắn kết dự báo lạm phát với điều
kiện kinh tế vĩ mô chung.
NHTW Thái Lan sử dụng lạm phát cơ bản là chỉ số giá mục tiêu do việc sử
dụng chỉ số này đem lại sự linh hoạt lớn hơn trong điều hành CSTT. Bên cạnh đó,
lạm phát cơ bản ít biến động hơn, điều này có nghĩa là phản ứng của CSTT có thể
ổn định hơn, nhờ đó môi trường lãi suất sẽ ít biến động hơn.
Lãi suất chính sách (lãi suất repo 1 ngày) được coi là công cụ hàng đầu trong
việc điều hành CSTT của NHTW Thái Lan và luôn được công bố rõ ràng với vai trò
là tín hiệu của chính sách và công cụ định hướng thị trường. Sau khi ra quyết định
lãi suất chính sách, NHTW Thái Lan sẽ dùng các nghiệp vụ thị trường mở để đưa
lãi suất chính sách về mức mong muốn, duy trì thanh khoản trên thị trường tiền tệ ở
mức nhất quán với lãi suất chính sách.
Sự thay đổi lãi suất chính sách hay lượng tiền cung ứng sẽ ảnh hưởng đến 5
kênh truyền dẫn: Lãi suất thị trường, tín dụng NH, giá tài sản, tỷ giá, kỳ vọng; từ đó
làm thay đổi tổng cầu trong và ngoài nước đối với hàng hóa, dịch vụ của Thái Lan,
ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả trong nước, từ đó tác động đến lạm phát.
Sau 12 năm áp dụng và thường xuyên hoàn thiện cho phù hợp với tình hình
thực tế, CSLPMT của Thái Lan đã chứng tỏ được rằng đây là công cụ hữu hiệu để
đảm bảo cho nền kinh tế đạt được sản lượng cao, sự tăng trưởng bền vững, tính
cạnh tranh xuất khẩu và một NHTW minh bạch. Điều này đã được chứng minh qua
khả năng kháng chịu của nền kinh tế Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu 2008-2009.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm về điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục
tiêu cho Việt Nam
Qua nghiên cứu điều hành CSTT theo LPMT của 3 quốc gia New Zealand,
Brazil và Thái Lan có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam.
Ba quốc gia đều thực hiện CSTT theo khuôn khổ LPMT và đã đạt được nhiều thành
công trong việc kiểm soát lạm phát và tạo tiền đề để tăng trưởng kính tế lâu dài.


×