Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Phân tích thỰc trẠng hoẠt đỘng cỦa SacombankLeasing trong viỆc tài trỢ vỐn cho các doanh nghiỆp nhỎ và vỪa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.57 KB, 23 trang )

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA
SACOMBANKLEASING TRONG VIỆC TÀI TRỢ
VỐN CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
2.1 Phân tích tình hình hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa:
2.1.1 Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa:
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kể từ khi ban hành Nghị định 90/2001/CP
về trợ giúp các DNNVV từ năm 2001 đến nay, các DNNVV đã tăng nhanh về số lượng.
Chỉ tính đến tháng 6/2005, cả nước đã có trên 125 nghìn DNNVV được thành lập mới với
tổng số vốn đăng ký xấp xỉ 250 tỷ đồng, đưa tổng số các DNNVV trong cả nước lên gần
2000 doanh nghiệp với số vốn đăng ký gần 400 nghìn tỷ đồng (tương đương khoảng 25,2
tỷ USD). Trong đó, loại hình công ty TNHH chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng 55,4%, công
ty cổ phần chiếm 12,5%, các loại hình khác như công ty hợp danh, doanh nghiệp nhà nước
và công ty TNHH một thành viên chiếm tỷ lệ nhỏ khoảng 0,3%, doanh nghiệp tư nhân
chiếm 31,8% còn lại.
Cùng với sự phát triển vượt bậc về số lượng, các DNNVV đã hoạt động năng động
hơn và có hiệu quả hơn, vươn lên đóng góp vào nền kinh tế của đất nước, với GDP chiếm
khoảng 45% tổng GDP của cả nước, hàng năm thu hút hơn 90% lao động mới vào làm
việc. Các DNNVV còn tạo được mối liên kết chặt chẽ với các tổng công ty nhà nước, các
tập đoàn xuyên quốc gia..., mặc dù thời gian qua, mối quan hệ này mới chỉ được xác lập
bước đầu qua việc cung ứng nguyên vật liệu, hợp đồng phụ và thành lập mạng lưới vệ tinh
phân phối sản phẩm, song, đây là một hướng phát triển mới, hết sức quan trọng để thúc
đẩy nhanh sự phát triển của các DNNVV.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi thì doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn những
khó khăn: Một cuộc điều tra quy mô được Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư) tiến hành với sự tham gia của hơn 63 nghìn doanh nghiệp tại 30 tỉnh
thành phía bắc cho thấy, quy mô vốn của các doanh nghiệp còn nhỏ, khả năng cạnh tranh
còn yếu.
Gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng; gần 75% số doanh nghiệp có
mức vốn dưới 2 tỷ đồng và 90% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng
Ngoài ra, máy móc thiết bị chỉ chiếm tỷ trọng 26% giá trị của tài sản cố định, nhà
xưởng, vật kiến trúc chiếm 36%. Phần còn lại (38%) là các loại tài sản cố định khác, như


các loại xe tải, xe hơi hay các lạoi tài sản không sử dụng vào sản xuất.
Mặt khác, hầu hết các loại tài sản đều có tuổi thọ khá cao, giá trị còn lại thấp. Tình
hình giá trị còn lại của TSCĐ trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tỷ lệ cao hơn
do các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; các doanh nghiệp liên doanh và các công ty cổ
phần, công ty TNHH có sự đầu tư đổi mới máy móc thiết bị cao hơn các DNNN
Còn về trình độ cơ giới hoá trong nhiều lĩnh vực sản xuất chỉ đạt 55%, chủ yếu còn sử
dụng lao động sống. Do quy mô tài sản nhỏ, phần tỷ trọng máy móc thiết bị tạo ra chỉ
chiếm 35% trong tổng sản phẩm xã hội. Phần đóng góp của công nghệ trong giá trị gia
tăng của sản phẩm chế biến chỉ chiếm từ 10%-20%. Trình độ công nghệ của các loại máy
móc, thiết bị nước ta ở trình độ rất thấp so với thế giới. Số thiết bị có trình độ lạc hậu
chiếm tỷ lệ rất cao và các loại thiết bị thuộc trình độ hiện đại chỉ chiếm 10%
Về hệ số đổi mới máy móc thiết bị của toàn ngành công nghiệp sản xuất, chế biến chỉ
khoảng 7%-8%/năm, nếu hệ số này không được thay đổi thì phải mất khoảng 10 năm mới
thay đổi toàn bộ các loại máy móc thiết bị hiện nay. Khi đó những máy móc mới được
“hiện đại hoá” cũng đã lạc hậu so với trình độ công nghệ thế giới.Trong khi đó, hệ số đổi
mới máy móc thiết bị của thế giới hiện nay là khoảng 20%/năm.
Mặt khác, công suất sử dụng máy móc thiết bị so với công suất thiết kế chỉ đạt khoảng
40%, nhất là trong ngành cơ khí. Thực trạng này dẫn đến mức tiêu hao năng lượng, nguyên
liệu, vật tư cho một đơn vị sản phẩm ở Việt Nam cao hơn mức của thế giới khoảng 2 lần.
Hệ quả là hàng hoá sản xuất trong nước có giá thành cao, chất lượng thấp, mẫu mã
chậm được thay đổi cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dung và chủng loại kém phong
phú. Từ đó dẫn tới hàng nội bị mât uy tín, không cạnh tranh được với hàng hóa nước ngoài
ngay tại thị trường trong nước.
2.1.2 Các chính sách hỗ trợ từ phía nhà nước:
2.1.3.1 Khuyến khích đầu tư:
Chính phủ trợ giúp đầu tư cho các doanh nghiệp thông qua biện pháp về tài chính, tín
dụng, áp dụng trong một thời gian nhất định đối với cá doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư
vào một số ngành nghề, bao gồm ngành nghề truyền thống và tại cá địa bàn cần khuyến
khích.
Chính phủ khuyến khích các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp và thể nhân góp vốn

đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2.1.3.2 Thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa:
Thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa để bảo lãnh cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa khi không đủ tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn của các tổ chức tín
dụng.
Bộ tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng đề án tổ chức và Quy
chế hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa trình Thủ tướng Chính
phủ quyết định.
2.1.3.3 Mặt bằng sản xuất:
Trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
trên địa bàn tỉnh, thành phố đã được thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa có mặt bằng sản xuất phù hợp; chỉ đạo d2nh quỹ đất và thực hiện các chính
sách khuyến khích để xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa có mặt bằng xây dựng tập trung cơ sở sản xuất hoạc di dời từ nội thành, nội thị ra, bảo
đảm cảnh quan môi trường.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa được bưởng các chính sách ưu đãi trong việc thuê đất,
chuyển nhượng, thế chấp và các quyền khác về sử dụng đất đai theo quy định của pháp
luật.
2.1.3.4 Thị trường và tăng khả năng cạnh tranh:
Các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo, tạo
điều kiện để doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận các thông tin về thị trường, giá cả hàng hoá,
trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm.
Các địa phương trợ giúp việc trưng bày, giới thiệu, quảng cáo, tiếp thị các sản phẩm có
tiềm năng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, để tạo điều kiện mở rộng thị trường.
Chính phủ tạo điều kiện để các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cung ứng hàng hoá
và dịch vụ theo kế hoạch mua sắm bằng nguồn ngân sách nhà nước; các Bộ, ngành và địa
phương có kế hoạch ưu tiên đặt hàng và các đơn hàng theo hạn ngạch phân bổ cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất hàng hóa và dịch vụ bảo đảm chất lượng và đáp ứng yêu
cầu.

Chính phủ khuyến khích phát triển hình thức thầu phụ công nghiệp, tăng cường liên kết
giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với các doanh nghiệp khác về hợp tác sản xuất sản
phẩm linh kiện, phụ kiện, phụ tùng, nhận thầu xây dựng…. nhằm thúc đẩy chuyển giao
công nghệ, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thông qua các chương trình trợ giúp,Chính phủ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
nhỏ và vừa đổi mới công nghệ, trang thiết bị, áy móc, phát triển sản phẩm mới, hiện đại
hoá quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phầm hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh trên
thị trường.
2.1.3.5 Về xúc tiến xuất khẩu:
Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng cường xuất khẩu, tạo điều kiện
thậun lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa liên kết hợp tác với nước ngoài, mở rộng thị
trường xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ. Thông qua chương trình trợ giúp xúc tiến xuất khẩu,
trợ giúp một phần chi phí cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa khảo sát, học tập, trao đổi hợp
tác và tham dự hội trợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu thị trường ở nước ngoài, Chi
phí trợ giúpđược bố trí trong Quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
Các Bộ, ngành tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia các
chương trình xuất khẩu của Nhà nước
.
2.1.3.6 Về thông tin, tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực:
Chính phủ, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dan địa phương cung cấp các thông tin cần
thiết qua các ấn phẩm và qua mạnh Internet cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thông qua
Bộ Kế hoạch và đầu tư (Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa) phối hợp với các cơ quan
liên quan và các tổ chức xã hội nghề nghiệp trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chính phủ trợ giúp kinh phí để tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ
và vừa thông qua chương trình trợ giúp đào tạo. Kinh ohí trợ giúp về đào tạo được bố trí từ
ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo.
Chính phủ khuyến khích các tổ chức trong và ngoài nước trợ giúp các doanh nghiệp
nhỏ và vừa trong việc cung cấp thông tin, tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực.
Chính phủ khuyến khích việc thành lập các “vườn ươm doanh nghiệp nhỏ và vừa” để

hướng dẫn, đào tạo doanh nhân trong bước đầu thành lập doanh nghiệp.
2.1.3 Nhu cầu về vốn, đổi mới công nghệ và nâng cao trình độ quản lý cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa nhằm đáp ứng phù hợp với xu thế trên
Một cuộc điều tra quy mô được Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch
và Đầu tư) tiến hành với sự tham gia của hơn 63 nghìn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía
bắc cho thấy, quy mô vốn của các doanh nghiệp còn nhỏ, khả năng cạnh tranh còn yếu.
Gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng; gần 75% số doanh nghiệp có
mức vốn dưới 2 tỷ đồng và 90% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng.
2.1.4.1 Bất cập về trình độ quản lý và công nghệ
Số liệu thống kê, có tới 55.63% số chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ trung cấp
trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông
các cấp. Cụ thể, số người là tiến sĩ chỉ chiếm 0,66%; thạc sĩ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học
37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm
12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn.
Điều đáng chú ý là đa số các chủ doanh nghiệp ngay những người có trình độ học vấn
từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản
trị doanh nghiệp.
Về trình độ sử dụng công nghệ, chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đạt trình độ công
nghệ tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Doanh
nghiệp trong nước đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu và khả năng cạnh tranh về công
nghệ của các doanh nghiệp phía bắc là rất thấp.
Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số doanh
nghiệp có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% doanh nghiệp có sử
dụng mạng nội bộ - LAN, số doanh nghiệp có Website là rất thấp chỉ 2,16%.
Cuộc điều tra cũng chỉ ra một nghịch lý; trong khi trình độ về kỹ thuật công nghệ còn
thấp nhưng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp có tỷ lệ rất thấp;
chỉ 5.65% doanh nghiệp được điều tra có nhu cầu về đào tạo công nghệ.
Số liệu tổng hợp cũng cho thấy một sự khác biệt cơ bản giữa các doanh nghiệp Việt
Nam với các doanh nghiệp của các nước khác. Trong khi các doanh nghiệp trên thế giới
quan tâm hàng đầu về các thông tin công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, thị trường cung cấp và

tiêu thụ thì doanh nghiệp Việt Nam lại chủ yếu quan tâm đến các thông tin về cơ chế, chính
sách liên quan đến doanh nghiệp, rất ít doanh nghiệp quan tâm đến các thông tin về kỹ
thuật và công nghệ.
2.1.4.2 Nhu cầu lớn về vốn, thị trường và đào tạo
Qua cuộc điều tra, các doanh nghiệp tiếp tục đề cập tới nhiều khó khăn đã được nhắc
đến nhiều lần. Cụ thể 66.95% doanh nghiệp cho biết thường gặp khó khăn về tài chính;
50.62% doanh nghiệp thường gặp khó khăn về mở rộng thị trường; 41.74% doanh nghiệp
gặp khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất; 25.22% doanh nghiệp gặp khó khăn về giảm
chi phí sản xuất; 24.23% khó khăn về thiếu các ưu đãi về thuế; 19.47% khó khăn về thiếu
thông tin; 17.56% doanh nghiệp khó khăn về đào tạo nguồn nhân lực...
Về khả năng tiếp cận các nguồn vốn của Nhà nước: chỉ có 32,38% số doanh nghiệp
cho biết đã tiếp cận được các nguồn vốn của Nhà nước, chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước
và doanh nghiệp cổ phần hóa; 35,24% số doanh nghiệp khó tiếp cận và 32,38% số doanh
nghiệp không tiếp cận được. Trong khi đó, việc tiếp cận nguồn vốn khác cũng gặp khó
khăn chỉ có 48,65% số doanh nghiệp khả năng tiếp cận, 30,43% số doanh nghiệp khó tiếp
cận và 20,92% số doanh nghiệp không tiếp cận được.
Bên cạnh đó, việc tham gia các chương trình xúc tiến thương mại của Nhà nước cũng
rất khó khăn. Chỉ có 5,2% số doanh nghiệp đã được tham gia; 23,12% số doanh nghiệp khó
được tham gia và 71,67% số doanh nghiệp không được tham gia.
Qua cuộc điều tra, doanh nghiệp cũng bày tỏ nhu cầu về đào tạo trong rất nhiều lĩnh
vực, trong đó có 33,64% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về tài chính, kế toán; 31,62%
số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về quản trị doanh nghiệp; 24,14% có nhu cầu đào tạo
về phát triển thị trường; 20,17% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về lập kế hoạch, chiến
lược kinh doanh; 12,89% có nhu cầu đào tạo về phát triển sản phẩm mới; 12,89% có nhu
cầu đào tạo về kỹ năng đàm phán và ký kết hợp đồng kinh tế; 11,62% có nhu cầu đào tạo
về quản lý nguồn nhân lực; 10,85% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về ứng dung công
nghệ thông tin trong doanh nghiệp...
Rõ ràng là các doanh nghiệp đã nhận thấy nhu cầu rất lớn về đào tạo nhưng chưa được
đáp ứng. Đây là vấn đề mà các cơ quan chức năng cần tập trung hỗ trợ; đồng thời cũng là
một thị trường đang cần rất nhiều dịch vụ đào đạo chất lượng cao, là cơ hội cho các đại

học, các viện nghiên cứu...
2.1.4 Tình hình và những khó khăn trong việc huy động vốn hiện nay tại các doanh
nghiệp nhỏ và vừa:
Ngân hàng nói rất cần doanh nghiệp. Doanh nghiệp nói rất cần ngân hàng. Nhưng
doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể vay vốn, nhất là tín chấp, vẫn cứ khó.
Các ngân hàng thương mại là đơn vị kinh doanh, rất cần cho doanh nghiệp vay nhưng
doanh nghiệp không đến với ngân hang, chứ không phải ngân hàng khắt khe”.
Lý giải vấn đề này, có ý kiến cho rằng, hình ảnh của Ngân hàng Thương mại quốc
doanh với những khắt khe trước đây, vẫn còn rất rõ trong ký ức người dân, và họ không thể
hình dung được rằng ngày nay đã thay đổi nhiều.
Bên cạnh đó là vấn đề, những cân nhắc trong việc xem xét hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, tài sản thế chấp… cũng khiến cho ngân hàng khó khăn trong việc
cho vay vốn.
Dù giải thích bằng bất cứ lý do nào, cũng không thể chối cãi một điều, là trước hết do
ngành ngân hàng chứ không phải do người dân. Đó là thông tin của ngân hàng chưa đến
được với người dân.
Hiện nay, chủ yếu các doanh nghiệp lớn vay tiền ở ngân hàng, và rất nhiều dự án vẫn
được vay tín chấp. Còn lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể hầu hết rất ít
vay vốn ngân hàng, mặc dù nhu cầu về vốn của lực lượng này là rất lớn.
TP.HCM là vùng đất dân nhập cư, mặc dù đã có nhiều công ty, tập đoàn lớn, song đông
đảo nhất ở đây vẫn là lực lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể. Lực lượng
này làm kinh doanh hầu hết từ tay trắng, tài sản cũng ít ỏi hoặc không có. Đây là lực lượng
có nhu cầu về vốn rất lớn nhưng lại không vay được vốn, vì không có thế chấp mà cũng
khó được tín chấp.
Sở dĩ như vậy là vì vay vốn ngân hàng quá khó khăn về thế chấp. Còn nếu tín chấp thì
cũng quá nhiêu khê, vất vả về thủ tục. Trong khi đó, vay bên ngoài tuy lãi có cao nhưng cái
được là không cần bất cứ thủ tục hay tài sản gì.
Dù đã quen nhau cả chục năm nay, thậm chí tiền còn trong tài khoản, nhưng khi nói
đến việc vay tiền là ngay lập tức ngân hàng yêu cầu giấy tờ, tài sản thế chấp.
Ngân hàng và doanh nghiệp chỉ tin nhau qua thế chấp mà thôi.

Vay ngân hàng không khó, nhưng thế chấp luôn luôn là tiêu chí đầu tiên. Đây là điểm
nhược lớn nhất của hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các lãnh đạo ngân hàng cũng đều công nhận rằng cho vay hộ cá thể tín chấp cũng còn
khá nhiều ràng buộc khắt khe. Song vì vấn đề rủi ro, ngân hàng cũng khó mà làm khác.
Một nhược điểm của khách hàng là khi cần tiền khách hàng mới đặt vấn đề vay vốn,
khiến ngân hàng thiếu thông tin về người vay. Cách tốt nhất vẫn là ngân hàng phải hiểu
được doanh nghiệp, bằng cách doanh nghiệp phải có quan hệ sử dụng dịch vụ của ngân
hàng trước đó. Như vậy khi ngân hàng đã hiểu được doanh nghiệp, thì việc cho vay tín
chấp sẽ không còn là vấn đề khó khăn nữa.
Hiện nay các ngân hàng đã bắt đầu chú trọng nhiều hơn đến việc cho vay lẻ hộ kinh
doanh, doanh nghiệp nhỏ. Các dịch vụ ngân hàng cũng được chú trọng hỗ trợ tốt nhất để
giành khách hàng.
Ngân hàng Việt Á là đơn vị dành nhiều chú trọng cho lĩnh vực vay hộ cá thể. Ngân
hàng này có thể cho vốn đến 5 tỷ, thời gian 5 năm.
Ngân hàng HSBC có thể thẩm định tài sản và cho vay theo giá thị trường, chứ không
nhất thiết trên “giá Nhà nước”. Nhờ đó, những người có tài sản ít ỏi vẫn có thể vay được
kha khá.
Theo các doanh nghiệp, ngân hàng khó có thể đòi hỏi doanh nghiệp đến với mình, mà
ngân hàng hãy đến với doanh nghiệp trước.
2.2 Phân tích tình hình hoạt động của SacombankLeasing:
2.2.1 Kết quả hoạt động của công ty thời gian vừa qua:
2.2.2.1 Doanh số cho thuê của công ty Sacombankleasing trong năm 2006: 33.675
triệu đồng.
Và ngay trong 6 tháng đầu tiên kể từ ngày thành lập thì kết quả kinh doanh của công ty
đã có lãi (theo thông tin từ lãnh đạo của công ty), đây là một tín hiệu đáng mừng.

2.2.2.2 Tỷ trọng doanh số cho thuê phân theo thành phần kinh tế:

Bảng 02: Bảng kết cấu doanh số theo thành phần kinh tế.
Đvt: triệu đồng

Năm
Phân loại KH
2006
Số tiền %
Doanh nghiệp nhà nước 0 0%
Công ty cổ phần 19.077 57%
Công ty TNHH 12.258 36%
Công ty liên doanh 0 0%
Công ty có vốn đầu tư nước ngoài 0 0%
DNTN, hộ kinh doanh cá thể 479 1%
Cá nhân 1.861 6%
Tổng cộng 33.675 100%
(Nguồn: số liệu công ty SacombankLeasing)
Qua bảng số liệu, ta thấy doanh nghiệp công ty cổ phần và công ty TNHH là 2 thành
phần kinh tế chiếm tỷ trọng chủ yếu trong số khách hàng thuê tài chính tại công ty, cho
thấy sự năng động của loại hình này nói chung cũng như công ty nói riêng khi tập trung
vào các thành phần kinh tế này. Ngoài ra, việc chiếm tỷ trọng cao của loại hình công ty cổ
phần và cty TNHH cũng cho thấy nhu cầu đổi mới công nghệ trang thiết bị máy móc là rất
lớn và trong tương lai tiềm năng của loại hình công ty cho thuê tài chính là vô cùng nhiều
vì xu hướng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang diễn ra ồ ạt cùng với việc ra đời
hằng ngày của các công ty TNHH, đây là dâu hiệu chứng tỏ hoạt động cho thuê tài chính
của công ty đang có sức ảnh hưởng đến doanh nghiệp
2.2.2.3 Tỷ trọng doanh số cho thuê phân theo 1 số ngành chính:
Bảng 03: Bảng kết cấu doanh số theo ngành.
Đvt: triệu đồng
Năm
Ngành kinh doanh
2006
Dư nợ %
- Dệt May 6.155 18%

- Vận Tải, kho vận 0 0%
- Cơ khí 0 0%
- Tài chính 20.788 62%
- In, bao bì 732 2%
- Xây dựng 880 3%
- Gỗ, nội thất 0 0%
- Thương mại 766 2%
- Giầy dép 2.014 6%
- Gốm, thủ công mỹ nghệ 479 1%
- Khác 1.861 6%
Tổng cộng 33.675 100%
(Nguồn: số liệu công ty SacombankLeasing)
Qua bảng số liệu, ta có thể thấy trong cơ cấu doanh thu của công ty thì ngành tài chính
và dệt may là hai ngành có tỷ trọng cao nhất và chiếm phần lớn doanh số của công ty. Điều
này cho thấy xu hướng phát triển của thị trường kinh tế nước ta thời kỳ hội nhập khi hai
ngành này là hai ngành mũi nhọn có tính “bứt phá”, và việc thị phần của công ty đa số nằm
ở hai ngành này cho thấy được tính quan trọng của các công ty cho thuê tài chính và là một
dấu hiệu cho sự “bùng nồ” của thị trường dịch vụ cho thuê tài chính trong tương lai rất
gần
2.2.2.4 Dư nợ lớn nhất đối với 1 khách hàng tại SBL là 45.000 triệu đồng. Hiện nay
giá trị tài sản cho thuê của Cty lớn nhất là 7.200 trđ.
2.2.2.5 Loại tài sản được chủ yếu cho thuê:

Bảng 04: Bảng kết cấu doanh thu theo tài sản cho thuê.
Đvt: triệu đồng
Năm
Loại tài sản
2006
Dư nợ %
Sản xuất kinh doanh 6.088 18%

Phương tiện vận chuyển 27.587 82%
Tổng cộng 33.675 100%
(Nguồn: số liệu công ty SacombankLeasing)
Dựa vào bảng kết cấu doanh thu theo tài sản cho thuê thì chúng ta dễ dàng nhận ra việc
cho thuê của công ty hiện nay tập trung phần lớn vào phương tiện vận chuyển, và đây
không chỉ là tình hình riêng của công ty mà là tình trạng chung của hoạt động cho thuê tài
chính ở nước ta hiện nay. Điều này cũng nói lên phần nào sự hạn chế và những khó khăn
của dịch vụ cho thuê tài chính, có lẽ xuất phát từ tính thanh khoản cao của loại tài sản này
cùng với việc thị trường cho thuê tài chính của Việt Nam còn non yếu thì đây là một điều
cũng dễ hiểu. Tuy nhiên trong tương lai muốn phát triển dịch vụ cho thuê tài chính không
chỉ thúc đẩy thị trường tài chính phát triển mà còn là bước đệm cho các doanh nghiệp, nhất
là các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển thì nhất thiết phải có biện pháp, chính sách để
chuyển dịch cơ cấu tài sản cho thuê trên .
2.2.2.6 Nguồn hình thành khách hàng chủ yếu :
Chủ yếu khách hàng có quan hệ tín dụng với Sacombank và do nhà cung cấp giới
thiệu.
2.2.2.7 Nguồn vốn cho vay:
Vốn tự có: 150.454 triệu đồng
Huy động thông qua Nhận tiền gửi: 10.172 triệu đồng.
Từ nguồn khác: 5.350 triệu đồng
Đa phần nguồn vốn của công ty là do hệ thống Sacombank cấp phát giai đoạn đầu, đây
chính là thực trạng chung của các công ty cho thuê tài chính trựe thuôc ngân hàng mẹ.
Chính điều này là một điểm hạn chế và là một vấn đề nan giải cho loại hình này khi việc
huy động vốn hiện nay của các công ty cho thuê tài chính là rất hạn chế.
2.2.1 Các hồ sơ có liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính:
2.2.2.1 Các qui định về mặt pháp lý:
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2005/NĐ (ngày 9/10/1995)về cơ cấu tổ chức
và hoạt động của các công ty cho thuê tài chính.
Thông tu 03/1996/TT-CP (9/2/1996)
Luật các tổ chức tín dụng 1997

Các qui định về loại hình dịch vụ cho thuê tài chính (Điều 20, 61, 62, 63, 64)
Để hướng dẫn chi tiết, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày
2/5/2005 về “Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính”, Nghị định số
65/2005/NĐ-CP (ngày 19/5/2005) sửa đổi, bổ sung nghị định 16/2005/CP-NĐ, ngân hàng
nhà nước đã ban hành Thông tư 06/2005/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số điều tại
Nghị định 16 và nghị định 65
2.2.2.2 Các qui định riêng của công ty:
a./ Đối tượng cho thuê:
Máy móc thiết bị.
Phương tiện vận chuyển.
Các loại động sản khác.
b./ Bên thuê:
Cá nhân.
Doanh nghiệp tư nhân.
Công ty cổ phần
Công ty TNHH
Công ty liên doanh.

×