Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294 KB, 32 trang )

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
NGOÀI QUỐC DOANH TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. Khái quát về Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.
2.1.1. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch.
Căn cứ vào quyết định số 76/QĐ - TCCB ngày 28/03/1991 của Tổng giám
đốc Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, về việc thành lập Sở giao dịch (SGD)
Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam (NHĐT&PTVN). Căn cứ vào Điều lệ tổ
chức, hoạt động của NHĐT&PTVN ban hành và quyết định 349/QĐ/NH5 ngày
16/10/1997 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt nam. Sở giao dịch Ngân hàng
Đầu tư & Phát triển Việt Nam đã được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh và
cạnh tranh trên thị trường, trực tiếp kinh doanh và chịu sự quản lý trực tiếp của
NHĐT&PTVN, có trụ sở chính tại 53 Quang Trung, Hà Nội (Trụ sở chính của SGD
đã chuyển về Trung tâm Thương mại VINCOM – 191 Bà Triệu từ năm 2005).
Quá trình 15 năm hình thành và phát triển của SGD có thể chia làm làm 2 giai
đoạn:
* Giai đoạn 1991 – 1994: Đây là giai đoạn NHĐT&PTVN và SGD thực hiện
chức năng của một ngân hàng đầu tư phát triển, chủ yếu cấp phát và cho vay đầu tư
xây dựng cơ bản theo kế hoạch Nhà nước. Trong giai đoạn này, SGD là một đơn vị
trực thuộc NHĐT&PTVN, có nhiệm vụ kinh doanh trực tiếp với các khách hàng
thuộc kinh tế Trung ương, có trụ sở tại Hà Nội, hoạt động kinh doanh trong toàn quốc.
Khách hàng của SGD trong giai đoạn này chủ yếu là các Tổng công ty, Công ty hoạt
động trong lĩnh vực xây lắp. Trong giai đoạn này, SGD hoạt động đối nội như một
phòng ban của NHĐT&PTVN, đối ngoại như một chi nhánh.
* Giai đoạn từ 1995 đến nay: Năm 1995 đánh dấu sự thay đổi cơ bản của
NHĐT&PTVN cả về chức năng và mô hình tổ chức với việc chuyển giao nhiệm vụ
cấp phát vốn ngân sách sang Tổng cục đầu tư (tách ra từ NHĐT&PTVN). SGD bắt
đầu hoạt động hoàn toàn như một ngân hàng thương mại kinh doanh đa năng về lĩnh
vực tài chính ngân hàng, cung cấp các sản phẩm dịch vụ và tiếp tục thực hiện chức
năng của ngân hàng phát triển: Đầu tư vào cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng cho nền kinh
tế. Trong giai đoạn này hoạt động của SGD trải qua các thời kỳ sau:


- Từ năm 1995 – 1998: Đây là thời kỳ mới bước vào thị trường, bắt đầu thực
hiện và đẩy mạnh các hoạt động nghiệp vụ của một NHTM, nhất là huy động vốn của
dân cư bằng các hình thức tiết kiệm, thử nghiệm các hình thức huy động vốn mới, mở
rộng cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn thương mại song song với cho vay đầu
tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch của Nhà nước, mở rộng cho vay kinh tế tư nhân.
- Từ năm 1998 đến nay: Cho đến nay, theo quy định về hoạt động cũng như
việc được hạch toán độc lập của mình, SGD hoạt động như là một chi nhánh của
NHĐT&PTVN với đầy đủ các chức năng của một đơn vị thanh viên lớn trong hệ
thống, thực hiên đầy đủ các nhiệm vụ đặc biệt của mình, thử nghiệm các sản phẩm,
công nghệ mới. Hoạt động của SGD được đa dạng hoá với nhiều loại hình dịch vụ
ngân hàng, luôn được đổi mới, nâng cao chất lượng, đã tạo nên sự phát triển mạnh mẽ
với tốc độ tăng trưởng cao trong thời kỳ này.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của SGD:
Hiện nay, cơ cấu tổ chức của SGD như sau:
Giám cđố
Nhiệm vụ cơ bản của các phòng trong SGD hiện nay như sau:
- Phòng tín dụng I, II, III: Phòng tín dụng có nhiệm vụ quan hệ trực tiếp với
các khách hàng có nhu cầu tín dụng, nắm giữ các dự liệu và các khoản tín dụng, đảm
bảo cơ sở về khách hàng cũng như các khoản tín dụng.
- Phòng thanh toán quốc tế: Phòng thanh toán quốc tế có nhiệm vụ thực hiện
các tác nghiệp trong tài trợ thương mại phục vụ các giao dịch thanh toán xuất nhập
khẩu cho khách hàng; Mở các L /C có ký quỹ 100% vốn của khách hàng, thực hiện
đối ngoại với khách hàng nước ngoài và là đầu mối cung cấp các thông tín đối ngoại.
- Phòng Tiền tệ - kho quỹ: Phòng Tiền tệ – Kho quỹ có nhiệm vụ thực hiện
các nghiệp vụ tiền tệ, kho quỹ: Quản lý nghiệp vụ của chi nhánh; thu – chi tiền mặt;
Quản lý vàng bạc, kim loại quý, đá quý; Quản lý chứng chỉ có giá, hồ sơ tài sản thế
Các
Phó Giám cđố
Phóng
điện

toán
Phòng
tài
chính -
kế toán
Phòng
thanh
toán
qu c tố ế
Phòng
dịch vụ
khách
hàng
DN
Phòng
dịch vụ
KH cá
nhân
Phòng
tín dụng
I,II,III
Phòng
kiểm tra
nội bộ
Phòng
thẩm
định -
quản lý
TD
Phòng

giao
dịch II
(Bạch
Mai)
Phòng
giao
dich I
(Bà
Triệu)
Phòng
tiền tệ -
kho quỹ
Phòng
kế
hoạch
nguồn
vốn
Phòng
tổ chức
hành
chính
chấp; thực hiện xuất nhập tiền mặt để đảm bảo thanh khoản tiền mặt cho chi nhánh,
thực hiện các dịch vụ tiền tệ, kho quỹ cho khách hàng.
- Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp: Phòng dịch vụ khách hàng doanh
nghiệp có chức năng xử lý các giao dịch đối với khách hàng là các doanh nghiệp và
các tổ chức khác.
- Phòng dịch vụ khách hàng cá nhân: Phòng dịch vu khách hàng các nhân có
trách nhiệm xử lý các giao dịch đối với khách hàng là các nhân : mua bán ngoại tệ
ngay với khách hàng, mở tài khoản tiền gửi cá nhân...
- Phòng kế hoạch nguồn vốn: Phòng kế hoạch nguồn vốn chịu trách nhiệm tổ

chức thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường, phân tích môi trường kinh doanh; xây
dựng chiến lược kinh doanh, các chính sách kinh doanh, chính sách marketing, chính
sách khách hàng, chính sách lãi suất, chính sách huy động vốn… ;Lập, theo dõi, kiểm
tra tiến độ thực hiện kế hoạch kinh doanh, xây dựng chương trình hành động để thực
hiện kế hoạch kinh doanh của Sở giao dịch; Tổ chức quản lý hoạt động huy động vốn,
cân đối vốn và các quan hệ vốn của SGD, nghiên cứu phát triển, lựa chọn, ứng dụng
sản phẩm mới về huy động vốn.
- Phòng Thẩm định - quản lý tín dụng: Có nhiệm vụ thẩm định các dự án cho
vay, bảo lãnh (trung, dài hạn) và các khoản tín dụng ngắn hạn vượt mức phán quyết
của Trưởng phòng Tín dụng; tham gia ý kiến về quyết định cấp tín dụng đối với các
dự án trung, dài hạn và các khoản tín dụng ngắn hạn vượt mức phán quyết của Trưởng
phòng Tín dụng.
- Phòng Tài chính - Kế toán: Phòng tài chính – Kế toán có nhiệm vụ: Tổ
chức, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra công tác hoạch toán kế toán và chế độ báo cáo
kế toán của các phòng và các đơn vị trực thuộc; Hậu kiểm các chứng từ thanh toán
của các phòng tại SGD; Lập và phân tích các báo cáo tài chính, kế toán của SGD;
Cung cấp thông tin về tình hình tài chính và các chỉ tiêu thanh khoản của Sở giao
dịch; Phân tích và đánh giá tài chính, hiệu quả kinh doanh của các phòng, các đơn vị
trực thuộc và toàn SGD; Thực hiện nộp thuế, trích lập và quản lý sử dụng các quỹ;
Thực hiện kế hoạch chi tiêu nội bộ;Tham mưu cho Giám đốc về thực hiện chế độ tài
chính, kế toán.
- Phòng điện toán: Quản lý mạng, quản lý hệ thống phân quyền truy cập, kiểm
soát theo quyết định của Giám đốc, quản lý hệ thống máy móc thiết bị tin học tại Sở
giao dịch, đảm bảo an toàn thông suốt mọi hoạt động của Sở giao dịch; Hướng dẫn,
đào tạo, hỗ trợ các đơn vị trực thuộc Sở giao dịch vận hành hệ thống tin học phục vụ
kinh doanh, quản trị điều hành của Sở giao dịch.
- Phòng kiểm tra - kiểm toán nội bộ: Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm toán nội
bộ tại trụ sở Sở giao dịch và tất cả các đơn vị trực thuộc Sở giao dịch theo quy chế hoạt
động Kiểm tra – Kiểm toán nội bộ; Kiểm tra việc thực hiện các quy chế, chế độ tại Sở giao
dịch; Kiểm tra và đôn đốc việc tuân thủ Pháp luật và đề xuất các biện pháp phòng ngừa,

ngăn chặn các hành vi vi phạm Pháp luật trong Sở giao dịch.
- Phòng Giao dịch I, II : Hiên nay phòng giao dịch I tại 191 Bà Triệu và Phòng Giao
dịch II tại Bạch Mại, Hà nội. Chức năng, nhiệm vụ của Phòng Giao dịch: Chịu trách nhiệm
xử lý các giao dịch đối với khách hàng là cá nhân và các TCKT khác; Mở tài khoản tiền
gửi, tiền vay cho khách hàng, chịu trách nhiệm xử lý các yêu cầu của khách hàng về tài
khoản hiện tại và tài khoản mới; Thực hiện giao dịch nhận tiền gửi và rút tiền bằng nội,
ngoại tệ, thực hiện cho vay phát hành bảo lãnh trong phạm vi uỷ quyền của Giám đốc; thực
hiện thu theo quy định; xử lý gia hạn nợ, đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn, chuyển nợ
quá hạn, thực hiện các biện pháp thu nợ; các giao dịch thu đổi và mua bán ngoại tệ giao
ngay đối với các khách hàng theo thẩm quyền được Giám đốc giao; các giao dịch thanh
toán, chuyển tiền, bán thẻ ATM, thẻ tín dụng,… cho khách hàng; Tiếp nhận các thông tin
phản hồi từ khách hàng; duy trì và kiểm soát các giao dịch đối với khách hàng; tiếp thị sản
phẩm dịch vụ đối với khách hàng.
- Phòng tổ chức – hành chính: Quản lý, theo dõi, bảo mật hồ sơ lý lịch, nhận xét cán
bộ nhân viên, các chế độ tiền lương, chế độ bảo hiểm của cán bộ nhân viên; tổ chức quản
lý lao động, ngày công lao động, thực hiện nội quy cơ quan; Xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch đào tạo của Sở giao dịch, bố trí cán bộ nhân viên tham dự các khoá đào tạo
theo quy định; Tham mưu cho Giám đốc và hướng dẫn cán bộ thực hiện các chế độ chính
sách, việc tổ chức, sắp xếp bố trí nhân sự phù hợp với tiêu chuẩn, trình độ chuyên môn của
mỗi người và yêu cầu của Sở giao dịch; lập kế hoạch và tổ chức tuyển dụng nhân sự theo
yêu cầu của hoạt động Sở giao dịch; thay mặt Giám đốc trong phạm vi được uỷ quyền.
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của SGD NHĐT&PTVN.
Trong những năm vừa qua, được sự chỉ đạo của Hội đồng quản trị, của Ban
lãnh đạo NHĐT&PTVN, sự hợp tác chặt chẽ của các bạn hàng và sự nỗ lực cố gắng
của các cán bộ công nhân viên, SGD đã đạt được những kết quả khả quan. SGD
NHĐT&PTVN cũng giống như các NHTM quốc doanh khác, hoạt động đa năng
trong mọi lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc. Hiện nay, SGD đang thực hiện hầu hết các
nghiệp vụ tài chính tiền tệ như: Nhận tiền gửi và thanh toán; tín dụng bảo lãnh; kinh
doanh ngoại tệ; thanh toán quốc tế; bảo hiểm; chứng khoán; tư vấn, hỗ trợ các doanh
nghiệp; các dịch vụ khác (Rút tiền tự động ATM, Thẻ tín dụng, Home – Banking…).

SGD là đơn vị luôn dẫn đầu hệ thống NHĐT&PTVN trong nhiều năm qua.
2.1.2.1.Tình hình huy động vốn:
Tính đến 31/12/2005, tổng tài sản đạt 11.180.720 triệu đồng, tăng so với năm
2004 là 229.740 triệu đồng (tăng 2,1%). Tình hình huy động vốn có nhiều khởi sắc
hơn năm 2004, với tổng huy động đạt 7.569.500 triệu đồng, tăng so với năm 2004 là
461.050 triệu đồng (tăng 6,49%). Thị phần huy động vốn trên địa bàn vẫn được giữ
vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng trên cùng địa
bàn. Kết quả huy động vốn như sau:
Bảng 1 : Kết quả hoạt động huy động vốn của SGD qua các năm
Đơn vị: triệu đồng.
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Tỷ lệ tăng
trưởng((%)
2005/03 2005/04
Huy động vốn 8.408.300 7.108.450 7.569.500 -9,98% 6,49%
1. Tiền gửi TCKT 2.771.700 3.705.456 4.407.585 59,02% 18,9%
+ Tiền gửi không kỳ hạn 556.410 1.019.978 844.839 51,84% -17,17%
+ Tiền gửi có kỳ hạn 2.215.290 2.685.478 3.562.746 60,83% 32,67%
2. Tiền gửi trong dân cư 5.165.807 3.317088 3.048.831 -40,98% -8,09%
+ Tiết kiệm 2.404.572 2.208.801 2.168426 -9,82% -1,83%
+ Kỳ phiếu 1.688.811 461.017 230.878 -86,33% -49,92%
+ Trái phiếu 1.072.424 647.270 649.527 -39,43% 0,35%
3. Huy động khác 470.793 85.906 113.084 -75,98% 31,64%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của SGD)
* Nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế:
Bước vào năm 2005, trước những thuận lợi cũng như những khó khăn và
thách thức của nền kinh tế trong và ngoài nước, SGD vẫn giữ vững được vị thế của
mình trên địa bàn Hà Nội trong công tác huy động vốn, mặc dù SGD phải đứng trước
sự cạnh tranh gay gắt từ các TCTD khác trên cùng địa bàn. Nguồn tiền gửi TCKT
tăng trưởng qua các năm, năm 2005 đạt 4.407.585 triệu đồng, tăng 702.129 triệu

đồng so với năm 2004 (tăng 18,9%); tăng 1.635.885 triệu đồng so với năm 2003 (tăng
59,02%). Trong đó nguồn tiền gửi không kỳ hạn của TCKT năm 2005 đạt 884.839
triệu đồng, giảm 175.139 triệu đồng so với năm 2004, tăng 51,84% so với năm 2003
(556.410 triệu đồng). Nguồn vốn huy động từ nguồn tiền gửi có kỳ hạn của TCKT
cũng tăng qua các năm, năm 2005 đạt 3.562.746 triệu đồng, tăng thêm 60,83 % so với
năm 2003 và tăng 32,67% so với năm 2004. Có được kết quả này là do SGD đã có
những chủ trương kinh doanh hợp lý trong công tác thu hút khách hàng, mở rộng và
phát triển mạng lưới huy động vốn cùng với việc triển khai nhiều hình thức huy động
vốn như chính sách lãi suất, chế độ ưu đãi lãi suất đối với các khách hàng,… Cơ chế
điều hành vốn được tập trung hoá toàn ngành, việc quản lý tài sản Nợ – Có được xem
xét và thực hiện phân tích, đánh giá hướng theo thông lệ. Bên cạnh đó, công tác quản
lý rủi ro chính trong hoạt động nguồn vốn như rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi
ro ngoại hối được đánh giá để có biện pháp đảm bảo an toàn. Ngoài ra, cùng với hệ
thống cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ và đồng bộ của Ngân hàng Nhà nước và
BIDV, SGD đã triển khai các sản phẩm phái sinh trên thị trường ngoại hối để phục vụ
khách hàng. Với sự nỗ lực và cố gắng đó, SGD đã có được những thành công trong
công tác huy động vốn từ nguồn tiền gửi khách hàng, đảm bảo một cơ cấu tín dụng
hợp lý trong các nguồn ngắn, trung và dài hạn, đồng thời đảm bảo an toàn trong hoạt
động tín dụng của SGD.
* Nguồn tiền gửi trong dân cư:
Nguồn vốn huy động từ nguồn tiền gửi trong dân cư của SGD có sự biến
động qua các năm. Trong khi năm 2004, nguồn này đạt 3.317088 triệu đồng, giảm đi
1.848.719 triệu đồng so với năm 2003 (đạt 5.165.807 triệu đồng) thì đến năm 2005,
nguồn huy động từ dân cư đạt 3.048.851 triệu đồng, giảm 8,09% so với năm 2004. Đó
là do trong năm hai năm 2004 và 2005, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng liên tục ở mức
cao (6 tháng đầu năm 2004, chỉ số giá tiêu dùng tăng 7,2%, cao hơn so với mức tăng
cùng kỳ năm 2003 là 2,1%), lạm phát có nguy cơ tăng cao hơn các năm trước đã
khiến người dân có xu hướng phải giữ lại tiền để đề phòng sự mất giá của đồng tiền.
Bên cạnh đó, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, do đó nhu cầu mua
sắm và xây dựng của người dân ngày càng tăng và chưa có xu hướng chậm lại. Sự

biến động của các thị trường trong và ngoài nước cũng là một trong những nguyên
nhân; như thị trường nhà đất, thị trường lãi suất trên thị trường tiền tệ nói chung và
trên địa bàn Hà Nội nói riêng,…Bên cạnh đó còn do khi các chi nhánh Đông Đô, Bắc
Hà Nội, Hà Thành, Quang Trung tách khỏi SGD thì đã mang theo 1 lượng vố huy
động không nhỏ. Vì vậy, lượng tiền gửi của dân cư có xu hướng giảm đi, các NHTM
cũng như SGD không có được sự tăng trưởng nào trong công tác huy động vốn từ dân
cư.
Trong 3 năm gần đây, tiền gửi tiết kiệm của dân cư tại SGD hầu như không có
sự tăng trưởng nào đáng kể. Năm 2005, tiền gửi tiết kiệm của dân cư đạt 2.168426
triệu đồng, giảm 1,83% so với năm 2004 và giảm 9,82% so với năm 2003.
Mặc dù SGD đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao khối lượng huy động tiền
gửi từ các khoản tiết kiệm, như các chế độ ưu đãi về lãi suất đối với các khách hàng,
các phương thức trả lãi thoả thuận, tích cực triển khai các sản phẩm mới theo chỉ đạo
của Hội sở chính: Tiết kiệm dự thưởng với quy mô giải thưởng rất lớn và hấp dẫn, tiết
kiệm gửi góp,… Mặc dù vậy vẫn không có sự thay đổi lớn, người dân chủ yếu chuyển
từ tài khoản tiết kiệm thông thường sang tiết kiệm dự thưởng, không có thêm được
nhiều khách hàng, do vậy vốn huy động từ các khoản tiền tiết kiệm của dân cư hầu
như không thay đổi, không có sự tăng trưởng nào đáng kể, một phần cũng do các
nguyên nhân đã trình bày ở trên.
Năm 2005, NHĐT&PTVN đã tiến hành việc phát hành các đợt chứng chỉ tiền
gửi (CDs) với mục đích nhằm huy động thêm vốn để nâng cao năng lực tài chính, kích
thích khả năng cạnh tranh trên thị trường Ngân hàng trong nước, hướng đến mục tiêu
là đích đến của nhiều khoản đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.
2.1.2.2. Công tác tín dụng:
Đến tháng 12/2005, các chỉ tiêu tín dụng của Sở giao dịch đã đạt được như sau:
Bảng 2: Kết quả hoạt động tín dụng của SGD qua các năm
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Tỷ lệ tăng trưởng
(±%)

2005/03 2005/04
Dư nợ Tín dụng 4.026.055 4.255.346 4.844.766 20,34 13,85
1. Cho vay ngắn hạn 660.136 855.811 1.724.458 161,23 101,50
2. Cho vay trung dài hạn 1.564.566 1.345.314 1.012.621 -35,28 -24,73
3. Cho vay KHNN 582.822 515.475 374.866 -35,68 -27,28
4. Cho vay uỷ thác, ODA 373.584 387.754 305.846 -18,67 -21,12
5. Uỷ thác cho vay vốn 30.355 31.296 30.950 1,96 -1,11
6. Cho vay đồng tài trợ 814.592 1.119.697 1.396.026 71,38 24,68
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của SGD)
Qua bảng trên ta có thể thấy được sự biến động trong cơ cấu dư nợ tín dụng,
các khoản cho vay trung và dài hạn, cho vay theo kế hoạch Nhà nước có xu hướng
giảm dần, trong khi các khoản tín dụng ngắn hạn, cho vay uỷ thác, ODA, cho vay
đồng tài trợ đều tăng qua các năm. Năm 2004, chi nhánh Đông Đô đã tách ra khỏi
SGD và trở thành chi nhánh cấp I nên trong cơ cấu tổng tài sản cũng như cơ cấu
nguồn huy động hay dư nợ tín dụng đều có sự thay đổi nhất định.
Dư nợ tín dụng năm 2005 của SGD tiếp tục có sự phục hồi tiếp theo năm
2004. Năm 2003, do tình hình kinh tế trong và ngoài nước có nhiều biến động và diễn
biến phức tạp nên nền kinh tế Việt Nam không có nhiều chuyển biến tích cực, các
khoản đầu tư ngắn, trung và dài hạn giảm. Các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước
không có được môi trường đầu tư thuận lợi, do vậy các khoản cho vay ngắn, trung –
dài hạn đã giảm. Tuy vậy, hoạt động tín dụng đã được cải thiện đáng kể cả về quy mô
cũng như chất lượng trong 2 năm 2004 và 2005, chất lượng thẩm định được nâng cao,
các nghiệp vụ tín dụng được cải thiện đã góp phần thu hút thêm được các khách hàng
đến giao dịch.
- Dư nợ tín dụng ngắn hạn năm 2005 đạt 1.724.458 triệu đồng chiếm tỷ trọng
36% trong tổng dư nợ, tăng mạnh so với 2 năm 2003 và 2004 lần lượt là 161,23% và
101,50%. Trong năm 2005, SGD cũng đã tiến hành giải ngân các khoản vay, bảo lãnh
theo hợp đồng hạn mức đã ký; đồng thời ký các hợp đồng hạn mức với Tổng công ty
Xây dựng Hà Nội, Công ty Xây lắp XNK số 8,… Sở giao dịch cũng xem xét về đề
nghị vay vốn ngắn hạn của các khách hàng, giải ngân, kiểm tra mục đích sử dụng vốn

vay của khách hàng; thẩm định các dự án cho vay đối với các công ty: Cty Cổ phần
Xây dựng CTGT 246, Cty Cổ phần Ximăng Thăng Long; tiếp cận một số công ty mới
có nhu cầu vay vốn ngắn hạn. Nhu cầu vay vốn ngắn hạn bằng VNĐ vẫn chiếm tỷ
trọng cao trong cả nhu cầu.
- Dư nợ tín dụng trung – dài hạn của SGD năm 2005 giảm so với 2 năm 2003,
2004. Năm 2005, chỉ tiêu này chỉ đạt 1.012.621 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 21% trong
tổng dư nợ, giảm 35,24% so với năm 2003 (đạt 1.564.566 triệu đồng) và giảm 24,73%
so với năm 2004 đạt 1.345.314 triệu đồng. Sở giao dịch trong năm vừa qua đã thực
hiện được nhiều dự án lớn, như hoàn tất thủ tục cho vay và trình cơ quan cấp trên dự
án nhà máy nhiệt điện Na Dương của TCT than Việt Nam, dự án của TCT Dầu khí
Việt Nam,… đồng thời ký hợp đồng với các đối tác: Lilama, Công ty XNK Intimex,
Hagarsco… giải ngân các hoạt động tín dụng trung và dài hạn đã ký: Nhà máy đóng
tàu Bạch Đằng, Nhà máy đóng tàu Hạ Long…; triển khai việc ký kết các hợp đồng
bảo đảm, làm việc với TCT Đường sắt Việt Nam, TCT Cà phê Việt Nam…
- Dư nợ tín dụng theo Kế hoạch Nhà nước năm 2005 đã giảm đáng kể so với
năm 2003 và 2004. Năm 2005, cho vay theo KHNN đạt 374.866 triệu đồng, giảm
35,68% so với năm 2003 và 27,28% so với năm 2004. Điều này là phù hợp với chủ
trương và thực tế của SGD, giảm cho vay theo chỉ định, tăng cường tìm kiếm các dự
án cho vay đối với khu vực ngoài quốc doanh, hạn chế sự phụ thuộc vào một số tổng
công ty lớn. Cho vay uỷ thác, ODA năm 2005 đạt 305.846 triệu đồng, giảm 18,67% so
với năm 2003 và 21,12% so với năm 2004; cho vay đồng tài trợ tăng nhanh, đạt
1.396.026 triệu đồng, tăng 24,68% so với năm 2004 đạt 1.119.697 triệu đồng, tăng
71,28% so với năm 2003 đạt 814.592 triệu đồng. Nước ta đang là một trong những
nơi đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài với những tiềm lực mạnh mẽ về thị
trường, về con người, do vậy các khoản đầu tư nước ngoài luôn có xu hướng tăng qua
các năm, nhiều hợp đồng tài trợ được ký kết giữa các đối tác cả trong và ngoài nước,
khẳng định vai trò hàng đầu của hệ thống BIDV trên thị trường tiền tệ trong nước.
Trong những năm vừa qua, SGD đã thực hiện hàng loạt danh mục đầu tư, cho
vay theo đúng tính chất của một ngân hàng hiện đại, đáp ứng được phần nào các nhu
cầu về vốn của các doanh nghiệp cũng như tòan bộ nền kinh tế, góp phần giữ vững vị

thế của hế thống BIDV trên địa bàn và trên cả nước.
2.1.2.3. Các hoạt động và dịch vụ khác:
Hoạt động dịch vụ năm 2005 đã tăng so với các năm trước cả về quy mô và
chất lượng. Trong năm 2005, thu từ hoạt động dịch vụ đạt (thu dịch vụ ròng) 25.600
triệu đồng, dù tăng không đáng kể so với năm 2003 và 2004 (đạt lần lượt là 25.650
triệu đồng và 24.502 triệu đồng) nhưng các dịch vụ ngân hàng đã có nhiều cải thiện cả
về chất lượng và quy mô, thuận lợi, nhanh chóng và hợp lý đối với các khách hàng.
Trong năm 2005, SGD đã mở mới trên 1500 L/C hàng nhập với tổng số tiền
trên 30 triệu USD, xử lý các bộ chứng từ hàng nhập trị giá gần 180 triệu USD; thực
hiện thông báo gần 1000 L/C hàng xuất trị giá 22.3 triệu USD; đòi tiền và chiết khấu
gần 200 bộ chứng từ trị giá gần 30 triệu USD; xử lý các bộ các bộ chứng từ nhờ thu
hàng nhập thu phí gần 500.000 USD… Các khoản thanh toán quốc tế khối lượng lớn
tập trung chủ yếu vào một số công ty lớn, như: Petrolimex, Hanoisimex, Lilama,

×