Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÂN TÍCH NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SÔNG ĐÀ 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.41 KB, 22 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÂN TÍCH NĂNG LỰC TÀI
CHÍNH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SÔNG ĐÀ 2
2.1. Vai trò của vốn đối với hoạt động của công ty:
2.1.1. Hoạt động của công ty trong nền kinh tế thị trường:
Trong những năm gần đây, với chính sách đẩy mạnh mở cửa và tự do hoá
các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước ta đã làm cho áp lực cạnh tranh giữa
các thành phần kinh tế nói chung và giữa các đơn vị kinh doanh cùng ngành với
nhau nói riêng ngày càng trở nên mạnh mẽ. Trong điều kiện đó, Công ty phải tự
tiếp thị kiếm việc làm thông qua cơ chế đấu thầu các công trình và phải tự lo vốn
để kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
2.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động của công ty:
Vốn là một trong ba điều kiện tiên quyết của hoạt động sản xuất kinh doanh …Vốn
là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này thể hiện rõ trong hàm sản xuất cơ
bản: P = F(K,L,T), vốn (K) chính là một trong 3 yếu tố cơ bản của hàm sản xuất,
bên cạnh các yếu tố lao động (L) và công nghệ (T). Hơn nữa, trong hàm sản xuất
này thì vốn có thể coi là yếu tố quan trong nhất vì lao động và công nghệ có thể
mua được khi có vốn.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nào cũng cần có vốn, đó là
yếu tố cơ bản không thể thiếu được nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp hoạt động được thường xuyên, liên tục…Thực chất vốn
của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả tài sản mà doanh nghiệp dùng
trong quá trình sản xuất kinh doanh. Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một
trong những điều kiện vật chất cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác
làm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó
hẹp trong quá trình sản xuất vật chất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất
và tái sản xuất liên tục suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá
trình sản xuất đầu tiên đến chu kỳ sản xuất cuối cùng. Cụ thể vốn có các vai trò
sau:
Một là, vốn kinh doanh là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động,


đều cần phải có một lượng vốn nhất định, được quy định trong vốn pháp định của
từng ngành nghề kinh doanh.
Hai là, vốn kinh doanh là chi tiêu đánh giá quy mô của doanh nghiệp, xác
định năng lực tài chính của doanh nghiệp ngoài ra vốn của doanh nghiệp lớn hay
nhỏ còn quyết định đến quy mô thị trường và khả năng mở rộng thi trường của
doanh nghiệp.
Ba là, trong cơ chế thị trường việc có vốn và tập trung vốn được nhiều hay ít
vào doanh nghiệp, có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đẩy mạnh kinh doanh.
Đồng thời nó cũng là nguồn lực để phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh
nghiệp, là điều kiện để thực hiện các chiến lược kinh doanh .
Bốn là, đối với các doanh nghiệp mới được thành lập, số vốn ban đầu được
dùng để đầu tư vào các loại tài sản cần thiết, tạo ra cơ sở vật chất ban đầu giúp cho
doanh nghiệp hoạt động được trong chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên. Đối với
các doanh nghiệp đang hoạt động thì lượng vốn bổ sung thêm cũng được để mua
sắm, trang bị các loại tài sản còn thiếu, giúp cho doanh nghiệp điều chỉnh cơ cấu
tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Năm là, vốn kinh doanh là điều kiện để duy trì sản xuất đổi mới thiết bị công
nghệ, mở rộng sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập
cho người lao động, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường khả năng
cạnh tranh trên thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Có nhiều cách phân loại vốn nhưng thường vốn được phân loại thành vốn lưu
động và vốn cố định
- Vai trò của vốn cố định:
Vốn cố định biểu hiện giá trị của tài sản cố định hữu hình cũng như là vô
hình, là cơ sở vật chất cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp không thể bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh nếu như không có đầy đủ
các máy móc thiết bị cần thiết. Kết hợp với trình độ khả năng quản lý, vốn cố định
quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và góp phần đáng kể
trong việc xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Không những có ý nghĩa
trong quá trình sản xuất hiện tại, vốn cố định còn thể hiện khả năng, hướng phát

triển của doanh nghiệp trong tương lai. Chúng ta có thể thấy điều này khi so sánh
cơ hội phát triển của một doanh nghiệp có máy móc thiết bị lạc hậu với một doanh
nghiệp có dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị hiện đại thường xuyên được đổi
mới. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt như hiện
nay, khi mà các mục tiêu lâu dài về thị trường, khách hàng…được quan tâm hơn
thì vai trò của vốn cố định đối với sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp càng
được thể hiện rõ.
- Vai trò của vốn lưu động:
Cũng như một phần vốn, vốn lưu động đảm bảo cho sự thường xuyên, liên
tục của quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu thu mua nguyên vật liệu đến tiến
hành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đây cũng chính là vốn luân chuyển giúp cho
quá trình sử dụng tốt máy móc thiết bị và lao động, để tiến hành sản xuất kinh
doanh nhằm thu lợi nhuận. Vì vốn lưu động chuyển hóa một lần giá trị vào giá trị
sản phẩm nên nó là cơ sở để xác định giá thành và giá bán sản phẩm.
Ngoài ra, vòng tuần hoàn và chu chuyển của vốn lưu động diễn ra trong
toàn bộ các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh nên đồng thời trong quá trình
theo dõi sự vận động của vốn lưu động, doanh nghiệp cũng quản lý gần như toàn
bộ các hoạt động diễn ra trong chu kỳ sản xuất kinh doanh.
2.2. Nguồn tài trợ của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường:
Trong điều kiện kinh tế thị trường, doanh nghiệp có thể huy động vốn theo
nhiều phương thưc khác nhau như vay ngân hàng, các công ty tài chính, phát hành
cổ phiếu…Vấn đề đặt ra đối với người quản lý tài chính doanh nghiệp là phải hiểu
rõ đặc tính, điều kiện của mỗi nguồn tài trợ để huy động được nguồn vốn bên ngoài
doanh nghiệp với chi phí thấp nhất để tài trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Thông thường nguồn tài trợ được chia thành nguồn tài trợ ngắn hạn và dài hạn.
2.2.1. Nguồn tài trợ ngắn hạn:
Các nguồn tài trợ ngắn hạn là những khoản tiền mà doanh nghiệp sử dụng
phải hoàn trả trong thời hạn một năm kể từ ngày nhận được chúng. Các nguồn tài
trợ này đảm bảo tài trợ chủ yếu cho nhu cầu về vốn lưu động của doanh nghiệp,
đặc biệt là nhu cầu về vốn lưu động tạm thời. Nguồn tài trợ ngắn hạn có vai trò đặc

biệt quan trọng đối với hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp. Nhu
cầu tài chính của một doanh nghiệp tại bất cứ thời điểm nào cũng chính bằng tổng
số tài sản mà doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo hoạt động kinh doanh một cách
hiệu quả. Do tính chu kỳ, những biến động mùa vụ của quá trình hoạt động kinh
doanh làm cho nhu cầu tài chính của doanh nghiệp dao động theo thời gian và cũng
mang tính mùa vụ, đặc biệt là nhu cầu tài chính cho các khoản vốn lưu động. Tại
những thời điểm mùa vụ, những khoảng thời gian mà nhu cầu về vốn lưu động lên
cao, vượt quá nhu cầu thường xuyên cần thiết, doanh nghiệp chỉ có thể đáp ứng
bằng các nguồn tài trợ ngắn hạn. Nghiên cứu thực tế cho thấy: có tới 40%- 60%
khoản nợ của doanh nghiệp là khoản nợ phải trả ngắn hạn. Trong quá trình hoạt
động, đối với các doanh nghiệp, các nguồn tài trợ này thường bao gồm 3 nguồn
chính:
- Nợ tích lũy: gồm nợ lương công nhân chưa đến kỳ trả, nợ thuế của Nhà
nước khi chưa đến kỳ nộp, tiền đặt cọc của khách hàng…Đây là hình thức tài trợ
miễn phí nhưng có giới hạn.
- Tín dụng thương mại (tín dụng của nhà cung cấp): gồm mua bán chịu, bán
trả chậm hay trả góp, thường kèm theo các điều kiện về thời hạn thanh toán và
chiết khấu…hình thức này rất hiệu quả, được áp dụng phổ biến nhưng cũng tiềm
ẩn những rủi ro nên phải tính toán và cân nhắc thận trọng.
- Tín dụng ngắn hạn ngân hàng: đây là nguồn tài trợ quan trọng nhưng phải
có đầy đủ những điều kiện theo quy định và phải tuân thủ những nguyên tắc nhất
định, bao gồm nhiều hình thức như: cho vay thanh toán, cho vay theo hạn mức tín
dụng, cho vay theo hợp đồng, chiết khấu thương mại…
2.2.2. Nguồn tài trợ dài hạn:
Nhìn chung, tài trợ dài hạn của doanh nghiệp là từ 1 năm trở lên. Các
doanh nghiệp sử dụng nguồn tài trợ dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn cho việc hình
thành TSCĐ và TSLĐ thường xuyên. Trong quá trình hoạt động và phát triển,
doanh nghiệp có thể huy động từ các nguồn tài trợ dài hạn khác nhau để đáp ứng
nhu cầu vốn cho đầu tư dài hạn của mình. Sau đây là một số hình thức tài trợ dài
hạn:

- Tự tài trợ: là hình thức doanh nghiệp tự tài trợ cho đầu tư của mình bằng nguồn
vốn của chính mình. Đây là nguồn quan trọng nhất trong nguồn tài trợ của doanh
nghiệp. Gồm có 2 dạng:
+ Tự tài trợ duy trì: là số khấu hao lũy kế còn lại của doanh nghiệp, trong
lúc chờ việc mua sắm TSCĐ khác thay thế có thể sử dụng vốn khấu hao lũy kế để
tài trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Tự tài trợ tăng trưởng: gồm phần lợi nhuận ròng không chia cho các đối
tượng góp vốn mà dự phòng mang tính chất dự trữ, trong đó phần lợi nhuận ròng
không chia để lại tiếp tục đầu tư là nguồn quan trọng nhất.
- Phát hành cổ phiếu: đây là nguồn tài trợ quan trọng nhưng chỉ áp dụng với công ty
cổ phần.
- Phát hành trái phiếu doanh nghiệp: là một công cụ tài chính thông dụng được
doanh nghiệp sử dụng để vay dài hạn, là chứng chỉ vay vốn do doanh nghiệp phát
hành. Mặt lợi là tạo cơ hội cho doanh nghiệp đạt doanh lợi vốn chủ sỡ hữu cao,
không bị phân chia quyền phân phối lợi nhuận, quyền quản lý doanh nghiệp và chi
phí phát hành thấp…nhưng doanh nghiệp buộc phải trả lợi tức, vốn vay đúng hạn,
làm tăng hệ số nợ…
- Tín dụng dài hạn và trung hạn ngân hàng: vay dài hạn thường 3 đến 5 năm, vay
trung hạn thường 1đến 3 hoặc 5 năm. Doanh nghiệp muốn được tài trợ trung hạn
và dài hạn của ngân hàng cần phải thỏa mãn các điều kiện và tiêu chuẩn vay vốn.
Đây là nguồn tài trợ quan trọng của các doanh nghiệp.
- Tín dụng thuê mua: là hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại tài sản, máy
móc, thiết bị…Đây là một hình thức tín dụng đặc biệt mới được hình thành ở nước
ta không lâu và ngày càng phát triển. Quan hệ tín dụng thuê mua được thực hiện
trên cơ sở thỏa thuận giữa người đi thuê tài sản và người cho thuê. Thỏa thuận thuê
mua là hợp đồng giữa 2 bên hoặc nhiều bên, liên quan đến một hay nhiều tài sản.
Người cho thuê chuyển giao tài sản cho người thuê độc quyền sử dụng trong một
khoảng thời gian nhất định. Đổi lại, người thuê phải trả một số tiền cho chủ tài sản
tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng. Hình thức này có 2 phương
thức giao dịch chủ yếu là thuê vận hành và thuê tài chính.

- Nguồn tài trợ khác: như là huy động vốn góp liên doanh dài hạn, vay vốn dài hạn
của nước ngoài hay được Nhà nước hoặc các tổ chức khác trợ cấp đầu tư.
2.3. Khái quát về năng lực tài chính và phân tích năng lực tài
chính của doanh nghiệp:
Năng lực tài chính của doanh nghiệp là khả năng tạo lập, phát triển và quản
lý sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp muốn
huy động được vốn một cách thuận lợi, muốn tăng trưởng vốn để phát triển sản
xuất kinh doanh thì doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả sao cho một đồng vốn
sử dụng mang lại nhiều đồng lợi nhuận. Vì vậy để đánh giá năng lực hoạt động tài
chính của doanh nghiệp người ta thường xem xét trên các phương diện hiệu quả sử
dụng các loại vốn, khả năng sinh lời vốn của doanh nghiệp và khả năng độc lập tài
chính của doanh nghiệp.
Trong điều kiện hiện nay, yêu cầu của các quy luật kinh tế đã đặt ra trước
mắt mọi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khắt khe: sản xuất những cái thị
trường cần chứ không phải sản xuất những cái mình có và phải cạnh tranh với rất
nhiều doanh nghiệp cùng ngành…Vì vậy, để sống sót được thì doanh nghiệp phải
sử dụng đồng vốn của mình sao cho tiết kiệm, hiệu quả. Một mặt, phải bảo toàn
đồng vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp tăng nhanh vòng quay vốn, nâng
cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh. Có như vậy mới thể hiện được năng lực
tài chính của một doanh nghiệp bởi năng lực tài chính chính là khả năng làm sao để
doanh thu ngày càng tăng trong khi chi phí ngày càng giảm. Khi doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh có lãi thì chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng có hiệu quả đồng vốn.
Để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp ta cần phải phân tích sự biến
động của các báo cáo tài chính hàng năm thông qua một số chỉ tiêu cơ bản như
thông qua kết quả sản xuất kinh doanh cho ta thấy doanh nghiệp đang kinh doanh
có lãi hay là lỗ, từ đó cho ta thấy khả năng huy động vốn của doanh nghiệp tốt hay
không. Còn thông qua bảng cân đối kế toán cho ta biết được tình hình vốn và
nguồn vốn của doanh nghiệp từ đó thấy được khả năng trả nợ của doanh nghiệp,
khả năng thanh toán tức thời, khả năng thanh toán nhanh….Bên cạnh đó, ta kết
hợp phân tích một số chỉ tiêu của các báo cáo để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ,

VLĐ và khả năng sinh lời vốn của doanh nghiệp. Việc phân tích các yếu tố này sẽ
cho ta kết luận chính xác về năng lực tài chính của doanh nghiệp bởi vì qua các chỉ
tiêu đó ta sẽ đưa ra được nhận xét về khả năng huy động, phát triển và quản lý sử
dụng vốn của doanh nghiệp cũng như khả năng trang trải nợ và các khoản chi phí
khác.
Một doanh nghiệp có năng lực tài chính sẽ khác hoàn toàn so với doanh
nghiệp không có năng lực tài chính vì nếu doanh nghiệp có năng lực tài chính tức
là doanh nghiệp đã sử dụng có hiệu quả đồng vốn bỏ ra, đã có khả năng trang trải
các khoản chi phí, nợ nần và huy động được vốn khi cần thiết. Lợi nhuận của
doanh nghiệp ngày càng tăng, quy mô sản xuất ngày càng phát triển và đa dạng.
Do vậy, doanh nghiệp có năng lực tài chính sẽ có tác động tốt đến kết quả sản xuất
kinh doanh làm cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng có hiệu quả.
Ngược lại, nếu doanh nghiệp không có năng lực tài chính thì có nghĩa là doanh
nghiệp đang làm ăn thua lỗ, không có khả năng huy động được vốn trên thị trường,
vốn chủ sỡ hữu thì ít mà nợ phải trả thì nhiều. Doanh nghiệp không có khả năng
thanh toán cho các chủ nợ, không tạo dược uy tín với các đối tác. Khi tiến hành sản

×