Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN VÀ CHẤT LƯỢNG CỦA TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.39 KB, 21 trang )

TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN VÀ CHẤT LƯỢNG CỦA TÍN
DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng Thương mại
Bắt đầu từ thời trung cổ, một số nhà thương nghiệp đã tách ra chuyên kinh
doanh và đổi tiền đúc. Cùng với sự phát triển của thương nghiệp và ngoại thương,
họ còn giúp các thương nhân bảo quản tiền, chuyển tiền và thanh toán và đây là
tiền đề cho sự ra đời của nghề Ngân hàng. Từ thế kỷ 15 trở về trước, có sự xuất
hiện của các Ngân hàng cho vay nặng lãi. Bắt đầu từ thế kỷ 16, khi phương thức
sản xuất từ bản chủ nghĩa hình thành ở nhiều nước châu Âu. Thương mại bắt đầu
phát triển, các Ngân hàng tư bản chủ nghĩa lần lượt ra đời, độc lập với nhau và
thực hiện các chức năng như nhau, đó là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán
và phát hành giấy bạc ngân hàng. Thời kỳ này các Ngân hàng chủ yếu áp dụng
mức lãi suất vừa phải. Đến thế kỷ 19, bắt đầu xuất hiện Ngân hàng Trung ương
thực hiện chức năng phát hành tiền. Các Ngân hàng còn lại chỉ làm trung gian tín
dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế, được gọi là Ngân hàng trung gian
hay Ngân hàng kinh doanh. Sang đến thế kỷ 20, đánh dấu sự ra đời của các Ngân
hàng đa năng, Ngân hàng chuyên kinh doanh trong một lĩnh vực và các tổ chức tín
dụng (TCTD). Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 đến những năm 80 của thế kỷ 20,
hệ thống Ngân hàng kinh doanh đã hoàn chỉnh và phát triển ở trình độ cao. Xuất
hiện nhiều Ngân hàng quy mô lớn, xuyên quốc gia như Ngân hàng thế giới (WB),
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS), Ngân
hàng Trung ương châu Âu (EUB)…các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF). Như vậy sự ra đời của Ngân hàng Thương mại (NHTM) đã khơi
thông sự chu chuyển vốn và góp phần tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế.
Từ lịch sử hình thành hệ thống NHTM cho thấy các Ngân hàng chỉ xuất hiện
trong điều kiện nền kinh tế đã phát triển đến một trình độ nhất định dẫn đến tính tất
yếu khách quan của việc hình thành hệ thống Ngân hàng gắn bó chặt chẽ với sự
phát triển kinh tế. Trước thế kỷ 19, Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu,
thương mại kém phát triển vì thế nghề kinh doanh tiền tệ mang nặng tính phân tán,
chủ yếu là đổi tiền và cho vay nặng lãi. Từ nửa cuối thế kỷ 19, cùng với sự xâm


lược và đô hộ của thực dân Pháp, ở Việt Nam đã xuất hiện các Ngân hàng tư bản
chủ nghĩa. Ngày 6 tháng 5 năm 1951 Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành
lập theo sắc lệnh số 15/SL. Đến tháng 9 năm 1960 được mang tên là Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam. Trong giai đoạn 1951 – 1987, ở Việt Nam chỉ tồn tại hệ thống
Ngân hàng một cấp. Tuy hệ thống Ngân hàng hai cấp đã xuất hiện ở nước ta từ
năm 1955 đến 1975 ở chế độ ngụy quyền Sài Gòn (miền nam Việt Nam) nhưng
đến 26/3/1988 thì hệ thống này mới được áp dụng trong toàn quốc. Chỉ sau khi hai
pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 và hai Luật Ngân hàng năm 1998 thì hệ thống
Ngân hàng hai cấp ở Việt Nam mới thực sự được xây dựng phù hợp với mô hình
Ngân hàng hai cấp của nền kinh tế thị trường. Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực
hiện chức năng phát hành tiền, quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và Ngân
hàng. Còn các NHTM, Ngân hàng chuyên doanh, công ty tài chính, quỹ tín dụng…
thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ.
Khi mới ra đời, NHTM hoạt động chủ yếu là cho vay đối với lĩnh vực
thương mại, nhưng ngày nay nó mang tính tổng hợp và đa năng. Các NHTM
không chỉ có quan hệ rộng rãi với mọi khách hàng thuộc các lĩnh vực và các thành
phần kinh tế khác nhau, mà còn rất nhiều các dịch vụ về tiền tệ – tín dụng. Có rất
nhiều cách hiểu khác nhau về NHTM dưới đây là một số quan điểm:
• Theo nhà kinh tế học David Begg: NHTM là trung gian tài chính có giấy
phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền và mở các tài khoản tiền gửi.
• Ở Mỹ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính.
• Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp thường xuyên nhận của công chúng
dưới hình thức tiền gửi hay hình thức khác và họ dùng vào nghiệp vụ chiết khấu,
tín dụng hay dịch vụ tài chính.
• Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản tiền gửi để cho vay, tài trợ và
đầu tư.
Từ các quan điểm khác nhau trên có thể rút ra một định nghĩa cuối cùng về
NHTM như sau:
Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền

tệ – tín dụng, với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp
các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế quốc dân.
Các NHTM có các đặc trưng cơ bản sau:
• Là một tổ chức được phép nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả.
• Sử dụng tiền gửi của khách hàng để cho vay, chiết khấu và đầu tư.
• Thực hiện các khoản thanh toán và các dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng.
Tổ chức tín dụng nào có đầy đủ ba đặc trưng trên mới được coi là NHTM.
1.1.2 Các chức năng của Ngân hàng Thương mại
• Chức năng trung gian tín dụng
NHTM huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các chủ thể kinh tế trong xã
hội rồi dùng nguồn vốn này để cho vay đối với các chủ thể kinh tế thiếu vốn – có
nhu cầu bổ sung vốn. Như vậy, hoạt động của NHTM là “đi vay để cho vay”, là
“cầu nối” giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn. Hoạt động này
đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng nhờ chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất
huy động. Chức năng trung gian tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả
các đối tác trong quan hệ tín dụng. Người gửi tiền thu được lợi từ vốn tạm thời
nhàn rỗi với khoản lãi tiền gửi. Người đi vay thỏa mãn được nhu cầu vốn cho sản
xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng, mà không phải tốn kém nhiều chi phí và thời gian
cho việc tìm kiếm nơi cung cấp vốn. Còn bản thân NHTM thu được lợi nhuận từ
chênh lệch về lãi suất. Đối với nền kinh tế, chức năng này góp phần thúc đẩy kinh
tế, điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền và kiềm chế lạm phát. Từ
những nội dung trên, có thể kết luận rằng chức năng trung gian tín dụng là chức
năng cơ bản và quan trọng nhất của NHTM.
• Chức năng trung gian thanh toán
Khi làm trung gian thanh toán, NHTM tiến hành một số nghiệp vụ như: Mở
tài khoản tiền gửi, nhận vốn tiền gửi vào tài khoản và thanh toán theo yêu cầu của
khách hàng. Với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của NHTM thì phần lớn các
khoản thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ của xã hội được thực hiện qua Ngân hàng
với những hình thức thanh toán tiên tiến và thủ tục ngày càng đơn giản. Chính vì
vậy hoạt động thanh toán trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm chi

phí. Điều này góp phần đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, tốc độ luân chuyển
vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội. NHTM huy động tối đa nguồn
vốn trong xã hội, giám sát kỹ luật hợp đồng kinh tế, tài chính và thanh toán theo
đúng quy định của pháp luật Nhà nước.
• Chức năng tạo tiền
Chức năng này chỉ được thực hiện khi hệ thống Ngân hàng hai cấp đã được
hình thành và các chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán đã thực
hiện. Từ một khoản tiền gửi ban đầu, thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong
hệ thống NHTM, số tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với lượng tiền gửi ban đầu.
Khối lượng tiền do các NHTM tạo ra có ý nghĩa lớn, tạo ra những điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của quá trình sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu sử dụng
tiền của xã hội. Việc tạo ra tiền chuyển khoản để thay thế cho tiền mặt là một sáng
kiến quan trọng thứ hai của lịch sử hoạt động ngân hàng. Chính nhờ phương thức
tạo tiền đã tiết kiệm được chi phí lưu thông và Ngân hàng trở thành trung tâm của
đời sống kinh tế – xã hội.
1.1.3 Vai trò của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường
Vai trò của NHTM là kết quả của việc thực hiện các chức năng và triển khai
cụ thể các hoạt động kinh doanh của nó. Trong nền kinh tế vai trò của NHTM được
thể hiện như sau:
• Thứ nhất: NHTM góp phần thúc đẩy sự phát triển và nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh.
• Thứ hai: NHTM góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng
công nghiệp, hóa hiện đại hóa.
• Thứ ba: NHTM tạo lập môi trường cho việc thực thi chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Trung ương (NHTW).
• Thứ tư: NHTM là cầu nối giữa kinh tế quốc gia với kinh tế quốc tế.
1.2 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm về tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Thương mại
Tín dụng trung dài hạn (TDTDH) là: “hoạt động tổ chức tín dụng cho khách

hàng vay vốn trung dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, phục vụ đời sống”. Tùy theo từng quốc gia, từng thời kỳ mà có những
quy định cụ thể của hoạt động TDTDH. Ở Việt Nam, về thời hạn cho vay được xác
định phù hợp với thời gian thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách
hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của TCTD. Hình thức tín dụng này có một số
đặc trưng sau:
• Thời hạn đáo hạn trên 1 năm. Thời hạn cho vay trung hạn: từ 12 đến 60
tháng. Thời hạn cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn
hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp
nhân và không quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống.
• Khoản tín dụng này được trả dần bằng những khoản trả vay theo thời gian
(có thể theo quý, nửa năm hoặc thanh toán hàng năm) trong kỳ hạn của khoản vay.
• Chúng thường được đảm bảo bằng tài sản lưu động đem ra thế chấp hoặc
có văn tự cầm cố tài sản cố định.
Mục đích của hoạt động TDTDH là để đầu tư dự án, xây dựng mới, mua
sắm tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới cải tiến thiết bị công
nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm mục tiêu lợi nhuận phù hợp với chính sách
phát triển kinh tế xã hội và pháp luật quy định.
1.2.2 Các hình thức tín dụng trung dài hạn
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các hình thức TDTDH
ngày càng phong phú và hấp dẫn. Có thể nêu ra đây một số hình thức TDTDH:
• Hoạt động tín dụng theo dự án đầu tư: Đây là hình thức TDTDH chủ yếu
của các NHTM Việt Nam hiện nay. Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất dựa
trên cơ sở căn cứ khoa học và thực tiễn về việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng,
cải tạo đổi mới kỹ thuật và cộng nghệ những đối tượng là tài sản cố định nhằm đạt
được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm
hay dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định. Dựa vào lĩnh vực tài trợ mà
người ta chia hai hình thức phổ biến:
Hình thức TDTDH nhằm cải tạo, khôi phục, mở rộng, thay thế tài sản cố định.
Hình thức TDTDH nhằm đầu tư cho các dự án xây dựng mới, đổi mới kỹ

thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ để tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh.
• Cho thuê tài chính: Đây là hoạt động TDTDH trên cơ sở hợp đồng cho
thuê tài sản giữa bên cho thuê là TCTD với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn
thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài sản đố theo các điều kiện đã thỏa
thuận trong hợp đồng. Hoạt động này đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nói
chung và các bên liên quan nói riêng.
• Thấu chi (vượt chi): là hình thức Ngân hàng chấp nhận cho khách hàng
được quyền chi vượt số dư trên tài khoản tiền gửi với những điều kiện nhất định.
Chi phí cơ bản đối với người vay là lãi suất đánh vào số dư thấu chi này. Người
vay nói chung chỉ phải trả lãi số tiền đã sử dụng vì không có yêu cầu số dư bồi
thường và chi trong giai đoạn số tiền bị lấy đi. Cho nên, chi phí hữu hiệu của một
khoản nợ thấu chi là lãi suất được định ra trên số dư thấu chi.
• Bảo lãnh trung dài hạn mua thiết bị trả chậm: Đây là cam kết của Ngân
hàng về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay thế cho chủ đầu tư đứng ra nhập máy
móc thiết bị với thời gian ít nhất là một năm trong trường hợp khách hàng không
thực hiện được nghĩa vụ trả nợ với nhà xuất khẩu. Hình thức này được áp dụng khi
chủ đầu tư muốn nhập máy móc thiết bị của nước ngoài mà không có tiền trả hết
ngay một lần. Họ ký hợp đồng với bên xuất khẩu xin trả dần giá trị của thiết bị
nhập hàng năm dưới sự bảo lãnh của Ngân hàng. Việc này rất có lợi cho chủ đầu tư
vì họ không phải bỏ ngay ra một khoản tiền lớn để mua máy móc thiết bị mà khoản
tiền này sẽ được trả dần khi chính các máy móc thiết bị đó sinh lời. Tuy nhiên, nếu
chủ đầu tư không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ cho bên xuất khẩu thì Ngân hàng
sẽ phải đứng ra trả nợ thay cho chủ đầu tư, lúc này Ngân hàng trở thành chủ nợ
chính của chủ đầu tư.
1.2.3 Vai trò của tín dụng trung dài hạn đối với phát triển kinh tế
1.2.3.1 Vai trò của tín dụng trung dài hạn đối với nền kinh tế
Ở tất cả các quốc gia, nhu cầu vốn trung dài hạn cho đầu tư xây dựng các
công trình sản xuất kinh doanh mới, hiện đai hóa công nghệ sản xuất, mở rộng các
ngành sản xuất vật chất đều rất lớn. Nhu cầu này được thỏa mãn một phần bằng

vốn ngân sách Nhà nước, vay nước ngoài, một phần huy động dân cư nhưng phần
lớn vẫn bằng TDTDH của NHTM.
• TDTDH giúp tăng tích lũy vốn để mở rộng sản xuất cho nền kinh tế.
• TDTDH tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật
• TDTDH thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa
– hiện đại hóa.
• TDTDH thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu.
• TDTDH tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn.
• TDTDH tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
• TDTDH tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Như vậy, đầu tư cho vay trung dài hạn trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần
phát triển khoa học công nghệ, ổn định lạm phát, nâng cao đời sống của dân cư,
phát triển lực lượng lao động, đẩy mạnh tăng trưởng ổn định. Chính vì vậy, nâng
cao hiệu quả hoạt động tín dụng là việc vô cùng cấp bách đối với sự phát triển kinh
tế cả ở hiện tại và tương lai.
1.2.3.2 Vai trò của tín dụng trung dài hạn đối với doanh nghiệp
Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có nghĩa là doanh nghiệp phải chấp
nhận cạnh tranh khốc liệt, muốn tồn tại và phát triển thì phải thắng trong cạnh
tranh. Để có thể giành được thắng lợi trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải xây
dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp với tiềm lực của doanh nghiệp,
đồng thời thực hiện tốt chiến lược kinh doanh đó. Về dài hạn, các doanh nghiệp
luôn chú trọng đến việc mở rộng sản xuất, xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy
móc, đổi mới công nghệ để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm
và giảm chi phí đến mức tối thiểu. Để đáp ứng những nhu cầu trên doanh nghiệp
cần một lượng vốn không nhỏ. Doanh nghiệp có thể huy động vốn dưới nhiều hình
thức: tích lũy trong quá trình sản xuất kinh doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu
hoặc vay Ngân hàng. Tuy nhiên, với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tự
tích lũy là không đáng kể, phát hành cổ phiếu, trái phiếu liên quan đến sự phân
chia quyền lực kiểm soát công ty… Đối với doanh nghiệp, việc vay vốn trung dài

×