Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Việt Nam sau khi gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.24 KB, 20 trang )

Gia Nhập WTO
Nhóm 7
Phần 1. Tổng quan WTO và tiến trình gia nhập của VN
1.1 Tổng quan WTO
1.1.1 Giới thiệu chung về WTO
- WTO là từ viết tắt của World Trade Organization, tổ chức thương mại thế giới.
- Ngày thành lập: 1/1/1995
- Trụ sở chính: Geneva, Thụy Sỹ
- Thành viên: 150 nước (tính đến ngày 7/11/2006) chiếm khoảng 90% dân số thế
giới, 95% GDP và 95 % giá trị thương mại toàn cầu.
- Tiền thân của tổ chức này là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT), được 23 quốc gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cường giao lưu
thương mại giữa các quốc gia thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở mỗi
nước thành viên.
- Cơ cấu tổ chức: GATT chỉ là một hiệp định thương mại đa phương, không phải là
một tổ chức. Trong khi đó, WTO là một tổ chức hoàn chỉnh, bao gồm các cơ quan
có thẩm quyền như Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng, các Uỷ ban chức năng và
Cơ quan giải quyết tranh chấp. Giúp việc cho các cơ quan này là Ban Thư ký với
hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng thư ký. Trụ sở WTO đặt tại Giơ-ne-vơ,
Thụy Sỹ. Các Thành viên tham gia vào hoạt động của WTO thông qua phái đoàn
đại diện. Các quyết định quan trọng nhất của WTO được thông qua tại Hội nghị
Bộ trưởng (họp ít nhất 2 năm một lần) hoặc tại các cuộc họp của Đại hội đồng
(cấp đại sứ, họp thường xuyên tại Giơ-ne-vơ). Mỗi thành viên có một phiếu biểu
quyết, không phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế hay mức niên liễm đóng góp.
1.1.2 Chức năng
• Quản lý, giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các hiệp định của
WTO
• Thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua các cuộc đàm phán đa phương về tự
do hoá thương mại.
• Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các Thành viên theo các quy tắc, trình
tự, thủ tục do WTO quy định


• Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển thông qua các chương
trình tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực; hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
1.1.3 Các nguyên tắc cơ bản
1
• Không phân biệt đối xử
• Đãi ngộ quốc gia MFN: Không được đối xử với hàng hóa và dịch vụ dịch
vụ đó kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các đối tượng tương tương tự
trong nước.
• Đãi ngộ tối huệ quốc NT: Các ưu đãi thương mại của một thành viên
dành cho một thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các
thành viên trong WTO.
• Thúc đẩy thương mại quốc tế đối với hàng hoá và dịch vụ thông qua đàm
phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia: bao gồm cắt giảm thuế nhập khẩu, loại
bỏ các biện pháp phi thuế, xử lý các hành vi gây lệch lạc thương mại như trợ
cấp, phá giá .v.v..
• Minh bạch hoá: bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận
thị trường. Minh bạch về chính sách yêu cầu mọi quy định có liên quan đến
thương mại của một thành viên phải được công bố công khai, dễ tiếp cận,
phù hợp với luật lệ của WTO và áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng
thời, phải dành cơ hội thoả đáng cho các bên có liên quan được góp ý trong
quá trình lập quy. Minh bạch về tiếp cận thị trường yêu cầu các Thành viên
nỗ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu và đưa ra các cam kết rõ ràng
về mở cửa thị trường dịch vụ, giúp cho các doanh nghiệp có thể dự báo và
hoạch định chiến lược kinh doanh.
• Thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng, công bằng
• Nguyên tắc ưu đãi
1.2 Tiến trình gia nhập WTO của VN

- 1/1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO.
- 31/1/1995: Đại hội đồng WTO đã thành lập Ban công tác về việc

Việt Nam gia nhập
- 8/1996: Việt Nam gửi tới Ban thư ký WTO "Bị Vong lục về Chế độ
ngoại thương Việt Nam". Sau đó, Ban Công tác đã tổ chức 9
phiên họp để đánh giá tình hình chuẩn bị của Việt Nam và
2
tạo điều kiện để Việt Nam trực tiếp giải thích chính sách.
- Đầu 2002, Việt Nam đã gửi Bản chào ban đầu về thuế quan và Bản
chào ban đầu về dịch vụ tới WTO. Bắt đầu tiến hành
đàm phán song phương với một số thành viên có yêu
cầu đàm phán từ năm 2002 - 2006.
- 4/2004: Bản chào 4 với những cam kết đột phá
- 10/2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn
nhất.
- 2005: Năm bản lề của đàm phán song phương (kết thúc được
đàm phán song phương với 20 đối tác và đạt tiến bộ rất quan
trọng trong đàm phán song phương với Hoa Kỳ) Sang đầu
năm 2006, ta kết thúc đàm phán với Niu Dilân, ngay sau đó
là Úc và các nước Mỹ La-tinh còn lại.
- 13/5/2006: Kết thúc đàm phán song phương thứ 13 với Mỹ tại
Washington - đối tác cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm
phán song phương.
- 26/10/2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng. Ban Công tác
chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam.
Tổng cộng đã có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7/1998 đến tháng
10/2006.
- 7/11/2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại
Geneva để chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO.
3
Phần 2. Cơ hội - Thách thức và Giải pháp
2.1 Cấp độ quốc gia

Nền kinh tế hiện nay của tất cả các quốc gia đều hướng về một nền kinh tế mở và hội
nhập với nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và nó là một tất yếu khách
quan phát triển của một nền kinh tế hiện đại. Dù nước lớn hay nước nhỏ, bất kể nền kinh tế nào
dù lớn đến đâu cũng không thể tự mình đảm đương hết tất cả các quá trình kinh tế. Chính vì
thế, hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành một xu thế tất yếu cho mọi quốc gia. Trong bối
cảnh đó, Việt Nam cũng đang tích cực hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới một
cách rõ nét. Từ một nền kinh tế đóng của những năm trước đổi mới 1986, Việt Nam đã có
những nỗ lực đáng kể để chuyển biến nền kinh tế thành một nền kinh tế mở, hội nhập vào thị
trường quốc tế rộng lớn. Gia nhập WTO chính là một minh chứng rõ nét nhất cho những nỗ
lực cũng như thành tựu và tiến trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam.
Hội nhập kinh tế thế giới có thể ví như một chiếc thuyền nhỏ từ khe suối con sông nhỏ
hẹp đi ra biển cả, đại dương. Đại dương rất rộng lớn nên thuyền có thể tự do đi ngược đi xuôi
rất thuận lợi. Nhưng đại dương cũng là nơi nguy hiểm hơn rất nhiều lần so với con sông, con
suối. Cũng tương tự như thế, bất kể nền kinh tế hội nhập nào cũng có được những thuận lợi và
phải đối mặt với những khó khăn của riêng mình. Gia nhập WTO là gia nhập sân chơi chung,
“đại dương” của cả 150 nước thành viên WTO nên đương nhiên là đi kèm với nó sẽ là những
cơ hội và thách thức. Có thể nói cơ hội hay thách thưc luôn đi cùng nhau và nhiều khi chúng
gắn chặt lẫn nhau hoặc chuyển biến lẫn nhau. Nếu chúng ta biết tận dụng thì những khó khăn
có thể trở thành động lực để ta có thể cải thiện điểm yếu của mình và phát triển.
2.1.1 Cơ Hội:
Để nói về cơ hội đối với nền kinh tế nước ta, có rất nhiều cách tiếp cận từ nhiều góc độ
khác nhau. Phần trình bày này sẽ đi từ góc độ kinh tế vĩ mô hay cấp độ quốc gia. Do vậy, sẽ có
4 cơ hội rõ ràng nhất.
1. Mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa sang 149 nước thành viên (hiện tại) và
cả các thành viên gia nhập tiếp sau Việt Nam và với tư cách là một thành viên
bình đẳng, không bị phân biệt đối xử.
Tại sao lại nói rằng gia nhập WTO, nước ta có khả năng mở rộng được thị trường xuất
khẩu? Đó là do:
 Thứ nhất, khi đã là thành viên của WTO, việc thâm nhập thị trường của tất cả các
nước thành viên sẽ không bị hạn chế bởi hạn ngạch nhập khẩu. Số lượng được cung

ứng sẽ dựa trên nhu cầu của người dân nước đó đối với hàng hóa nước ta chứ
không phải như trước đây, rất nhiều mặt hàng như may mặc, giày da… đều phải
4
chịu hạn ngạch nhập khẩu, dẫn đến việc các doanh nghiệp phải mua bán quota để
có thể xuất khẩu.
 Thứ hai, khi đã là thành viên WTO, hàng hóa xuất khẩu của Việt nam sang thị
trường các nước thành viên khác cũng sẽ ít bị vấp phải hàng rào thuế quan. Theo
các chuyên gia kinh tế, khi chưa là thành viên của WTO, thuế suất áp dụng đối với
các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tại các thị trường có thể lên tới 30-40%;
thậm chí nếu bị cáo buộc bán phá giá, có khi lên tới 50-70%. Nhưng, khi đã là
thành viên của WTO, mức thuế này sẽ hạ xuống còn 0-5% (nếu không có tranh
chấp thương mại).
Như vậy, có thể thấy rằng, gia nhập WTO sẽ rộng mở cánh cửa xuất khẩu đối với các
doanh nghiệp Việt Nam. Không những thế, chúng ta còn được bảo vệ bởi các quy chế của
WTO nếu xảy ra tranh chấp thương mại. là một thành viên bình đảng như cấc thành viên khác
của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng các nguyên tắc cơ bản của tổ chức như: nguyên tắc không
phân biệt đối xử (Đãi ngộ quốc gia, đãi ngộ tối huệ quốc), tự do thương mại, các quy chế, quy
định thương mại phải được công bố công khai, thực hiện ổn định… Những điều này rất có lợi
cho Việt Nam mỗi khi xảy ra những tranh chấp thương mại với các thành viên khác, đặc biệt là
những nước lớn vì Việt Nam là một nền kinh tế nhỏ. Trước đây khi xảy ra các tranh chấp này
như những vụ kiện bán phá giá cá da trơn, hàng may mặc (cùng với Trung Quốc)…, thông
thường nước ta thường là người phải chịu thiệt thòi, phải bắt buộc chấp nhận những mức thuế
trừng phạt do những nền kinh tế lớn áp đặt. Ngày nay với việc được bảo vệ trong những quy
định của WTO, lợi ích của chúng ta sẽ được bảo đảm nhiều hơn trong các cuộc tranh chấp
thương mại này.
2. Môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng hoàn thiện và thông thoáng. Hoàn
thiện dần thể chế kinh tế thị trường.
Như đã nói ở trên, hội nhập kinh tế quốc tế như là con tàu đi vào đại dương. Đại dương
là của rất nhiều người và nó có những luật lệ chung mà mọi chiếc thuyền muốn hoạt động
được trong đó đều phải tuân theo. Do vậy, nền kinh tế muốn hội nhập được phải tuân thủ

những luật lệ ấy, không thể tùy tiện dùng cách hành xử theo thói quen của mình. Tất cả các
lĩnh vực từ văn bản pháp quy, bộ máy hành chính, tổ chức doanh nghiệp… cũng phải cải thiện
để phù hợp với các tiêu chuẩn mà WTO đưa ra. Chính từ nguyên nhân đó mà chính phủ khi
ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô trong thời gian tới sẽ phải luôn xem xét để không vi
phạm những nguyên tắc chung của tổ chức WTO. Điều này giúp cho việc định hướng xây
dựng môi trường kinh tế vĩ mô sẽ càng ngày càng trở nên thống nhất với những luật lệ và quy
tắc chung trong thương mại quốc tế, giúp cho môi trường đầu tư đối với những nhà đầu tư
nước ngoài sẽ thông thoáng và dễ dàng hơn rất nhiều. Chính sự thông thoáng và minh bạch đó
bản thân đã là một sự hấp dẫn đối với những nhà đầu tư nước ngoài. Không chỉ có môi trường
đầu tư được cải thiện, nền kinh tế cũng tiến dần tới một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Nền
kinh tế hiện nay chủ yếu là gồm những nước có nền kinh tế theo cơ chế thị trường, do vậy
những chuẩn mực chung thông nhất trong nền kinh tế thế giới cũng là những quy luật của nền
kinh tế thị trường. Chúng ta tôn trọng và không xâm phạm những quy tắc chung ấy chính là ta
5
đã gián tiếp thực hiện và tôn trọng sự tồn tại của những quy luật kinh tế thị trường. Do vậy, cơ
chế thị trường điều tiết nền kinh tế ngày càng rõ nét hay thể chế thị trường trong nền kinh tế
nước ta sẽ ngày càng được hoàn thiện.
3. Huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để có thể phát triển và phát triển
bền vững nền kinh tế.
Nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo động lực phát
triển kinh tế. Quá trình phát triển nền kinh tế nhất là trong thời đại hiện nay đòi hỏi rất nhiều
những nguồn lực khác nhau cả về vốn, kĩ thuật và nhân lực. Hiện nay, chúng ta không đơn
thuần chỉ có những nguồn lực trong nước có thể được dùng để phát triển kinh tế mà với sự tự
do di chuyển của các nguồn lực trên phạm vi thế giới, chúng ta hoàn toàn có thể huy động
thêm những nguồn lực nước ngoài trong công cuộc phát triển kinh tế. Gia nhập WTO đồng
nghĩa với việc sẽ gặp ít những rào cản hơn trước, di chuyển dễ dàng hơn nên việc huy động
những nguồn lực nước ngoài góp phần thực hiện mục tiêu phát triển sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.
Chẳng hạn như hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp
Việt Nam có điều kiện làm quen, tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật công nghệ cao cũng như
các phương thức, tác phong công nghiệp của các nước có nền công nghiệp phát triển như Hoa

Kỳ, EU, Nhật Bản. Nhờ đó mà các doanh nghiệp của chúng ta có thể nâng cao năng suất lao
động, tiết kiệm các chi phí về nhân công, rút ngắn chu kỳ sản xuất của sản phẩm, đồng thời
cũng đã tạo ra được những sản phẩm mới đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về chất lượng và
mẫu mã từ các nhà nhập khẩu, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công
nghiệp Việt Nam. Về vấn đề nhân lực, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cơ hội nâng cao
tay nghề cho người lao động và trau dồi kiến thức, nâng cao kinh nghiệm quản lý cho người
điều hành quá trình sản xuất. Kết quả là các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã
vào Việt Nam ngày một tăng trong hơn 10 năm trở lại đây. Riêng 4 tháng đầu năm 2006, con
số này là trên 2,3 tỷ đô la Mỹ, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh
tế.
4. Chủ động hơn trong việc tham gia xây dựng các chính sách thương mại tòa cầu
như các thành viên khác và bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng của đất nước, của
doanh nghiệp và người lao động.
Là một thành viên bình đẳng như những thành viên khác của WTO, Việt Nam sẽ được
góp tiếng nói của mình trong việc đưa ra những quyết sách chung của WTO. Cũng nhờ đó mà
nước ta có thể chủ động hơn trong việc bảo vệ lợi ích của mình trước những chính sách không
hợp lí và bình đẳng giữa tất cả các quốc gia thành viên. Việt Nam có thể bỏ quyền phủ quyết
đối với những quyết định bất hợp lí trên. Điều này khác hoàn toàn so với trứơc đây khi chúng
ta chưa là thành viên, chúng ta phải chấp nhận mọi quyết định áp đặt.
2.1.2 Thách thức
6
Đi đôi với những cơ hội kể trên là những thách thức không hề nhỏ. Hiện nay, rất nhiều
ngành kinh tế đang lo lắng trước áp lực cạnh tranh của các nước, đặc biệt là những ngành nông
nghiệp, công nghiệp… Cũng có 4 thách thức chủ yếu đối với nền kinh tế nước ta sau khi gia
nhập tổ chức WTO.
1. Sức ép cạnh tranh ngày càng mạnh
Khi gia nhập WTO, chúng ta phải tuân thủ những nguyên tắc chung của tổ chức, cắt
giảm các mức thuế xuống còn từ 0-5%, đói xử với hàng hóa trong nước và nước ngoài phải
bình đẳng. Nói một cách khác, chúng ta phải mở toang cửa đối với hầu hết các lĩnh vực của
nền kinh tế. Một khi không còn hàng rào thuế quan bảo hộ, sức ép cạnh tranh của hàng hóa

nước ngoài sẽ thể hiện rõ rệt nhất. Sức ép cạnh tranh mạnh thể hiện trên cả 3 cấp độ : sản phẩm
– sản phẩm; doanh nghiệp – doanh nghiệp; nhà nước – nhà nước. năng lực cạnh tranh nói
chung của toàn bộ nền kinh tế vẫn được đánh giá là yếu kém nên nếu không có những giải
pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền sản xuất trong nước thì Việt Nam sẽ thua ngay
trên chính sân nhà chứ chưa nói dến thị trường nước ngoài. Cạnh tranh không chỉ trong việc
giảm thuế quan bảo hộ mà trên thực tế, chúng ta còn thiếu kiến thức và thông tin về các tiêu
chuẩn quốc tế (chất lượng sản phẩm, quy trình quản lý chứng nhận chất lượng sản phẩm, vấn
đề bảo vệ môi trường...) cũng như về các cách thức tiếp cận thị trường và các quy định điều
chỉnh hoạt động kinh doanh từ các nước nhập khẩu. Điều này rất dễ làm sản phẩm của nước ta
không theo kịp những tiêu chuẩn chung của thê giới và rất dễ vấp phải những hàng rào bảo hộ
mới như hàng rào kỹ thuật… sẽ làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt nam
trên thị trường quốc tế.
2. Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa đem lại cơ hội cho tất cả mọi người nhưng không phải ai cũng có thể nắm
bắt và tận dụng được cơ hội giống nhau. Tùy thuộc vào năng lực của từng người mà mức độ
thành công hay thất bại của mỗi người sẽ khác nhau. Đứng trên phương diện toàn xã hội, điều
này làm cho một bộ phận dân cư sẽ không những không được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế
quốc tế mà sẽ còn phải chịu thiệt thòi; một bộ phận doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ phá
sản, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Bên cạnh đó, sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng rõ giữa các
vùng, các miền ngày càng tăng là một tác động tiêu cực cần phải được giải quyết để đảm bảo
an ninh trật tự, công bằng xã hội.
3. Phụ thuộc biến động của nền kinh tế thế giới
Chấp nhận một nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập chung vào sân chơi lớn là thị
trường thế giới đồng nghĩa với việc chúng ta phải chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế. Giờ đây mỗi quốc gia đang dần trở thành một mắt xích trong dây chuyền sản xuất
quốc tế. Những biến động từ bất kì một mắt xích nào cũng đều có thể dẫn đến những biến động
7
lớn đối vớ những mắt xích còn lại. tác động này sẽ càng lớn và càng rõ rết đối với những nền
kinh tế nhỏ và đang phát triển như Việt Nam. Bất kì một diễn biến bất thường nào từ trong dây
chuyền sản xuất ấy đều có thể ảnh hưởng tiêu cực lớn đến tình hình phát triển kinh tế chính trị,

xã hội của nước ta. Nếu không kiểm sóat và xử lý đúng sẽ dẫn đến rối loạn thị trường, thậm chí
khủng hoảng kinh tế. Chính vì vậy nên chúng ta cần có những giải pháp để hạn chế những tác
động tiêu cực trên.
4. Chất lượng nguồn nhân lực
Về chất lượng của nguồn nhân lực thì đây cũng là một điểm yếu của nền kinh tế Việt
Nam. Hiện tại, chát lượng nguồn nhân lực của nước ta hãy còn thấp, trình độ lao động chưa thể
đảm bảo đáp ứng được với nền sản xuất với dây chuyền công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó, vấn
đề đào tạo nguồn nhân lực cũng có những bất cập. Các chương trình đào tạo tại bậc đại học
hiện nay nhìn chung đều bị đánh giá là nặng về lí thuyết, nguồn nhân lực sau đào tạo thường
không đáp ứng được nhu cầu thực tế cuả công việc mà thường là cần phải được đào tạo lại mới
có thể làm đuợc việc. Nguồn nhân lực đối với bất kể nền kinh tế nào, dù lớn hay nhỏ, đếu có
vai trò rất quan trọng tới sự phát triển của nền kinh tế đó. Chất lượng nguồn nhân lực thấp sẽ
trở thành sức ì và lực cản đối với sự phát triển của nền kinh tế.
2.1.3 Giải pháp
1. Hoàn thiện hệ thống luật và nhận thức rõ vai trò của mình
Đối với Nhà nước, điều cấp thiết là tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phù
hợp với thông lệ của WTO, bao gồm cả bốn nội dung: Luật chơi, người chơi, cách chơi và sân
chơi. Trong đó, “luật chơi” - là hệ thống pháp lý và các chuẩn mực; “người chơi” - là chủ thể
kinh tế thị trường chính, bao gồm cả tập thể, cá nhân, các thành phần kinh tế; “cách chơi” -
chính là cơ chế để thực thi quy tắc; và “sân chơi” - các thị trường, yếu tố cơ bản phải gấp rút
hoàn thành. Vai trò chủ yếu của nhà nước là xây dựng môit trường vĩ mô để các doanh nghiệp
trong và ngòai nước có thể hoạt động và hoạt đông thuận lợi trong đó. Bên cạnh đó, nhà nước
cũng cần phải phân định được vai trò quản lý kinh tế của nhà nước với chức năng kinh doanh
của các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước không phải là chủ thể tham gia hoạt dộng trực tiếp
trên thi trường mà là người quản lý và điều tiết thị trường.
2. Các chính sách thúc đẩy phát triển công nghệ
Năng lực cạnh tranh phụ thuộc rất hiều vào trình độ của công nghệ sản xuất. Trong bối
cảnh hiện nay, công nghệ đã trở thành một lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, nhà nước cần
phải có những chính sách thích hợp để khuyến khích việc chuyển giao công nghệ từ các quốc
gia phát triển như Nhật, Mĩ… Đi tắt đón đầu về công nghệ để có thể nâng cao trình độ của

công nghệ sản xuất, tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
8

×