Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.94 KB, 26 trang )

TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. DỊCH VỤ NGÂN HÀNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm dịch vụ ngân hàng
1.1.1.1. Khái niệm dịch vụ ngân hàng
Dịch vụ là một quá trình hoạt động. Quá trình đó diễn ra theo một trình tự
bao gồm nhiều khâu, nhiều bước khác nhau. Mỗi khâu, mỗi bước có thể là những
dịch vụ nhánh hoặc dịch vụ độc lập. Mỗi loại dịch vụ mạng lại cho người tiêu dùng
một giá trị nào đó. Giá trị của dịch vụ gắn liền với lợi ích mà họ nhận được. Nó có
quan hệ mật thiết với lợi ích tìm kiếm và động cơ thực hiện dịch vụ.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính thực hiện toàn bộ hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi, sử
dụng chúng để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Nói đến ngân hàng thương mại người ta nghĩ ngay đến những dịch vụ gửi
tiền, cho vay và thanh toán. Tuy nhiên, ngày nay dịch vụ ngân hàng được mở rộng
rất nhiều, ngoài những dịch vụ truyền thống còn có các dịch vụ "mới" được phát
hiện từ dịch vụ đã có và các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Sản phẩm của ngân hàng
thương mại được hiểu là những dịch vụ mà ngân hàng có thể tạo ra để cung cấp
theo nhu cầu của khách hàng. Vậy dịch vụ của ngân hàng thương mại là gì? có thể
định nghĩa về dịch vụ ngân hàng thương mại hay gọi tắt là dịch vụ ngân hàng như
sau:
Dịch vụ ngân hàng là toàn bộ các hoạt động mà một ngân hàng có thể tạo ra
làm thoả mãn nhu cầu khách hàng, góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp làm tăng thu
nhập của ngân hàng.
Với định nghĩa trên có thể hiểu tất cả các hoạt động của ngân hàng nhằm
thoả mãn nhu cầu hợp lý của khách hàng đều là dịch vụ. Như vậy khả năng cung
ứng dịch vụ cho thị trường hiện nay của ngân hàng là rất lớn.
1.1.1.2. Đặc điểm dịch vụ ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng thương mại có những đặc điểm riêng có:
Một là, dịch vụ ngân hàng do NHTM tạo ra và cung cấp làm thoả mãn nhu
cầu của khách hàng.


Dịch vụ ngân hàng do ngân hàng thương mại hoặc do một có thể do một tổ
chức tín dụng hoặc một tổ chức kinh tế được phép cung cấp. Ngân hàng có nhiều
hoạt động, tuy nhiên những hoạt động nào làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng
được gọi là dịch vụ ngân hàng.
Hai là, dịch vụ ngân hàng có tính mở cao
Dịch vụ ngân hàng không chỉ hữu hình mà có cả bộ phận vô hình, không tồn
tại dưới dạng vật thể. Tính vô hình được biểu lộ khác nhau đối với từng loại dịch
vụ. Chính tính vô hình của dịch vụ ngân hàng đã làm nên tính mở của dịch vụ ngân
hàng. Do tính mở này nên dịch vụ ngân hàng luôn được đổi mới, và mở cửa cho
các ngân hàng khai thác. Ví dụ đơn giản là các ngân hàng chỉ cần giảm các thủ tục
phiền hà cho khách hàng cũng đã tạo ra một dịch vụ mới so với dịch vụ thiền thân
của nó. Với cách hiểu như vậy, dịch vụ ngân hàng là con số không thể kể hết, nó
luôn được cải tiến. Người ta ước lượng nó hiện nay có khoảng 6.000 dịch vụ. Bên
cạnh những dịch vụ truyền thống, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật,
ngân hàng đã tạo ra những dịch vụ mới để phục vụ khách hàng.
Ba là, dịch vụ ngân hàng dễ bị bắt chước.
Nếu ngân hàng vừa tổ chức thực hiện một loại dịch vụ nào đó có hiệu quả
thì lập tức các ngân hàng khác có thể thực hiện ngay dịch vụ đó nếu họ muốn.
Bốn là, các dịch vụ NH mang tính hỗ trợ cao, có mối liên kết chặt chẽ.
Các dịch vụ ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Sự ra đời và phát
triển dịch vụ này là cơ sở để có sự ra đời và phát triển dịch vụ kia và ngược lại.
Ngân hàng không thể phát triển dịch vụ tín dụng mà không đẩy mạnh dịch vụ
thanh toán, phát triển dịch vụ thanh toán không thể không phát triển dịch vụ mua
bán ngoại tệ. Hoặc ngân hàng không thể phát triển dịch vụ phát hành thẻ tín dụng
mà không mở rộng cho vay… có mối quan hệ chặt chẽ này đã rạo ra một hệ thống
hỗ trợ giữa các dịch vụ trong sự phát triển các dịch vụ ngân hàng. Nhờ khai thác
mối quan hệ này mà ngân hàng có một sự phát triển dịch vụ bền vững, phát huy
mạnh mẽ tính hệ thống của dịch vụ và có thể cung cấp dịch vụ trọn gói cho khách
hàng.
Năm là, dịch vụ mang lại thu nhập cho NH thông qua phí dịch vụ

Thu nhập của ngân hàng hình thành từ phí dịch vụ nói chung, có những dịch
vụ làm tăng thu nhập của ngân hàng một cách trực tiếp như: Lãi cho vay, phí mua
bán ngoại tệ, phí chuyển tiền, phí mở và thanh toán L/C… Tuy nhiên, cũng có
những dịch vụ mà ngân hàng không thu từ khách hàng mà chỉ thông qua dịch vụ
đó để lôi kéo khách hàng, tăng sức cạnh tranh với các ngân hàng khác hoặc không
qua dịch vụ đó làm tăng thu nhập từ các dịch vụ khác.
Nắm được các đặc điểm trên của dịch vụ, ngân hàng có thể khai thác, đa
dạng hoá dịch vụ của mình, từ đó có thể làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng,
nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước và quốc tế.
1.1.2. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển dịch vụ của NHTM
1.1.2.1. Khái niệm về phát triển dịch vụ ngân hàng
Phát triển dịch vụ ngân hàng là việc mở rộng số lượng và nâng cao chất
lượng các dịch vụ ngân hàng nhằm làm thoả mãn ngày càng tốt nhu cầu của khách
hàng, trên cơ sở đảm bảo các mục tiêu của ngân hàng.
Phát triển dịch vụ ngân hàng là một nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của
các ngân hàng thương mại. Vậy phát triển dịch vụ ngân hàng theo hướng nào?
Theo các chuyên gia ngân hàng thì phát triển theo hướng hoàn thiện và nâng cao
chất lượng các dịch vụ hiện có phù hợp với sự thay đổi của thị trường, đồng thời
mở rộng các dịch vụ mới đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu của thị trường. Việc triển
khai các dịch vụ mới phải trên cơ sở tận dụng được tối đa nguồn lực hiện có của
ngân hàng nhằm tránh lãng phí, tăng thu nhập, giảm thiểu được rủi ro, mở rộng cơ
hội kinh doanh và tăng ưu thế trong cạnh tranh.
1.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển dịch vụ ngân hàng
Một là sự gia tăng số lượng dịch vụ ngân hàng
Số lượng dịch vụ ngân hàng là một tiêu chí để đánh giá sự phát triển theo
hướng mở rộng dịch vụ ngân hàng. Có thể nói dịch vụ ngân hàng càng đa dạng,
ngân hàng càng có khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng đầy đủ hơn. Điều đó
làm tăng khả năng thu hút khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng
trên thị trường. Mặt khác số lượng dịch vụ lớn tạo cho ngân hàng có thể đa dạng
hoá được rủi ro tăng khả năng sinh lời trong hoạt động kinh doanh. Đây là những

điều kiện ngân hàng tiếp tục mở rộng dịch vụ của mình.
Hai là sự cải tiến chất lượng dịch vụ ngân hàng.
Đây là một tiêu chí phản ánh sự phát triển dịch vụ ngân hàng theo chiều sâu.
Chất lượng dịch vụ ngân hàng phản ánh mức độ thoả mãn của khách hàng về dịch
vụ ngân hàng. Khách hàng mong muốn dịch vụ ngân hàng phù hợp với nhu cầu, có
tiện ích cao, đơn giản, dễ hiểu và dễ thực hiện… Dịch vụ đáp ứng tốt nhất những
mong muốn của khách hàng được gọi là dịch vụ có chất lượng cao. Ngân hàng có
dịch vụ chất lượng cao sẽ thu hút được khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh, uy
tín và vị thế của mình trên thị trường.
Ba là, sự gia tăng số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng.
Đây cũng là một tiêu chí thể hiện sự phát triển dịch vụ ngân hàng. Số lượng
khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng càng nhiều chứng tỏ dịch vụ đó đã đáp ứng
nhu cầu của khách hàng, thích ứng được với thị trường và dịch vụ đó có khả năng
phát triển.
Bốn là, sự tăng trưởng doanh số hoạt động dịch vụ
Sự tăng trưởng về doanh số hoạt động từng dịch vụ qua các thời kỳ thể hiện
dịch vụ đó phát triển đến mức độ nào và được ngân hàng quan tâm đẩy mạnh phát
triển nó ra sao.
Năm là, sự tăng trưởng của thu nhập dịch vụ.
Đây là con số tương đối thể hiện hiệu quả của việc phát triển dịch vụ ngân
hàng. Đực các ngân hàng sử dụng để đánh giá sự phát triển của dịch vụ ngân hàng
qua các thời kỳ.
1.1.3. Các dịch vụ NH và tình hình phát triển dịch vụ NH tại Việt Nam
1.1.3.1. Các dịch vụ ngân hàng thương mại
Theo thống kê của Ngân hàng thế giới thì hiện nay có tới 6.000 dịch vụ ngân
hàng. Tuy nhiên, số lượng dịch vụ ngân hàng còn phụ thuộc vào sự phân chia các
dịch vụ ngân hàng theo tiêu thức nào. Phân chia các tiêu thức khác nhau sẽ có sự
giao thoa giữa các nhóm dịch vụ, ví dụ thẻ tín dụng cũng có thể coi thuộc nhóm
dịch vụ thanh toán nhưng cũng có thể coi là thuộc nhóm dịch vụ tín dụng. Do vậy,
việc kể tên các dịch vụ hay nhóm dịch vụ ngân hàng cũng chỉ là tương đối, có thể

kể một số dịch vụ của ngân hàng như sau:
Dịch vụ nhận tiền gửi
Ngân hàng cung cấp dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với
cam kết hoàn trả đúng hạn. Dịch vụ nhận tiền gửi được thực hiện theo hai cách, đó
là: nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán và tiền gửi khác. Đây là nguồn hình
thành nên nguồn vốn kinh doanh quan trọng của ngân hàng. Trong cuộc cạnh tranh
để giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần
thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và
cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Hơn thế, ngân hàng nào cũng
tìm và đưa ra những điểm được coi là thế mạnh của mình để thu hút nguồn tiền
gửi, tạo sức hấp dẫn đối với người gửi tiền. Có những ngân hàng tăng lãi suất tiền
gửi, hay tạo ra những sản phẩm phụ đi kèm làm quà tặng cho những người gửi tiền,
như: Vàng, sổ xố, quà tặng có giá trị khác…
Thông qua hoạt động nhận tiền gửi, ngoài việc đảm bảo khả năng thanh
toán, chi trả, ngân hàng đã thu được khá nhiề phần lời về mình bởi cơ sở của việc
huy động vốn lao động hoạt động cho vay với mức sinh lời cao.
Dịch vụ cho vay
Cho vay là việc ngân hàng chuyển quyền sử dụng cho khách hàng một số
tiền nào đó với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời
gian xác định. Dịch vụ cho vay của ngân hàng giúp cho khách hàng có vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh hoặc thực hiện các dự án lớn, phương án sản xuất kinh
doanh và phục vụ nhu cầu đời sống. Các hình thức cho vay bao gồm:
Thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được
chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình trong một giới hạn nhất định và
trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều
kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là
chủ yếu chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân
hàng, tức là vốn ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ

sản xuất kinh doanh.
Cho vay theo hạn mức: Ngân hàng cấp cho khách hàng một hạn mức tín
dụng trong kì thường là một năm. Trong kì đó khách hàng có thể thực hiện vay -
trả nhiều lần nhưng dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường
hợp ngân hàng qui định hạn mức cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức.
Tuy nhiên đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối
kì không được vượt quá hạn mức ngân hàng đã cấp.
Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên việc luân chuyển hàng
hoá của khách hàng. Khách hàng khi thu mua hàng có thể thiếu vốn và ngân hàng
có thể cho vay mua hàng và sẽ thu nợ khi khách hàng bán được hàng. Việc cho vay
dựa trên luân chuyển hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn khách hàng đều phải nghiên
cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Cho vay trả góp: là hình thức cho vay theo đó ngân hàng cho khách hàng trả
gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận.
Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung
gian như: tổ vay vốn, hội vay vốn, nhóm vay vốn…. Hội cựu chiến binh, hội nông
dân, hội phụ nữ.
Dịch vụ thanh toán
Ngoài các dịch vụ nhận tiền gửi và cho vay, ngân hàng còn thực hiện dịch vụ
thanh toán hộ nhằm đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế. Khi các doanh nhân
gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực
hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Việc thanh toán qua ngân hàng đã mở
đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến
ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách. Các tiện ích của thanh
toán không dùng tiền mặt này là an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí,
hạn chế lượng tiền mặt trong lưu thông, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể
kinh tế phát triển hoàn thành tốt chức năng của mình. Cùng với sự phát triển của
dịch vụ thanh toán là sự ra đời của các dịch vụ khác mà các Ngân hàng không
ngừng khai thác để mở rộng phạm vi kinh doanh của mình. Trước hết là dịch vụ
mở tài khoản giao dịch cho khách hàng. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi được

xem là một bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. Công nghệ
thông tin phát triển đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển nhiều hình thức thanh toán
khác như: Nhờ thu, Uỷ nhiệm chi, thanh toán bằng thư tín dụng chứng từ (L/C),
thanh toán bằng điện, thẻ thanh toán…. Những dịch vụ này giúp cho nền kinh tế
hoạt động một cách linh hoạt và sôi động hơn.
Dịch vụ mua bán ngoại tệ (Dịch vụ ngoại hối)
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua
bán) ngoại tệ. Đó là một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại
tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Thông qua dịch vụ mua bán ngoại tệ, một mặt
ngân hàng cung cấp ngoại tệ cho khách hàng để thanh toán, mặt khác ngân hàng
thu được khoản chênh lệch tỷ giá mua và tỷ giá bán. Nhưng điều quan trọng hơn cả
là vai trò to lớn của dịch vụ mua bán ngoại tệ là ngày càng thu hút khách hàng giao
dịch và thúc đẩy các dịch vụ khác của ngân hàng phát triển như dịch vụ: Thanh
toán, tín dụng và thu hút nguồn tiền gửi cho ngân hàng.
Dịch vụ bảo lãnh
Bảo lãnh là sự đảm bảo gián tiếp có ba bên tham gia, trong đó bên thứ ba
(Bên bảo lãnh) đồng ý chịu trách nhiệm về khoản nợ cho bên thứ hai (khách hàng
của mình) nếu người này không trả được nợ cho bên thứ nhất. Bảo lãnh của ngân
hàng là nghiệp vụ mà ngân hàng chấp nhận thực hiện nghĩa vụ thay cho khách
hàng trong trường hợp khách hàng của ngân hàng không thực hiện các nghĩa vụ
cam kết với bên đối tác.
Ngân hàng cung cấp dịch vụ bảo lãnh dưới các hình thức sau: Bảo lãnh cho
khách hàng vay vốn ở ngân hàng khác, bảo lãnh bằng thư tín dụng, bảo lãnh dự
thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo
lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh đối ứng, xác nhận bảo lãnh, đồng bảo lãnh.
Dịch vụ cho thuê thiết bị trung và dài hạn (leasing)
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định do hai bên thoả thuận, khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng.
Nhằm để bán được các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thương

mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể
mua (do vậy gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách
hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua
hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Do
vậy, dịch vụ cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như dịch vụ cho
vay, và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
Dịch vụ chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng tiền trước cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở
hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nhận nợ). Về mặt pháp lý thì
ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức
trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại sẽ thu
được một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định cho trước.
Dịch vụ uỷ thác
Từ nhiều năm nay, các Ngân hàng đã thực hiện việc quản lý tài sản và quản
lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Theo đó, Ngân
hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô vốn họ quản lý. Chức năng
quản lý tài sản này được gọi là "dịch vụ uỷ thác". Hầu hết các Ngân hàng đều cung
cấp dịch vụ uỷ thác với các hình thức đó là: uỷ thác cá nhân, hộ gia đình và uỷ thác
thương mại cho các doanh nghiệp.
Thực hiện dịch vụ uỷ thác mang lại cho ngân hàng một số lợi thế như bổ
sung cho ngân hàng một nguồn thu nhập khá lớn từ thu lệ phí và hoa hồng uỷ thác
hàng năm. Ở các nước phát triển khoản thu nhập này xấp xỉ 10% thu nhập của
ngân hàng. Thông qua hoạt động uỷ thác ngân hàng có thể củng cố và duy trì tốt
mối quan hệ với khách hàng. Do vậy, nhiều ngân hàng coi đây là chìa khoá mở ra
hướng hoạt động mới trong tương lai.
Dịch vụ bảo quản vật có giá
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách
hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ biên nhận. Do
khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy biên nhận, nên giấy chứng nhận đã được

sử dụng như tiền, dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của
ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy
thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để lấy
giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng.
Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
Dịch vụ quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và
nhiều cá nhân. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc
thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ,
trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và
tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và
tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Dịch vụ môi giới, đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép
khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến cho
các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách
hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ
đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng còn

×