Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG CHÍNH THỨC Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM VÀ HUYỆN THỐT NỐT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.08 KB, 9 trang )

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG CHÍNH THỨC Ở NÔNG
THÔN VIỆT NAM VÀ HUYỆN THỐT NỐT
2.1. THỰC TRẠNG KINH TẾ VÀ THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG CHÍNH THỨC Ở
NÔNG THÔN VIỆT NAM
Việt Nam đã chuyển hướng từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước hay còn gọi là chính sách “Đổi mới” nền kinh tế được
khởi xướng từ những năm 80. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao từ 4,6% những
năm 80 lên 7,6% những năm 90 và đến năm 2007 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
đã đạt là 8,48%. Bên cạnh đó, trong suốt hai thập niên đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có
nhiều nỗ lực để xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ người nghèo, tính theo chuẩn mực quốc tế (có
mức sống dưới 1 USD/ngày), đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 14,7% năm 2007 [Đừng để
người nghèo bị gạt ra bên lề, Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt, Tuổi trẻ Thứ Bảy,
12/04/2008]. Những thành tựu trên đã có đóng góp không nhỏ đến sự phát triển
của hệ thống tài chính của nước ta. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước nông nghiệp
với dân số năm 2006 là 84.155,8 nghìn người, trong đó có khoảng 61.332,2 nghìn
người sống ở khu vực nông thôn, chiếm khoảng 72,88% và nông nghiệp đóng
góp khoảng 20,36% tổng thu nhập quốc dân (theo số liệu thống kê 2006 của
Tổng cục Thống kê). Từ những số liệu trên cho thấy, nông nghiệp cũng có những
đóng góp đáng kể trong tăng trưởng kinh tế nước nhà. Do đó, việc khuyến khích
và tạo sự cân bằng trong việc phát triển các thành phần kinh tế của nước ta là
việc làm vô cùng cần thiết. Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp được xem là mục
tiêu để ta thực hiện và tạo đà phát triển các ngành khác vì nông nghiệp cung cấp
lương thực và các sản phẩm đầu vào cho nhiều ngành sản xuất khác.
Việc phát triển các ngành sản xuất nông nghiệp đồng nghĩa với việc phát
triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn. Chính vì thế mà trong những năm gần đây
Nhà nước đã lập ra hệ thống Ngân hàng ở nông thôn nhằm cung cấp vốn phục vụ
cho sản xuất nông nghiệp và nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cụ thể đó là
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Ngân hàng Chính
sách xã hội là hai hệ thống chủ yếu thường thấy ở nông thôn Việt Nam.
Cũng như các nước đang phát triển khác trên thế giới, hệ thống các tổ chức
tín dụng ở nông thôn Việt Nam gồm: các tổ chức tín dụng chính thức và các tổ


chức tín dụng phi chính thức. Hệ thống các tổ chức tín dụng chính thức hoạt đông
theo phương thức truyền thống đó là cho vay thường có thế chấp tài sản, hệ
thống này chưa phát triển lắm và thiếu sự cạnh tranh giữa các tổ chức vơi nhau.
Lượng vốn tín dụng mà các tổ chức này cung cấp chỉ đáp ứng 45% nhu cầu tín
dụng của nông hộ (theo Schipper ước lượng từ kết quả điều tra mức sống của
người Việt Nam, 2002).
2.2. THỰC TRẠNG KINH TẾ VÀ THỊ TRƯỜNG TÍN DỤNG Ở HUYỆN THỐT
NỐT
Huyện Thốt Nốt có vị trí tiếp giáp giao lưu văn hoá với 3 tỉnh An Giang, Đồng Tháp
và Kiên Giang. Huyện có diện tích 17.129 ha mang đặc điểm của địa hình đồng bằng với
nhiều kênh rạch rất thuận lợi về giao thông thuỷ bộ. Năm 2007, đất nông nghiệp chiếm
khoảng 13.174 ha, tương đương 76,91% diện tích đất của huyện. Tổng số hộ gia đình của
huyện là 41.620 hộ với dân số là 197.853 người, số lao động trong nông nghiệp chiếm
63,41%. Về tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện năm 2007 đạt khoảng 19,87%. Tỷ lệ hộ
nghèo năm 2007 theo tiêu chí mới
1
của huyện là 6% (theo Báo cáo tình hình thực hiện
Nghị quyết Hội đồng nhân dân của Uỷ ban nhân dân huên Thốt Nốt, 2007). Về thị trường
tín dụng của huyện, theo kết quả điều tra trên địa bàn huyện có trên 10 ngân hàng bao gồm
cả ngân hàng Cổ phần và ngân hàng quốc doanh nhưng các hộ nông dân ở đây chủ yếu vay
tiền từ ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và ngân hàng chính sách xã hội và
hai ngân hàng này chỉ mới đáp ứng được khoảng 60,87% theo kết quả điều tra.
1 - Chuẩn nghèo lương thực thực phẩm năm 2004 là 124 nghìn đồng 1 người 1 tháng đối với khu vực nông thôn và
163 nghìn đồng 1 người 1 tháng đối với khu vực thành thị.
- Chuẩn nghèo của Chính phủ thời kỳ 2006 – 2010 (tiêu chí mới) là 200 nghìn đồng 1 người 1 tháng đối với khu
vực nông thôn và 260 nghìn đồng 1 người 1 tháng đối với khu vực thành thị.
2.3. CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG CHÍNH THỨC Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM VÀ
HUYỆN THỐT NỐT
2.3.1. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, trước đây gọi là Ngân

hàng nông nghiệp Việt Nam, được thành lập năm 1988 với nhiệm vụ chính là tài trợ vốn
cho các doanh nghiệp và nông hộ ở nông thôn. Với một mạng lưới chi nhánh rộng khắp cả
cấp tỉnh đến tận cấp xã, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là một thể chế tài
chính chính thức lớn nhất. Năm 2006, Ngân hàng có hơn 2.000 chi nhánh, điểm giao dịch
trên toàn quốc.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thốt Nốt được thành lập vào
cuối năm 1998, là một Chi nhánh cấp huyện trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp Cần Thơ.
Ngân hàng Nông nghiệp huyện Thốt Nốt đặt tại trung tâm thị trấn huyện Thốt Nốt. Theo
kết quả điều tra, thị phần của Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thốt Nốt chiếm
khoảng 39,29%.
2.3.2. Ngân hàng Chính sách xã hội
Thành lập năm 1995 có tên là Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng Chính
sách xã hội hoạt động như là ngân hàng phi lợi nhuận với chức năng chính là cung cấp tín
dụng để thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo của Nhà nước thông qua việc tập trung cho
vay những nông dân nghèo không có tài sản thế chấp và nhằm tăng cường cung cấp các
dịch vụ tài chính đến người nghèo. Với mục tiêu giảm nghèo thông qua cung ứng các
khoản cho vay lãi suất thấp cho người nghèo ở nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội là
một nhân tố quan trọng của chưng trình xóa đói giảm nghèo của Chính phủ.
Ban đầu, hoạt động của Ngân hàng chính sách được thực hiện thông qua Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đầu năm 2003, Ngân hàng người nghèo đổi tên
thành Ngân hàng Chính sách, tuy nhiên hoạt động của nó vẫn thông qua Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn. Sang đầu năm 2004, Ngân hàng Chính sách xã hội tách ra
hoạt động với một hệ thống riêng. Ở thời điểm điều tra, Ngân hàng Chính sách xã hội
huyện Thốt Nốt chiếm thị phần theo kết quả điều tra là 60,71%.
2.3.3. Hợp tác xã tín dụng
Không giống các ngân hàng thương mại và Ngân hàng Phát triển, các Hợp tác xã tín
dụng xuất hiện ở khắp các vùng nông thôn. Hợp tác xã tín dụng là nguồn duy nhất trong hệ
thống chính thức cho nông dân vay, nhất là hộ nông dân nhỏ. Hợp tác xã tín dụng là nhu
cầu của vùng nông thôn phản ánh đặc tính và văn hóa nông thôn. Nông dân dễ dàng vay
vốn ở Hợp tác xã tín dụng và Hợp tác xã là cầu nối giữa nông dân với Ngân hàng nông

nghiệp quốc gia hay với Ngân hàng Nhà nước. Mặc dù hệ thống này có những thuận lợi
tiềm tàng của nó nhưng việc xác định kênh cho vay có hiệu quả ở một số nước lại khó thực
hiện. Họ phải đối mặt với vấn đề chính là sự thiếu hụt đội ngũ nhân viên được huấn luyện
và các tổ chức cộng tác cho vay.
2.3.3.1. Ngân hàng Cổ phần nông thôn
Hầu hết các Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn hiện tại hoạt động như là một
dạng của Hợp tác xã tín dụng nông thôn ở vùng nông thôn. Năm 2007, chỉ còn có một
Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn. Một Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn
gồm khoảng 50 đến 60 cổ đông, trong đó một vài người là cổ đông lớn, tất cả các cổ đông
đều là người dân địa phương có quen biết với nhau và thường họ là những người giàu có,
sung túc.
Phần lớn quỹ hoạt động của Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn là lấy trực
tiếp tư Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khoảng 50 – 80%. Lượng cho vay
của ngân hàng cũng có nhiều hạn chế với những người nghèo, chỉ một phần nhỏ những hộ
nông nghèo được vay ở Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn. Phát vay của Ngân
hàng chủ yếu thông qua Hội phụ nữ, Hội tổ chức vay theo nhóm và đi vay ở ngân hàng.
Ngân hàng thương mại Cổ phần nông thôn rất thận trọng trong cho vay những người
nghèo, vì thế mà khả năng mở rộng cho vay đến những hộ nông dân ở ngân hàng này là rất
thấp. Hiện tại theo khảo sát, huyện Thốt Nốt không có Ngân hàng thương mại Cổ phần
nông thôn nào đặt phòng giao dịch hoặc chi nhánh ở đây.
2.3.3.2. Quỹ tín dụng nhân dân
Tín dụng nhân dân là một dạng mới trong các tổ chức trung gian tài chính ở nông
thôn nước ta, bắt đầu hoạt động năm 1993 như một hình thức của Hợp tác xã tín dụng. Để
vay vốn từ Quỹ tín dụng nhân dân, yêu cầu các thành viên phải có lượng tiền gửi góp vốn
nhất định và lượng tiền gửi ít nhất là 50.000 đồng. Vốn hoạt động của Quỹ tín dụng nhân
dân chủ yếu là từ nguồn vốn chủ sở hữu còn nguồn quỹ hoạt động vay từ Ngân hàng Nhà
nước và từ nguồn huy động của Quỹ.
Theo Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 28/12/2007 cả nước có tổng cộng 972 Quỹ tín
dụng nhân dân. Hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân cũng phát triển rất mạnh, tổ vốn
hoạt động là 11.500 tỷ đồng, tiền gửi huy động 8.000 tỷ đồng, dư nợ cho vay đến 10.000 tỷ

đồng. Dư nợ quá hạn là 0,5% trên tổng dư nợ cho vay. Tổng số thành viên của Quỹ là
1.250.000 người. Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân thời gian qua đã góp phần quan trọng
vào việc khai thác nguồn vốn tại chỗ, đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ... cải thiện đời sống của các thành viên, khắc phục tình trạng cho vay nặng lãi ở
nông thôn. Qua điều tra cho thấy, Thốt Nốt hiện không có Quỹ tín dụng nhân dân nào hoạt
động tại đây.
2.3.4. Các Ngân hàng thương mại khác
Là Ngân hàng cho vay nông nghiệp chính thức xuất hiện sớm nhất ở các nước đang
phát triển. Đầu tiên các tổ chức này cho vay chủ yếu hộ nông dân lớn cũng như cung cấp
hoạt động dịch vụ và tiếp thị, dần dần mở rộng cho vay những hộ nông dân nhỏ cùng với
sự bắt buộc và ủy thác của Chính phủ. Hệ thống chi nhánh được xây dựng qua nhiều năm
đã tạo điều kiện cho mở rộng hoạt động tín dụng nông thôn cho các Ngân hàng thương
mại, cùng với kinh nghiệm quản lý chuyên nghiệp và nền tảng vững chắc, các Ngân hàng
thương mại cũng có thể đưa dịch vụ đến với khách hàng rộng rãi hơn. Tuy vậy, hầu hết các
Ngân hàng thương mại đều không toàn tâm vào cho vay nông thôn. Cho vay ở địa bàn
nông thôn, nhất là hộ nông dân nhỏ chỉ là nghiệp vụ phụ. Bởi vì họ muốn tăng lợi nhuận và
giảm rủi ro trong khi thị trường nông thôn khó có thể đáp ứng nhu cầu này. Vì thế mà các
Ngân hàng trung ương phải cung quỹ cho các Ngân hàng thương mại cho vay khu vực
nông nghiệp.
Ở Việt Nam, các Ngân hàng thương mại cho vay các nông hộ sản xuất nông nghiệp
chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong hoạt động của Ngân hàng. Thông thường, các khoản vay này
chủ yếu là do chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước trong các chương trình khuyến nông,
khuyến ngư, cải tạo sản xuất, quy hoạch sản xuất vùng là các chính sách khác phục sản
xuất sau thiên tai, lũ lụt...
Theo kết quả điều tra cho thấy huyện Thốt Nốt hiện có trên 10 Ngân hàng thương
mại, nhưng việc cho vay nông hộ ở đây theo điều tra thì không chiếm một tỷ lệ nào trong
tổng số hộ được phỏng vấn. Điều này có thể là do các Ngân hàng thương mại chỉ tập trung

×