Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại ổ phần Ngoại Thương Việt Nam, Chi nhánh Thăng Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (459.34 KB, 91 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế ngày càng phát triển, các quan hệ kinh tế cũng ngày càng được
mở rộng và phức tạp thêm. Trong bối cảnh kinh tế hiện nay thì sự xuất hiện của hệ
thống Ngân hàng thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong việc điều tiết nền
kinh tế phát triển theo định hướng, Các ngân hàng thương mại ngày càng tỏ rõ vai
trò là kênh dẫn vốn hữu hiệu từ cá nhân, từ các tổ chức đến các nhà đầu tư. Hiện
nay, với diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, hàng loạt
các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đang trên bên vực phá sản, thế giới cũng đã
chứng kiến sự sụp đổ của các đế chế tài chính, sự tụt dốc của cường quốc kinh tế
Hoa Kỳ, của Nhật Bản …Không nằm ngoài vòng xoáy đó, kinh tế Việt Nam cũng
đã và đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề nghiêm trọng: tỷ lệ thất nghiệp gia
tăng nhanh, lạm phát leo thang, chỉ số giá tiêu dùng giảm…Song trong thời gian
vừa qua, chúng ta không thể phủ nhận Nhà nước, các Ngân hàng,... đã có những
biện pháp tích cực dần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng trên, trên đà phục hồi nền
kinh tế.
Là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất của Ngân hàng, không thể
phủ nhận vai trò to lớn của hoạt động tín dụng trung dài hạn trong việc ổn định và
thúc đẩy sự phát triển kinh tế sau những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế
giới. Hiệu quả của hoạt động này không chỉ có ý nghĩa đối với Ngân hàng mà còn
có ý nghĩa với từng cá nhân, từng doanh nghiệp và với cả nền kinh tế và chất
lượng của nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: ngân hàng, khách hàng, môi trường
kinh tế,...Trước những vai trò to lớn của mình, nâng cao chất lượng hoạt động tín
dụng trung dài hạn là việc làm cần thiết và liên tục đối với mỗi ngân hàng, đòi hỏi
ngân hàng phải có những chính sách hợp lý mới thu được hiệu quả cao.
Thời gian vừa qua em có tham gia thực tập tại Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Ngoại thương Việt Nam- Chi nhánh Thăng Long, nhận thức được tầm quan
trọng của tín dụng trung dài hạn nên em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng
tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam,
Chi nhánh Thăng Long” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1
Cơ cấu đề tài có 3 chương lớn sau:


Chương I. Lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài
hạn tại Ngân hàng thương mại.
Chương II. Thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Ngân
hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, Chi nhánh Thăng Long.
Chương III. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, Chi nhánh Thăng Long.
2
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG, DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
1.1.Ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền
kinh tế nói chung và đối với các cộng đồng địa phương, chủ thể nói riêng. Theo
các nghiên cứu, lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử
phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và
đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng; đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống
ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Kinh tế thị trường sản
sinh ra các chợ tiền trong đó, ngân hàng thương mại không phải chạy theo tiền bạc
mà bắt tiền bạc chạy theo mình, điều khiển tiền bạc chuyển hóa tinh vi từ nơi này
đến nơi khác. Các ngân hàng mạnh, nền kinh tế sẽ mạnh; các ngân hàng yếu, nền
kinh tế sẽ yếu. Thậm chí nếu các ngân hàng đổ vỡ, nền kinh tế sẽ lâm vào khủng
hoảng và sụp đổ. Vì thế, các nhà kinh tế học đã thường gọi “ngân hàng là doanh
nghiệp đặt biệt”, là “hệ thần kinh, là trái tim của nền kinh tế”.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ
vàng. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại ( bạc hoặc vàng), các chủ cửa hàng
vàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền và cho vay nặng lãi. Họ chính
là những người làm nghề kinh doanh tiền tệ hay còn gọi là nhà buôn tiền. Từ
những hoạt động thực tiễn họ nhận thấy rằng luôn có những người gửi tiền vào và
lấy tiền ra nhưng hai hoạt động này không đồng thời cùng một lúc đã tạo ra một

số dư thường xuyên có ở trong két và nhà buôn tiền có thể sử dụng một phần tiền
gửi của khách để cho vay. Hoạt động này đã làm thay đổi cơ bản hoạt động của
nhà buôn tiền- kẻ cho vay nặng lãi thành nhà buôn tiền- ngân hàng. Bên cạnh đó,
nó còn tạo ra một lợi nhuận lớn nên các ngân hàng tìm cách thu hút tiền gửi để
cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền.
Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc
vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Song, các yếu tố trên đang không
ngừng thay đổi. Trong thực tế hiện nay có rất nhiều những tổ chức tài chính khác (
3
như công ty chứng khoán, bảo hiểm, các quỹ) đang cố gắng cung cấp các dịch vụ
ngân hàng. Và ngược lại, các ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp sản
phẩm, dịch vụ về bất động sản, chứng khoán, bảo hiểm, đầu tư vào các quỹ,...
Theo cách tiếp cận trên phương diện các loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp thì
ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và thanh toán- và thực hiện nhiều chức
năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
ghi “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhân tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng
và cung ứng các dịch vụ thanh toán”
Ở nước ta, các loại hình ngân hàng được hoạt động theo Luật các tổ chức
tín dụng là: Ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân
hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại.
* Mua bán ngoại tệ.
Đây là một trong những dịch vụ đầu tiên của Ngân hàng. Với hoạt động
này, Ngân hàng thực hiện trao đổi, mua bán ngoại tệ: mua bán một loại tiền này
lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
* Nhận tiền gửi.
Để có thể cho vay, Ngân hàng cần phải huy động được nhiều tiền, một

trong những nguồn quan trọng đó là tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm.
Ngân hàng nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng
hạn. Khi nhận tiền gửi, Ngân hàng phải trả cho người gửi tiền một khoản lãi như
là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước
mắt và cho phép Ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
* Cho vay.
- Cho vay thương mại: Cho vay là hoạt động sinh lời cao của Ngân hàng
thương mại. Ở thời kỳ đầu, các Ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực
chất là cho vay đối với những người bán. Sau đó, Ngân hàng cho vay trực tiếp đối
4
với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất
kinh doanh.
- Cho vay tiêu dùng: Trong thời kỳ đầu, các Ngân hàng không tích cực cho
vay đối với các cá nhân, các hộ gia đình vì họ nghĩ rằng những khoản cho vay với
mục đích tiêu dùng này có khả năng vỡ nợ cao. Nhưng hiện nay, với sự gia tăng
của thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã khiến cho
Ngân hàng ngày càng mở rộng hoạt động này và hướng đến người tiêu dùng như
một khách hàng tiềm năng.
- Tài trợ dự án: Đây là hoạt động tài trợ trung, dài hạn: tài trợ xây dựng,
phát triển ngành, đầu tư bất động sản,...
* Bảo quản tài sản hộ.
Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố hay
những giấy tờ quan trọng khác của khách hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật,
thuận tiện. Dịch vụ này phát triển cùng nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ các
giấy tờ có giá, thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ,...
* Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Việc giao dịch, thanh toán qua Ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không
dùng tiền mặt. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần rút
ngắn thời gian kinh doanh, nâng cao thu nhập cho khách hàng. Cùng với sự phát
triển của công nghệ thông tin đã phát triển một số hình thức thanh toán mới bằng

thẻ, điện,...
* Quản lý ngân quỹ.
Quản lý ngân quỹ là việc Ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho
một công ty kinh doanh, tiến hành đầu tư phần tiền mặt tạm thời vào các chứng
khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh
toán.
* Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ.
Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ,
Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận đến các khoản cho vay của Ngân
hàng.Các Ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam
5
kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho
Chính phủ.
* Bảo lãnh.
Bảo lãnh là một nghiệp vụ ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân
hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và trang thiết
bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác,...
* Cho thuê thiết bị trung dài hạn ( Leasing).
Ngân hàng tích cực cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị máy
móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua trong đó Ngân hàng mua thiết bị và
cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc 100%
giá trị của tài sản cho thuê. Cho thuê thiết bị trung dài hạn cũng được xếp vào tín
dụng trung dài hạn.
* Cung cấp dịch vụ ủy thác, tư vấn.
Nhiều khách hàng coi Ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính vì
trong lĩnh vực tài chính, các Ngân hàng có rất nhiều chuyên gia trong quản lý.
Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sáp
nhập doanh nghiệp.
* Cung cấp các dịch vụ môi giới, đầu tư chứng khoán.
* Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.

Từ nhiều năm nay, Ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó
bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng gặp những rủi ro, mất khả
năng trong thanh toán. Ngân hàng liên kết với các công ty bảo hiểm hoặc mở công
ty bảo hiểm con để cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
* Cung cấp các dịch vụ đại lý.aq
Nhiều ngân hàng, thường là những Ngân hàng lớn có chi nhánh rộng khắp,
cung cấp dịch vụ đại lý cho các Ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hàng hộ,
làm Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ.
6
1.1.3. Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại.
* Trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức
trong nền kinh tế. Trong thực tế luôn xảy ra trường hợp có những cá nhân và tổ
chức tạm thời thâm hụt trong chi tiêu và có những cá nhân và tổ chức thặng dư
trong chi tiêu. Điều tất yếu xảy ra là tiền sẽ chuyển từ nhóm thặng dư sang nhóm
thâm hụt này nếu cả hai bên cùng có lợi. Thu nhập gia tăng là động lực để tạo ra
mối quan hệ giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở
lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ
tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Trung gian tài chính
làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm, đồng thời
làm giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư ( tăng thu nhập cho người đầu tư) từ
đó mà khuyến khích đầu tư. Song, hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó
gánh chịu rủi ro và sử dụng các kĩ thuật nghiệp vụ hạn chế, phân tán rủi ro và
giảm chi phí giao dịch.
Một đóng góp khác nữa của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các
khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho
người gửi tiền. Thực tế là các ngân hàng tham gia việc kinh doanh rủi ro. Ngân
hàng cũng thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Một lý do nữa làm ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm

định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin
được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị
trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và
kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn các công cụ
và có yếu tố rủi ro- lợi nhuận hấp dẫn nhất.
* Tạo phương tiện thanh toán.
Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Trước
đây, các ngân hàng thợ vàng đã tạo được phương tiện thanh toán bằng cách phát
hành các giấy nhận nợ với khách hàng. Với nhiều ưu thế, giấy nhận nợ của ngân
hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất giữ,
nó trở thành tiền giấy. Việc in tiền mang lại lợi nhuận lớn và với nhu cầu có đồng
7
tiền quốc gia duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước tập trung quyền lực phát hành
vào một tổ chức hoặc là Bộ Tài chính, hoặc là Ngân hàng Trung ương.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng
nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi
trả để có được hàng hóa, dịch vụ theo yêu cầu. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên
tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hành tăng lên, khách hàng có thể dùng để
mua hàng hóa và dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay, ngân hàng đã tạo ra phương
tiện thanh toán. Bên cạnh đó, toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện
thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng
khác trên cơ sở cho vay. Trong khi không có một ngân hàng riêng lẻ nào có thể
cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối
lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay.
* Trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất tại các quốc gia hiện
nay. Thay mặt khách hàng của mình, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng
hóa và dịch vụ. Một số hình thức thanh toán như: séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các
loại thẻ,... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền
giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng thanh toán bù trừ với nhau thông qua

ngân hàng Trung ương hoặc qua các trung gian thanh toán. Nhiều hình thức thanh
toán cũng được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán, không
chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn
thế giới.
Trên cơ sở các chức năng trên, ngân hàng có một số dịch vụ sau: nhận
tiền gửi, cho vay, mua bán ngoại tệ, bảo quản tài sản hộ, cung cấp các tài khoản
giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của
Chính phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp dịch vụ ủy thác
và tư vấn, cung cấp các dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán, cung cấp các
dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ đại lý,...
Dựa trên những chức năng của mình, Ngân hàng thương mại có những vai
trò như:
- Ngân hàng thương mại tập trung tiền nhàn rỗi trong dân cư và cung ứng
nó cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
8
- Ngân hàng thương mại đóng vai trò là trung gian thanh toán, giúp hoatj
động sản xuất, lưu thông hàng hóa diễn ra nhanh chóng
- Ngân hàng góp phần quan trọng trong điều tiết thị trường tiền tệ, thị
trường vốn.
- Ngân hàng giúp thu hút và mở rộng đầu tư trong và ngoài nước, cung cấp
các dịch vụ ngày càng tiện ích đến khách hàng.
1.1.4. Các loại hình tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ra đời từ thế kỷ XVI, là một tất yếu khách quan, phù hợp với sự
phát triển của xã hội và ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế
toàn cầu. Theo định nghĩa: “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn lẫn nhau
theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo một thời gian nhất định với một bên là
ngân hàng- một tổ chức chuyên doanh trong lĩnh vực tiền tệ với một bên là các
đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội và dân cư trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng
vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay”. Có rất nhiều cách để phân chia
tín dụng ngân hàng như phân chia theo thời gian, theo hình thức tài trợ, theo hình

thức đảm bảo, theo rủi ro,....
1.1.4.1. Tín dụng chia theo thời gian.
Việc phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì
thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn, sinh lợi của tín dụng cũng như khả
năng thanh toán của khách hàng. Theo thời gian: tín dụng được chia thành 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: có thời hạn từ 12 tháng trở xuống, chủ yếu tài trợ cho
tài sản lưu động.
- Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm( có ngân hàng quy định là
7 năm), tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, cây trồng vật nuôi,
trang thiết bị chống hao mòn.
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm( có ngân hàng là 7 năm) tài trợ
cho công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu, đường, máy móc, thiết bị có giá trị
lớn, thường có thời hạn sử dụng lâu.
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn trong ngân hàng thương mại thường cao hơn
tỷ trọng trung dài hạn vì tín dụng trung dài hạn có rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt
hơn và khan hiếm hơn.
9
1.1.4.2. Tín dụng chia theo hình thức tài trợ.
- Cho vay: Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay
là tài sản lớn nhất trong các khoản mục tín dụng.
- Chiết khấu thương phiếu: Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng
trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu, trừ đi phần thu
nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn hoặc một giấy nợ.
- Cho thuê: Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách
hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng
phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
- Bảo lãnh: Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài
chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra nhưng ngân hàng
đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.

1.1.4.3. Tín dụng chia theo hình thức đảm bảo.
Có 2 loại: tín dụng có đảm bảo và tín dụng không có đảm bảo bằng tài
sản thế chấp, cầm cố. Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có
đảm bảo nhưng ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân
hàng có thể bán đi thu nợ được nếu khách hàng không trả được nợ. Tín dụng
không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường
là khách hàng làm ăn có lãi thường xuyên, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra
tình trạng nợ nần, dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người
vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không
cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các công ty lớn, các tổ chức tài
chính lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả
năng giám sát việc bán hàng,... cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
1.1.4.4. Tín dụng phân loại theo rủi ro.
Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản mục
tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín dụng có rủi ro cao, đánh giá chất lượng tín
dụng.
10
- Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
- Tín dụng có vấn đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng
gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính,...
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn,..
- Nợ quá hạn khó đòi: là các khoản nợ quá hạn lâu, khả năng trả nợ rất
kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì,...
1.1.4.5. Phân loại khác.
- Theo ngành kinh tế: Công nghiệp, nông nghiệp,...
- Theo đối tượng tín dụng: Tài sản lưu động, tài sản cố định.
- Theo mục đích: sản xuất, tiêu dùng,...
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hóa trong

cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng
phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế.
1.1.5. Tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại.
1.1.5.1. Khái niệm.
Theo định nghĩa, tín dụng trung và dài hạn là hoạt động tài chính cho
khách hàng vay vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án phát triển sản xuất
kinh doanh, phục vụ đời sống.
Tùy theo ở từng quốc gia, từng thời kỳ mà có những quy định khác nhau
về tín dụng trung và dài hạn. Ở Việt Nam, thời hạn cho vay được xác định phù
hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và
tính chất nguồn vốn vay của tổ chức tín dụng. Hiện nay, thời hạn của tín dụng
trung và dài hạn được xác định là những khoản cho vay trên 1 năm. Chúng được
trả bằng những khoản trả vay theo thời gain trong kỳ hạn của khoản vay, được
đảm bảo bằng những tài sản thế chấp, cầm cố. Mục đích của hoạt động tín dụng
trung dài hạn là để đầu tư dự án, xây dựng mới, mua sắm tài sản cố định, mở rộng
sản xuất kinh doanh, đổi mới cải tiến thiết bị công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ
11
thuật nhằm mục tiêu lợi nhuận, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội và
pháp luật quy định.
1.1.5.2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn.
1.1.5.2.1. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp.
- Tín dụng trung dài hạn là nguồn tài trợ giúp doanh nghiệp có điều kiện
mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường. Mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng
thị trường là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp ngày
càng lớn mạnh, cạnh tranh hơn trong nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp nào
cũng muốn mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường nhưng hoạt động này
cần phải có nguồn vốn lớn và trong thời gian dài, không thể một sớm một chiều
được. Đây là điều mà không phải doanh nghiệp nào cũng làm được với nguồn vốn
tự có của mình. Do vậy, nhu cầu vốn trung dài hạn để sản xuất kinh doanh là rất
lớn. Có nhiều cách để một doanh nghiệp huy động nguồn vốn trung dài hạn như:

vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu,... Song, với những lợi thế đặc thù, tín dụng
trung dài hạn ngân hàng là hình thức được các doanh nghiệp ưu tiên chọn lựa hơn
cả.
- Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới
công nghệ, thay đổi cơ cấu sản xuất. Xã hội, nền kinh tế toàn cầu đang biến đổi
từng ngày cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ. Ứng dụng khoa học
công nghệ kỹ thuật trong sản xuất giúp sản xuất ngày càng mở rộng, giảm giá
thành, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tín dụng trung dài hạn sẽ
giúp các doanh nghiệp làm được việc đó, giúp doanh nghiệp thích nghi với tình
hình thị trường, với đặc thù của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
kinh doanh có hiệu quả.
- Tín dụng trung và dài hạn là trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp trong
việc thỏa mãn và chớp cơ hội kinh doanh. Cơ hội kinh doanh xuất hiện trên thị
trường nhưng không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có đủ nguồn vốn để chớp lấy
được những cơ hội ấy. Chớp lấy cơ hội kinh doanh là một việc hết sức quan trọng
vì nó giúp cho doanh nghiệp ngày càng phát triển, có được cơ hội mà các doanh
nghiệp khác không có, tạo thế dẫn đầu. Tín dụng trung dài hạn sẽ giúp doanh
nghiệp thực hiện được điều này. Khi doanh nghiệp đi vay vốn tại ngân hàng
thương mại sẽ có thể được điều chỉnh kỳ hạn nợ, tránh được các chi phí phát
12
hành, lệ phí bảo hiểm, lệ phí đăng ký,... Việc trả nợ cũng được xây dựng theo một
sự phân chia ổn định và hợp lý để doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các
nguồn trả nợ một cách dễ dàng.
1.1.5.2.2. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với nền kinh tế.
- Tín dụng trung dài hạn thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, điều
hòa lượng cung cầu về vốn trong nền kinh tế, giúp nền kinh tế phát triển theo
chiều sâu. Ngân hàng thương mại có chức năng chủ yếu là trung gian tài chính,
tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và cho vay đối với các đối tượng có
nhu cầu. Ngân hàng thương mại là một kênh truyền dẫn vốn hiệu quả từ nơi thừa
vốn đến nơi thiếu vốn, nó giúp các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói

chung hoạt động liền mạch , không đứt quãng, hiệu quả cao. Những điều này cũng
được thể hiện rõ trong hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Thông qua cho vay trung
dài hạn mà xây dựng được cơ sở hạ tầng, đổi mới khoa học công nghệ, đấy nhanh
quá trình tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển kinh tế, thúc đẩy lưu thông hàng
hóa, đẩy nhanh quá trình chu chuyển tiền tệ.
- Tín dụng trung và dài hạn có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn là chủ trương chung của
Đảng và Nhà nước ta và tín dụng trung dài hạn có vai trò quan trọng trong vấn đề
này. Đầu tư cho vay trung dài hạn góp phần phát triển khoa học công nghệ, tạo
công ăn việc làm, ổn định lạm phát, nâng cao đời sống dân cư, phát triển lực
lượng lao động, giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
- Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế
đối ngoại. Hiện nay trong nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của một quốc gia
không đứng độc lập riêng rẽ mà nằm trong tổng thể của nền kinh tế thế giới và
chịu sự ảnh hưởng nhất định của nó. Tín dụng trung dài hạn đã trở thành một
trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau thông qua các hình
thức: tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, tín dụng hỗ trợ phát triển, cho vay viện
trợ,.... Vì vậy nâng cao chất lượng tín dụng là nhiệm vụ có ý nghĩa to lớn với sự
phát triển kinh tế quốc gia nói riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung. Đối với
nước ta, vấn đề này là hết sức cấp thiết vì nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp
13
hóa, hiện đại hóa là rất lớn trong khi quá trình sử dụng vốn lại có nhiều bất cập,
hiệu quả thấp, gây thất thoát lãng phí.
1.1.5.2.3. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với hoạt động của ngân
hàng.
- Tín dụng trung dài hạn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng,
nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Các khoản tín dụng trung dài hạn
có đặc điểm số lượng lớn, lãi suất cao, thời gian dài, do vậy nó là hoạt động có
tính chiến lược của ngân hàng, mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Từ đó

sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại.
- Giúp tạo ra và duy trì khách hàng của mình trong tương lai. Bằng việc
cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng đã duy trì và tạo ra các khách hàng của
mình trong tương lai. Ngân hàng là ngành có môi trường cạnh tranh gay gắt. Điều
đó bắt buộc mỗi ngân hàng phải không ngừng vận động, đa dạng hóa hoạt động
cho vay, đa dạng hóa khách hàng nếu muốn đứng vững trên thị trường trước sự
cạnh tranh của các ngân hàng khác. Tín dụng trung dài hạn chính là một công cụ
hiệu quả để lôi kéo khách hàng mới về phía mình và giữ chân được các khách
hàng truyền thống.
- Tín dụng trung và dài hạn còn là cách thức khả thi để giải quyết nguồn
vốn huy động còn dư thừa tại mỗi ngân hàng thương mại.
1.1.5.3. Nội dung nghiệp vụ cho vay trung và dài hạn.
1.1.5.3.1. Mục đích cho vay.
Như đã nói ở trên, tín dụng trung dài hạn là các khoản cho vay có thời
hạn trên 1 năm nên nó thường không được dùng để bổ sung vào nguồn vốn lưu
động của doanh nghiệp như tín dụng ngắn(có thời hạn dưới 1 năm) mà để nhằm
đầu tư vào các dự án có thời gian tương đối dài như mua sắm máy móc thiết bị,
đổi mới trang thiết bị và công nghệ, xây dựng sửa chữa nhà xưởng cơ sở vật chất
kỹ thuật nhằm đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, và phát triển trong tương
lai của doanh nghiệp.
1.1.5.3.2. Đối tượng cho vay.
Với mục đích cho vay như trên, đối tượng cho vay của tín dụng trung và
dài hạn là giá trị vật tư, máy móc thiết bị, công nghệ chuyển giao, chi phí nhân
14
công, giá thuế và chuyển nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản, chi phí mua
bảo hiểm và các chi phí khác. Đó chính là các chi phí cấu thành trong tổng mức
đầu tư của dự án không phân biệt thành phần kinh tế, là tổ chức, cá nhân hay là
doanh nghiệp, bao gồm:
1.1.5.3.3. Điều kiện cho vay
Để được vay vốn, đơn vị xin vay phải gửi đến ngân hàng:

- Đơn xin vay
- Luận chứng kinh tế, kỹ thuật và dự toán đã được thẩm định và cấp trên
phê duyệt
- Các báo cáo tài chính của đơn vị trong một vài năm trước.
Ngoài ra,vì liên quan đến vấn đề doanh nghiệp có đủ khả năng trả nợ
không đơn vị xin vay phải chứng tỏ được dự án đưa ra là hiệu quả, có tính khả thi
cao. Bởi vậy, họ phải gửi đến ngân hàng các bản tính toán hiệu quả của dự án, lợi
nhuận mà dự án mang lại qua các năm, các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi của
dự án. Bên cạnh đó có tính toán đầy đủ các số tiền xin vay, các nguồn trả nợ và
lệnh trả nợ. Ngân hàng cho vay sẽ xem xét kỹ các tài liệu nhằm đánh giá đầy đủ
khả năng của đơn vị vay vốn trước khi quyết định cho vay, tình hình tài chính và
nghiã vụ của họ với Nhà nước và các tổ chức tài chính như thế nào.
Một trong các điều kiện để cho các Ngân hàng Thương mại cho vay là thế
chấp. Thế chấp có thể chia làm 2 loại: đảm bảo đối vật và đảm bảo đối nhân.
- Đảm bảo đối vật: theo định nghĩa: “đảm bảo đối vật là hình thức đảm
bảo tín dụng mà trong đó Ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một
số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng nhằm làm căn cứ để thu hồi
nợ trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không có khả năng trả nợ”.
Có 2 hình thức đảm bảo đối vật chính là: thế chấp và cầm cố.
+ Thế chấp là phương tiện chuyển dịch quyền lợi về tài sản sang cho chủ
nợ với mục đích làm đảm bảo cho món nợ hoặc miễn trừ một nghĩa vụ. Người đi
vay được gọi là người thế chấp và người cho vay được gọi là người được thế
chấp.Trong trường hợp thế chấp tài sản, người thế chấp vẫn nắm giữ tài sản thế
chấp.
15
+ Cầm cố là hành vi giao nộp tài sản hoặc các chứng từ chứng nhận quyền
sở hữu tài sản của con nợ (người được cầm cố) để thực hiện một nghĩa vụ. Nghĩa
vụ cầm cố trong quan hệ tín dụng là trong trường hợp người đi vay không thanh
toán nợ đúng hạn theo hợp đồng thì Ngân hàng có quyền bán tài sản cầm cố và
được ưu tiên thu nợ trước các chủ nợ khác. Trong trường hợp cầm cố tài sản, bên

cho vay là bên nắm giữ tài sản cầm cố.
- Đảm bảo đối nhân: theo định nghĩa: “đảm bảo đối nhân là sự cam kết của
một hoặc nhiều người về việc trả nợ Ngân hàng thay cho khách hàng vay vốn khi
người này không trả được nợ”(đây là việc đảm bảo bằng uy tín khách hàng).
Trong đảm bảo đối nhân có 3 chủ thể liên quan với nhau là người đi vay, ngân
hàng và người bảo lãnh. Người bảo lãnh phải có đủ năng lực bảo lãnh theo quy
định của pháp luật như: phải là người đại diện hợp pháp của pháp nhân, phải có
đủ năng lực tài chính, có uy tín,...
Đảm bảo tín dụng không phải là tiêu chuẩn quan trọng nhất hay không phải
là tiêu chuẩn mang tính nguyên tắc nhưng trong thời gian qua, các ngân hàng
thương mại nước ta vẫn xếp đảm bảo tiền vay vào vị trí số một.
1.1.5.3.4. Nguồn vốn.
Một số nguồn vốn ngân hàng có thể sử dụng để cấp tín dụng trung dài hạn.
- Vốn tự có: Đây là nguồn vốn chủ yếu hình thành nguồn vốn cho vay
trung và dài hạn của các Ngân hàng Thương mại. Các Ngân hàng. Đối với các
Ngân hàng Thương mại Việt Nam hiện nay thì đây là một trở ngại vì vốn tự có
của bản thân mỗi ngân hàng còn rất nhỏ bé so với nhu cầu đầu tư phát triển kinh
tế.
- Huy động vốn của dân cư dưới hình thức phát hành trái phiếu dài hạn
hoặc huy động tiền gửi định kỳ dài hạn để cho vay trung dài hạn. Nguồn vốn này
hiện nay rất hạn chế do dân chúng ít người muốn gửi tiền dài hạn và kỳ hạn của
trái phiếu huy động không dài. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng có thể sử dụng các
nguồn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn nhưng cũng bị hạn chế ở một tỷ lệ nhất
định.
- Vốn vay từ Ngân hàng Trung ương: Nguồn tiền này tùy thuộc vào chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương ở mỗi quốc gia, trong từng thời kỳ.
16
- Vay nợ nước ngoài: Đây là hình thức được các ngân hàng trên thế giới sử
dụng nhiều vì có thể vay với khối lượng lớn và mức lãi suất chấp nhận được.
Song, chỉ nên sử dụng nguồn vốn này để cho vay những dự án có khả năng trả nợ

cao, tránh việc không thu hồi được nợ.
- Vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án
đầu tư của Nhà nước, tổ chức kinh tế-tài chính, tín dụng, xã hội trong và ngoài
nước. Đặc điểm của nguồn vốn này là không ổn định, ngân hàng chỉ đóng vai trò
trung gian, không có quyền lựa chọn.
- Ngoài những nguồn vốn trên, đối với các Ngân hàng quốc doanh Việt
nam thì hàng năm các Ngân hàng này còn nhận được một khoản vốn điều lệ từ
Ngân hàng Trung ương.
1.1.5.3.5. Thời hạn cho vay.
Như định nghĩa về tín dụng trung dài hạn, thời hạn cho vay là trên 1 năm và
được xác định căn cứ vào yêu cầu của dự án, khả năng trả vốn của dự án đầu tư và
tính chất nguồn vốn của bên cho vay. Thời gian cho vay được tính từ khi bên vay
nhận được khoản vốn đầu tiên cho đến khi trả hết nợ. Thời hạn cho vay bao gồm
thời gian ân hạn (nếu có) và thời gian trả nợ. Trong đó, thời gian ân hạn được tính
tương xứng với thời gian xây dựng công trình, thời gian lắp đặt máy móc và sản
xuất thử sản phẩm còn thời gian gian trả nợ tuỳ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh
của đơn vị vay, tuỳ vào khả năng thu nhập của bên vay mà hai bên thoả thuận kỳ
hạn trả nợ và số tiền trả nợ từng kỳ.
1.1.5.3.6. Lãi suất cho vay.
Về cơ bản, lãi suất cho vay trung dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay
ngắn hạn do có thời hạn dài hơn nên phải chịu rủi ro hơn. Lãi suất cho vay còn
được xác định tuỳ vào dự án, ngành nghề, lĩnh vực đầu tư, chính sách của ngân
hàng cũng như sự thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng.
Lãi suất cho vay có thể được tính theo lãi suất cố định hoặc lãi suất biến
động. Lãi suất cố định là lãi suất giữ nguyên không thay đổi trong suốt thời kỳ
thực hiện hợp đồng. Lãi suất biến đổi là lãi suất có thể thay đổi lên xuống trong
thời hạn vay. Trong cho vay trung dài hạn, phần lớn các ngân hàng sử dụng lãi
17
suất biến đổi để tránh rủi ro cho ngân hàng và người vay khi lãi suất trên thị
trường biến động.

1.1.5.3.7. Hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn
nhất định mà Ngân hàng có thể cung cấp cho một khách hàng theo thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Quy định của Ngân hàng
Nhà nước, mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ; bản thân các Ngân
hàng Thương mại, khối lượng vốn huy động của Ngân hàng càng lớn thì mức tín
dụng mà Ngân hàng có thể cung cấp cho từng khách hàng càng nhiều, và vào
chính sách tín dụng của Ngân hàng Thương mại từng thời kỳ và đối với mỗi dự án
cũng có khác nhau; phụ thuộc vào chính nhu cầu vay vốn của người vay, tình hình
tài chính và uy tín của người vay ảnh hưởng trực tiếp tới hạn mức tín dụng; sự ổn
định hay bất ổn của nền kinh tế. Khi nền kinh tế bất ổn thì rủi ro trên thị trường sẽ
cao nên. Do vậy khả năng thu hồi vốn sẽ xấu đi.
1.1.5.3.8. Thẩm định dự án.
Khi tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn, ngân hàng cần chú ý thẩm định hai
nội dung: Thẩm định chủ đầu tư và thẩm định dự án đầu tư.
* Thẩm định chủ đầu tư
Mục đích của việc thẩm định chủ đầu tư là để xem xét chủ đầu tư có
nguyện vọng cũng như khả năng trả nợ cho Ngân hàng hay không, nói cách khác
là để thẩm định xem có nhu cầu vay vốn thực sự, tránh trường hợp khách sử dụng
vốn vào mục đích khác. Khi thẩm định chủ đầu tư, Ngân hàng cần xem xét các
vấn đề như tư cách pháp nhân của chủ đầu tư, uy tín của chủ đầu tư, năng lực tài
chính của chủ đầu tư,....
* Thẩm định dự án đầu tư
Sau khi tiến hành thẩm định chủ đầu tư, Ngân hàng tiến hành thẩm định dự
án đầu tư. Khi thẩm định dự án đầu tư, ngân hàng phải xem xét trên các phương
diện: thẩm định trên phương diện thị trường( khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả
năng cạnh tranh,...), thẩm định tài chính dự án đầu tư xem dự án có hiệu quả về
mặt tài chính hay không, phân tích các trường hợp rủi ro có thể xảy ra đối với dự
án.
18

1.1.5.4. Các hình thức tín dụng trung và dài hạn.
Tín dụng trung và dài hạn có một số hình thức chính là: Tín dụng theo dự
án đầu tư, cho thuê tài chính, bảo lãnh trung dài hạn.
* Tín dụng theo dự án đầu tư
Đây là hình thức tín dụng trung dài hạn chủ yếu của các ngân hàng thương
mại Việt Nam hiện nay. Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất dựa trên cơ sở căn
cứ khoa học và thực tiễn về việc bỏ vốn để cải tạo đổi mới kỹ thuật và công nghệ
những đối tượng là tài sản cố định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng
hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ trong một khoảng
thời gian nhất định. Dự án do doanh nghiệp đưa ra và sau khi được các cấp có
thẩm quyền xét duyệt về các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, xã hội sẽ được gửi tới ngân
hàng để đáp ứng nhu cầu vay vốn tài trợ của dự án. Dựa vào lĩnh vực tài trợ mà ta
chia làm hai hình thức phổ biến: hình thức tín dụng trung dài hạn nhằm cải tạo,
khôi phục, mở rộng, thay thế tài sản cố định và hình thức tín dụng trung dài hạn
nhằm để đầu tư xây dựng theo dự án mới, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học
công nghệ để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, nếu chia theo
hình thức cho vay, ta có thể chia tín dụng theo dự án thành 2 loại: tín dụng đồng
tài trợ và tín dụng trực tiếp.
- Tín dụng đồng tài trợ là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng
(từ 2 tổ chức tín dụng trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu
mối, phối hợp với các bên bên đồng tài trợ để thực hiện, nhằn phân tán rủi ro của
các tổ chức tín dụng. Hình thức này được được áp dụng trong các trường hợp :
Các dự án đầu tư đòi hỏi một khoản vốn lớn mà các ngân hàng riêng lẻ thì không
đáp ứng hết được ( vì ngân hàng thường chỉ được phép đầu tư vốn tới một mức độ
nhất định so với tổng nguồn vốn của mình và không được đầu tư qúa nhiều vốn
vào một công ty để đảm bảo an toàn vốn tài sản) hoặc đối với một vài dự án ngân
hàng có thể đáp ứng toàn bộ nhưng rủi ro quá lớn ngân hàng không muốn đảm
nhận hết. Việc cho vay đồng tài trợ này sẽ giúp ngân hàng phân tán được rủi ro.
- Tín dụng trực tiếp theo dự án: ngân hàng thương mại tiến hành mọi hoạt
động và tự chịu trách nhiệm với từng dự án đầu tư của khách hàng mà họ đã lựa

chọn để tài trợ.
* Cho thuê tài chính
19
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là cho vay để khách hàng
mua tài sản nhưng nếu khách hàng không đủ điều kiện để vay, để mở rộng tín
dụng, ngân hàng thương mại đã mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng và
cho khách hàng thuê lại. Hoạt động cho thuê có 2 hình thức chủ yếu là cho thuê
nghiệp vụ( đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian ngắn) và cho thuê tài chính( đáp
ứng nhu cầu thuê trong thời gian dài).
Vậy nên, ta có thể hiểu sơ lược: cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng
trung dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín
dụng với khách hàng thuê. Khi hết thời hạn thuê, khách hàng có thể thuê tiếp hoặc
mua lại theo các thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn thuê các bên
không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng. Hoạt động cho thuê chủ yếu của ngân
hàng thương mại là cho thuê tài chính.
* Bảo lãnh trung dài hạn mua thiết bị trả chậm: là cam kết của ngân hàng
dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng như cam kết, đứng trả
nhập thiết bị máy móc, thiết bị với thời hạn ít nhất là một năm trong trường hợp
khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ với nhà xuất khẩu.
Hình thức này được áp dụng khi chủ đầu tư không đủ khả năng trả nợ ngay
một lần. Họ ký hợp đồng với bên xuất khẩu xin trả nợ dần theo giá trị của thiết bị
hàng năm dưới sự bảo lãnh của ngân hàng. Hình thức này rất có lợi cho chủ đầu tư
vì họ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để mua máy móc thiết bị ngay lập tức
mà khoản tiền nay sẽ được trả dần theo một chuỗi niên kim khi các máy móc này
sinh lời. Tuy nhiên, nếu chủ đầu tư không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ cho nhà
xuất khẩu thì ngân hàng bảo lãnh phải đứng ra trả nợ thay cho chủ đầu tư và lúc
này ngân hàng trở thành chủ nợ chính của nhà đầu tư.
1.2. Nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại ngân hàng
thương mại.

1.2.1. Quan điểm vể nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Tín dụng ngân hàng là một sản phẩm của ngân hàng cung ứng phục vụ
nhu cầu các khách hàng của mình. Cũng như các sản phẩm, hàng hóa khác trên thị
trường nó cũng có chất lượng, tuy nhiên vì ngành ngân hàng là một ngành kinh tế
đặc biệt, liên quan chặt chẽ đến nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế nên chất
20
lượng sản phẩm của nó- chất lượng tín dụng ngân hàng có những đặc trưng riêng.
Chất lượng tín dụng được thể hiện ở khả năng đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách
hàng có lựa chọn, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đồng thời góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội
Dựa vào định nghĩa tín dụng trung dài hạn là các khoản vay có thời hạn
trên 1 năm nên chất lượng tín dụng trung dài hạn là chất lượng của các khoản vay
có thời hạn trên một năm, được đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được sử
dụng đúng mục đích phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại hiệu
quả cho doanh nghiệp, đảm bảo trả nợ cho ngân hàng đúng hạn.
Việc xem xét chất lượng tín dụng trung dài hạn được thực hiện trên 3 nhân
tố: khách hàng, ngân hàng thương mại và bối cảnh kinh tế. Ba nhân tố này tác
động qua lại, vừa thúc đẩy vừa kiềm chế lẫn nhau. Do đó khi xem xét chất lượng
tín dụng trung dài hạn, ta phải xem xét trên cả ba giác độ đó.
* Đối với ngân hàng:
Chất lượng tín dụng trung dài hạn được đánh giá phải dựa vào những thực
lực, những đường lối chính sách của ngân hàng, dựa vào khả năng cho vay trung
dài hạn, khả năng thu nợ, cân đối nguồn vốn của ngân hàng. Bởi vậy, chất lượng
tín dụng trung dài hạn thể hiện ở phạm vi, mức độ giới hạn tín dụng phải phù hợp
với thực lực theo hướng tích cực của ngân hàng và phải bảo đảm được khả năng
cạnh tranh trên thị trường, làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế, phục vụ tăng
trưởng và phát triển. Chất lượng tín dụng trung dài hạn thể hiện ở chỉ tiêu lợi
nhuận hợp lý, dư nợ tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý, đảm bảo cơ cấu giữa
nguồn vốn ngắn hạn, trung dài hạn trong nền kinh tế.
* Đối với khách hàng.

Trong tín dụng trung dài hạn, vấn đề mà khách hàng quan tâm chính là sự
thỏa mãn những yêu cầu của họ, lãi suất có hợp lý không, thủ tục có đơn giản
không,... nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ đúng những quy định của tín dụng, góp
phần làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp, cải thiện hoạt động
sản xuất kinh doanh và duy trì sự tồn tại, phát triển của ngân hàng.
* Đối với nền kinh tế.
21
Đối với nền kinh tế, khoản tín dụng trung dài hạn có chất lượng phải hỗ
trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp hoạt động sản xuất kinh doanh ngày
càng phát triển, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế, vừa thúc đẩy tiêu dùng, thu hút tối đa nguồn vốn trong nước, vừa
tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
1.2.2.1. Về phía khách hàng.
a. Các chỉ tiêu định tính.
- Dự án sử dụng vốn vay có đủ cơ sở pháp lý, kinh tế, kỹ thuật để thực hiện
được.
- Vốn vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, đảm bảo đủ khả
năng trả ngân hàng nợ gốc và lãi, trang trải chi phí khác và tạo được cho doanh
nghiệp một khoản lợi nhuận nhất định.
b. Các chỉ tiêu định lượng .
- Thời gian thực hiện dự án đảm bảo đúng tiến độ.
- Chi phí hợp lý và phải thấp hơn mức chi phí dự kiến
- Doanh thu phải không được thấp hơn mức doanh thu dự kiến.
- Lợi nhuận phải đạt hoặc vượt quá mức lợi nhuận dự kiến.
1.2.2.2. Về phía ngân hàng.
a. Các chỉ tiêu định tính.
- Vốn vay phải được đảm bảo bằng tài sản
- Vốn gốc và lãi phải được hoàn trả đúng thời hạn, đúng theo hợp đồng đã ký.
- Cho vay phải tuân thủ các điều kiện như lập hồ sơ cho vay, phương án sản

xuất kinh doanh có hiệu quả, có báo cáo tài chính,...
- Kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay.
b. Các chỉ tiêu định lượng .
* Chỉ tiêu về huy động vốn trung dài hạn:
22
Chỉ tiêu thể hiện quy mô, tốc độ tăng trưởng và khả năng huy động vốn
trung dài hạn của ngân hàng.
Vốn trung dài hạn/ Tổng nguồn vốn huy động.
 chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn trung dài hạn của ngân hàng và khả năng
cung ứng vốn cho đầu tư phát triển. Nếu tỷ lệ này quá thấp, ngân hàng
sẽ không có cơ hội mở rộng hoạt động tín dụng trung dài hạn
* Nhóm chỉ tiêu cho vay trung dài hạn
- Doanh số cho vay trung dài hạn: phản ánh lượng vốn trung dài hạn mà
ngân hàng đã giải ngân. Con số này thể hiện xu hướng hoạt động tín dụng trung
dài hạn mở rộng hay thu hẹp. Con số này tăng tức là hoạt động tín dụng trung dài
hạn đang được mở rộng và ngược lại, con số này giảm là hoạt động tín dụng đang
bị thu hẹp. Tuy nhiên việc doanh số cho vay tăng không phải lúc nào cũng là tốt
và ngược lại doanh số cho vay thu hẹp không phải lúc nào cũng là xấu, vấn đề này
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong các thời kỳ nhất định.
- Doanh số thu nợ trung dài hạn: phản ánh lượng vốn trung dài hạn mà
ngân hàng đã được hoàn trả trong một thời kỳ. Doanh số này có thể phản ánh
doanh nghiệp có tình hình kinh doanh ổn định hay không.
- Dư nợ tín dụng trung dài hạn: là chỉ tiêu phản ánh lượng vốn trung dài
hạn của ngân hàng đã được giải ngân tại một thời điểm cụ thể.
Chỉ tiêu: Dư nợ tín dụng trung dài hạn / Tổng dư nợ
 Chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng dư nợ tín dụng trung dài hạn là lớn hay
nhỏ trong tổng dư nợ và mối tương quan với dư nợ tín dụng ngắn hạn.
Chỉ tiêu: Hiệu suất sử dụng vốn vay.
Hiệu suất sử dụng vốn vay = Tổng dư nợ tín dụng/ Tống vốn huy động.
=> chỉ tiêu này thể hiện tương quan giữa đầu vào- đầu ra vốn của ngân

hàng giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với khả năng
huy động vốn, đồng thời cũng xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động.
Trong trường hợp mọi khoản vay đều có hiệu quả thì tỷ lệ này >=1 là tốt nhất.
Chỉ tiêu: Vòng quay vốn tín dụng.
Vòng quay vốn tín dụng= doanh số cho vay trong kỳ/ dư nợ trong kỳ.
23
=> Chỉ tiêu này là mức độ luân chuyển của vốn, thể hiện khả năng tổ chức,
quản lý, khai thác sử dụng vốn. Để đánh giá chính xác chất lượng tín dụng, các
chỉ tiêu cần phải đồng nhất trong việc áp dụng đối với từng loại cho vay cụ thể.
Chỉ tiêu này lớn chứng tỏ khả năng sử dụng vốn của ngân hàng là tốt.
* Nhóm chỉ tiêu về nợ quá hạn:
Chỉ tiêu: Tỷ lệ nợ quá hạn trung dài hạn = Nợ quá hạn trung dài hạn / Tổng
dư nợ tín dụng trung dài hạn.
(Để tỷ lệ này phản ánh đúng chất lượng cho vay trung dài hạn nên loại trừ
các khoản nợ khoanh, các khoản cho vay ưu đãi và cho vay theo chỉ định của Nhà
nước ra khỏi tổng dư nợ ra khỏi nợ quá hạn)
Trong chỉ tiêu nợ quá hạn có thể chia ra thành tỷ lệ nợ quá hạn thông
thường, tỷ lệ nợ quá hạn khê đọng và tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi.
- Tỷ lệ nợ quá hạn thông thường: áp dụng cho các khoản nợ quá hạn dưới
180 ngày. Chỉ tiêu này có ý nghĩa với ban lãnh đạo ngân hàng trong việc đốc thúc
cán bộ cho vay nhằm thu nợ đúng hạn. Song, trong trường hợp này, khả năng trả
nợ của ngân hàng vẫn cao nên nó không thực sự phản ánh chính xác chất lượng
cho vay trung dài hạn.
- Tỷ lệ nợ quá hạn khê đọng: áp dụng cho các khoản nợ quá hạn từ 6 đến
12 tháng. Đây là khoản nợ quá hạn có vấn đề với ngân hàng, thể hiện chất lượng
cho vay của khoản vay kém. Nếu không có biện pháp khắc phục khoản nợ này,
ngân hàng sẽ phải gánh chịu tổn thất.
- Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi: áp dụng cho các khoản nợ quá hạn trên 1
năm. Đây là khoản nợ quá hạn nguy hiểm đối với ngân hàng. Nếu tỷ lệ này cao,
ngân hàng không những phải gánh chịu tổn thất mà còn có thể mất khả năng thanh

toán.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài
hạn.
1.3.1. Các nhân tố khách quan.
1.3.1.1. Môi trường kinh tế.
24
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng nói
chung và chất lượng tín dụng trung, dài hạn nói riêng. Mọi thay đổi của môi
trường kinh tế sẽ ít nhiều có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Nếu sự thay đổi
là theo chiều hướng tốt thì chất lượng của các khoản tín dụng trung, dài hạn sẽ
được nâng cao và ngược lại;nếu sự thay đổi theo chiều hướng xấu thì sẽ làm cho
chất lượng các khoản tín dụng trung, dài hạn xấu đi. Ví dụ: trong một môi trường
kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, đồng tiền bị mất giá, chỉ số giá tiêu dùng tăng nhanh
làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, dẫn đến những
khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng. Ngược lại, trong một môi trường kinh tế
tốt, các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, thu được lợi nhuận cao, ngày càng muốn
mở rộng sản xuất, cải tiến công nghệ, xây dựng nhà xưởng, đảm bảo được khả
năng trả nợ cho ngân hàng.
Bên cạnh những ảnh hưởng của môi trường kinh tế trong nước, môi
trường kinh tế thế giới cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung dài hạn của
ngân hàng. Môi trường kinh tế nước ta là một bộ phận của môi trường kinh tế thế
giới( nhất là khi chúng ta đã gia nhập WTO) nên không tránh khỏi những tác động
chung của nền kinh tế toàn cầu. Dưới sự ảnh hưởng đó, những doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu là bị chịu nhiều tác động hơn cả. Sự thay đổi
ấy thể hiện trực tiếp qua sự biến động về nhu cầu thị trường, sự biến động về tỷ
giá khiến cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ ảnh hưởng
tới việc trả nợ ngân hàng của doanh nghiệp.
1.3.1.2. Môi trường chính trị - xã hội.
Môi trường chính trị xã hội là nhân tố ảnh hưởng đến tất cả mọi mặt của
đời sống. Đối với một doanh nghiệp, môi trường chính trị, xã hội ổn định sẽ giúp

cho doanh nghiệp mạnh dạn có những phương án đầu tư lâu dài cho sản xuất kinh
doanh lâu dài, cần có những nguồn vốn lớn, điều đó giúp mở rộng quy mô của tín
dụng trung, dài hạn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp hoạt động hiệu quả sẽ đảm bảo
khả năng trả nợ cho ngân hàng, giúp chất lượng tín dụng trung dài hạn được nâng
cao. Ngược lại, nếu môi trường chính trị, xã hội mà bất ổn thì các doanh nghiệp sẽ
không dám mạnh dạn đầu tư mà chỉ duy trì ở mức tái sản xuất giản đơn để bảo
đảm an toàn vốn, các món vay chủ yếu sẽ là ngắn hạn còn khoản tín dụng trung ,
dài hạn sẽ không có hoặc rất nhỏ vì sự không ổn định về chính trị, xã hội dẫn đến
25

×