Tải bản đầy đủ (.pdf) (252 trang)

Sự vận động tư tưởng trong các đảng phái chính trị ở Việt Nam thời kỳ cận đại: Luận án TS. Lịch sử: 62 22 54 05

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.23 MB, 252 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

TRƯƠNG THỊ BÍCH HẠNH

SỰ VẬN ĐỘNG TƯ TƯỞNG
TRONG CÁC ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM THỜI KỲ CẬN ĐẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

TRƯƠNG THỊ BÍCH HẠNH

SỰ VẬN ĐỘNG TƯ TƯỞNG
TRONG CÁC ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ
Ở VIỆT NAM THỜI KỲ CẬN ĐẠI
Chuyên ngành:
Mã số:

Lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại
62225405

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Phạm Xanh
2. GS.TS. Phạm Hồng Tung

Hà Nội, 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Tên
đề tài luận án không trùng với bất cứ nghiên cứu nào đã được công bố. Các tài liệu,
số liệu, trích dẫn trong luận án là trung thực, khách quan, rõ ràng về xuất xứ.
Những kết quả nêu trong luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2015

Tác giả luận án

Trương Thị Bích Hạnh


LỜI CẢM ƠN
Bản luận án này được hoàn thành với sự giúp đỡ của các thầy cô giáo, bạn bè
đồng nghiệp, gia đình và người thân.
Trước hết, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS. Phạm Xanh - người
hướng dẫn, người thầy lớn của tôi. Được thầy dìu dắt từ những bước đầu tiên làm

báo cáo khoa học sinh viên, làm khóa luận tốt nghiệp, và giờ đây là hoàn thành luận
án tiến sĩ lịch sử là một may mắn lớn. Thầy đã giúp tôi từ ý tưởng, phương pháp, tư
liệu cho đến sửa chữa những chi tiết với trách nhiệm hiếm có, ngay cả trong thời
điểm khó khăn nhất về sức khỏe. Không có thầy sẽ không có luận án này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn GS.TS. Phạm Hồng Tung - người đồng hướng dẫn.
Không chỉ là những chỉ dẫn nghiêm khắc nhưng tận tâm, thái độ làm việc nhiệt tình,
dũng cảm và cởi mở với những vấn đề mới, gai góc trong khoa học của thầy đã
truyền cho tôi niềm cảm hứng lớn lao để hoàn thành luận án.
Xin cảm ơn thầy cô giáo và đồng nghiệp tại Khoa Lịch sử, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, đặc biệt là Bộ môn Lịch sử Việt Nam cận hiện đại
vì những chỉ bảo, góp ý cũng như sự quan tâm, động viên, khích lệ dành cho tôi
trong suốt quá trình làm nghiên cứu sinh.
Tôi cũng muốn dành cơ hội này để gửi lời cảm ơn tới Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia I, II, III, Thư viện Quốc gia Việt Nam, thư viện Đại học Quốc gia Úc, Thư
viện Đại học Giessen (CHLB Đức) đã nhiệt tình cung cấp tư liệu cho tôi. Xin cám
ơn GS. David Marr, TS. Philip Taylor, TS. Li Tana (Đại học Quốc gia Úc), GS..
Detlef Brisen (ĐH Giessen) vì những giúp đỡ quý báu trong thời gian tôi thực tập
tại hai quốc gia này. Xin cảm ơn Quỹ Gerda Henkel (CHLB Đức) đã cấp học bổng
để tôi có cơ hội đến ĐH Giessen học tập và viết luận án.
Cuối cùng, xin dành lời tri ân tới gia đình, bè bạn, đặc biệt là chồng và hai con
vì đã luôn chỗ dựa và động lực cho tôi trong cuộc sống cũng như trong khoa học.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận án
Trương Thị Bích Hạnh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ANCSĐ

An Nam Cộng sản Đảng


ĐDCSĐ

Đông Dương Cộng sản Đảng

ĐDCSLĐ

Đông Dương Cộng sản Liên đoàn

ĐCSĐD

Đảng Cộng sản Đông Dương

ĐCSVN

Đảng Cộng sản Việt Nam

HVNCMTN

Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên

No.

Number

NXB

Nhà xuất bản

pp.


pages

QTCS

Quốc tế Cộng sản

Tr.

trang

TVCMĐ

Tân Việt Cách mạng đảng

VNCMĐCH

Việt Nam Cách mạng đồng chí hội

VNQDĐ

Việt Nam Quốc dân đảng

Vol.

Volume


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án .................................................. 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 5
4. Nguồn tư liệu và Phương pháp nghiên cứu ........................................................ 6
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án....................................................... 10
6. Cấu trúc luận án.................................................................................................. 11
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................................................... 12
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam................................................ 12
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ............................................. 17
1.3. Những thành tựu đã đạt được và những vấn đề cần giải quyết .................. 24
Chương 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC CHÍNH ĐẢNG Ở VIỆT NAM
THỜI KỲ CẬN ĐẠI ................................................................................................. 28
2.1. Một số vấn đề lý thuyết.................................................................................... 28
2.1.1. Khái niệm chính đảng (đảng chính trị) ................................................... 28
2.1.2. Khái niệm chính đảng trong điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam
thời kỳ cận đại .................................................................................................. 31
2.1.3. Một số vấn đề lý thuyết khác có liên quan ............................................. 32
2.2. Những tiền đề hình thành các chính đảng ở Việt Nam thời kỳ cận đại ...... 34
2.2.1. Những tiền đề kinh tế - xã hội ................................................................ 34
2.2.2. Ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng và mô hình chính trị
phương Tây ....................................................................................................... 38
2.3. Sự hình thành các đảng phái chính trị ở Việt Nam thời kỳ cận đại............ 44
2.3.1. Các tổ chức chính trị “tiền đảng phái” ................................................... 44
2.3.2. Sự hình thành một số đảng phái chính trị của người Việt (1919-1930) ... 50
2.3.3. Sự hình thành một số đảng phái chính trị Việt Nam (1930-1945) ......... 52
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 55
1



Chương 3: SỰ VẬN ĐỘNG TƯ TƯỞNG TRONG CÁC ĐẢNG PHÁI
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1930 ..................................................... 58
3.1. Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản............................................. 58
3.1.1. Từ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đến Đảng Cộng sản
Việt Nam........................................................................................................... 59
3.1.2. Từ Tân Việt đến Đông Dương Công sản Liên đoàn .............................. 71
3.2. Vận động tư tưởng trong các chính đảng dân tộc chủ nghĩa....................... 78
3.2.1. Vận động tư tưởng trong chính đảng dân tộc cách mạng - Trường hợp
Việt Nam Quốc dân đảng ................................................................................. 78
3.2.2. Từ chủ nghĩa dân tộc ôn hòa đến tư tưởng thân Pháp - Trường hợp
Đảng Lập hiến .................................................................................................. 83
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................... 87
Chương 4: SỰ VẬN ĐỘNG TƯ TƯỞNG TRONG CÁC ĐẢNG PHÁI
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945 ............................... 90
4.1. Vận động tư tưởng trong Đảng Cộng sản Đông Dương và đấu tranh
tư tưởng trong phong trào cộng sản ...................................................................... 90
4.1.1. Đảng Cộng sản Đông Dương và quá trình hoàn thiện tư duy về
con đường giải phóng dân tộc .......................................................................... 90
4.1.2. Cuộc đấu tranh tư tưởng giữa Đảng Cộng sản Đông Dương và
nhóm Trotskyist .............................................................................................. 104
4.2. Vận động tư tưởng trong các đảng phái chính trị phi vô sản .................... 119
4.2.1. Vận động tư tưởng trong các đảng phái cấp tiến .................................. 119
4.2.2. Vận động tư tưởng trong một số đảng phái dân tộc chủ nghĩa khác .... 126
Tiểu kết chương 4 .................................................................................................. 140
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 143
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ..................................................................................................... 149
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 150
PHỤ LỤC


2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)
đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong phong trào yêu nước Việt Nam (ở
cả trong nước và nước ngoài) đã xuất hiện một số chính đảng với những tư tưởng
khác nhau. Phần lớn các chính đảng ra đời để đấu tranh chống chính quyền thực
dân, phong kiến, vì mục tiêu độc lập dân tộc và xây dựng một nền chính trị mới ở
Việt Nam. Tuy nhiên, nguồn gốc ra đời, mục tiêu, phương pháp đấu tranh, bệ đỡ tư
tưởng của các đảng phái rất khác nhau. Trong quá trình đấu tranh giải phóng dân
tộc, các đảng phái này liên tục vận động và phân hóa về tư tưởng cũng như tổ chức:
Có chính đảng đã vươn lên bắt kịp xu hướng của thời đại, có chính đảng tan rã, có
chính đảng ngày càng rời xa con đường cứu nước chân chính. Bức tranh đảng phái
ở Việt Nam thời kỳ cận đại thực sự phong phú và phức tạp.
Trong các tiêu chí để xác định/phân loại một đảng/phái chính trị, tiêu chí về
hệ tư tưởng thường được xem là tiêu chí quan trọng. Thực tế lịch sử cách mạng Việt
Nam, nghiên cứu về các chính đảng, có thể nhận thấy rằng quá trình vận động về tư
tưởng là quá trình nổi bật nhất. “Vận động tư tưởng” trước hết là quá trình thay đổi,
chuyển biến về tư tưởng chính trị của các đảng phái dưới tác động của những nhân
tố khách quan, chủ quan. Mặt khác, rộng hơn khái niệm “chuyển biến” hay “thay
đổi”, “vận động tư tưởng” còn được hiểu trên những chiều kích khác: đó là thái độ
của họ đối với những vấn đề trung tâm cơ bản như tư tưởng chính trị về giải phóng
dân tộc; về sự khẳng định của con đường cách mạng vô sản cũng như những sắc
thái tư tưởng khác với các đảng thuộc khuynh hướng phi vô sản. Làm rõ được quá
trình vận động tư tưởng là góp phần làm sáng tỏ bản chất chính trị của từng chính
đảng. Đây cũng chính là chìa khóa để giải mã được những thành công cũng như thất
bại của từng chính đảng, từ đó định vị được vị trí, vai trò của chúng trong cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội ở Việt Nam.

Giới sử học Việt Nam và nước ngoài đã có nhiều nghiên cứu về một số chính
đảng cụ thể, nhưng việc nghiên cứu toàn diện và hệ thống về tất cả các chính đảng ở
Việt Nam thời kỳ cận đại thì còn rất hiếm. Trong đó, càng thiếu những nghiên cứu
về chính đảng ở Việt Nam gắn liền những lý luận của khoa học chính trị hiện đại.
3


Sự vận động tư tưởng của các chính đảng là dòng chảy song song với quá trình
chuyển biến của lịch sử dân tộc vẫn còn những điểm chưa sáng tỏ.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện các đảng phái ở Việt
Nam thời cận đại, trước hết trên bình diện tư tưởng thực sự có ý nghĩa quan trọng cả
về khoa học và thực tiễn, góp phần phát hiện và nắm bắt quy luật vận động của lịch
sử dân tộc trong giai đoạn này, thậm chí góp phần giải quyết một số vấn đề đang đặt
ra trong đời sống chính trị - xã hội nước ta hiện nay dù Đảng Cộng sản Việt Nam đã
trở thành Đảng cầm quyền 70 năm nay.
Với những lý do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài Sự vận động tư tưởng
trong các đảng phái chính trị ở Việt Nam thời kỳ cận đại cho luận án tiến sĩ
chuyên ngành lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu
Luận án nhằm chỉ rõ những khuynh hướng vận động tư tưởng trong các
đảng phái chính trị, lý giải nguyên nhân và tác động của sự vận động tư tưởng đó
đối với phong trào giải phóng dân tộc nói riêng, với lịch sử Việt Nam thời kỳ cận
đại nói chung.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
-

Làm rõ những vấn đề lý luận, đặc biệt là những khái niệm: đảng chính trị và

các khái niệm khác có liên quan.

-

Nghiên cứu và làm sáng tỏ các điều kiện hình thành và quá trình thành lập

của các đảng phái chính trị ở Việt Nam (1919-1945).
-

Nghiên cứu để làm sáng tỏ sự vận động tư tưởng trong các chính đảng ở Việt

Nam (1919-1945), trong đó tập trung vào một nội dung xuyên suốt là các chính
đảng đã tiếp cận, giải quyết vấn đề dân tộc và dân chủ trong cách mạng Việt Nam
như thế nào, bằng cách gì, ở mức độ nào.
-

Từ việc nghiên cứu sự vận động tư tưởng của các đảng phái chính trị ở Việt

Nam thời cận đại, góp phần làm sáng tỏ đặc điểm và xu hướng chuyển hóa của
phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam, lý giải được sự thành công của con đường
giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của sự Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cũng như giải thích được sự thất bại của các đảng
phái khác.
4


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là các chính đảng của người Việt và sự vận động tư
tưởng của các chính đảng đó từ năm 1919 đến năm 1945. Trên cơ sở giới thiệu một
số cách tiếp cận của khoa học chính trị về đảng chính trị, tác giả luận án sẽ đưa ra
định nghĩa chính đảng và lấy đây làm tiêu chí để xem xét tư tưởng của những tổ
chức chính trị nào ở Việt Nam thời cận đại được coi là đối tượng nghiên cứu của

luận án (phần 2.1 Một số vấn đề lý thuyết thuộc chương 2)
Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Thời kỳ cận đại theo cách hiểu thông thường là từ năm 1858
đến năm 1945. Tuy nhiên, luận án chỉ tập trung nghiên cứu từ năm 1919 đến Cách
mạng tháng Tám năm 1945. Năm 1919, thực dân Pháp bắt tay vào công cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929), làm xã hội Việt Nam có những đổi thay to
lớn. Mặt khác, tháng 4 năm 1919, lần đầu tiên trang đầu của tạp chí La Tribune
Indigène (Diễn đàn bản xứ) mang tiêu đề “cơ quan của Đảng Lập Hiến”, đó là mốc
được nhiều nhà nghiên cứu coi là thời điểm thành lập Đảng Lập hiến. Vì vậy, luận
án chọn mốc 1919 để mở đầu cho nghiên cứu về chính đảng ở Việt Nam thời kỳ cận
đại. Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(tháng 9/1945) là mốc kết thúc thời gian nghiên cứu của luận án. Để làm rõ hơn quá
trình hình thành, phát triển của các chính đảng, luận án tìm hiểu thêm về những tổ
chức “tiền đảng phái” từ đầu thế kỷ XX. Sự vận động tư tưởng trong các chính đảng
(1919-1945) được đặt trong mối tương quan với những dòng chảy tư tưởng của lịch
sử Việt Nam thời kỳ cận đại.
Về không gian: là Việt Nam với ba kỳ: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam)
và Nam Kỳ (Cochinchine) trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Do một số
đảng phái chính trị có hoạt động ở hải ngoại nên luận án sẽ mở rộng không gian
nghiên cứu ra bên ngoài biên giới Việt Nam tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Về nội dung: khái niệm “tư tưởng” được sử dụng trong luận án là “tư tưởng
chính trị”. Trong đó, luận án chỉ tập trung tìm hiểu quá trình vận động tư tưởng của
các đảng phái về hai vấn đề cốt lõi của cách mạng Việt Nam trước năm 1945 là vấn
đề dân tộc và dân chủ. Đối với mỗi khuynh hướng tư tưởng, luận án chỉ lựa chọn
nghiên cứu những chính đảng mà quá trình vận động tư tưởng diễn ra tiêu biểu nhất.
Đó là Đảng Lập hiến Đông Dương; Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, sau này
là Đảng Cộng sản Việt Nam/Đông Dương; Tân Việt Cách mạng đảng; Việt Nam
Quốc dân đảng trước năm 1930 và một số đảng phái tiêu biểu cho các khuynh
hướng tư tưởng trong những năm 1930-1945: thân Nhật (Đại Việt Quốc dân đảng,
5



Việt Nam Phục quốc đồng minh hội v.v...); thân Pháp (Đảng Lập hiến); thân chính
quyền Trung Hoa Dân quốc (Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội, Việt Nam Quốc
dân đảng sau khởi nghĩa Yên Bái); cấp tiến (Đảng Dân chủ Việt Nam) v.v... Luận
án chỉ nghiên cứu các chính đảng, không đề cập đến các tổ chức quần chúng của
đảng, các hội tương thân tương ái v.v...
4. Nguồn tư liệu và Phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Các nguồn sử liệu liên quan đến các đảng phái chính trị ở Việt Nam thời cận
đại rất phong phú, chủ yếu là sử liệu thành văn với hai nhóm chính: sử liệu sơ cấp
(primary sources) và sử liệu thứ cấp (secondary sources).
Sử liệu sơ cấp (hay sử liệu gốc) là nguồn sử liệu do chính những con người
trực tiếp tham gia hoặc liên quan đến các đảng phái chính trị ở Việt Nam sản sinh
ra trong quá trình lịch sử. Nguồn sử liệu này bao gồm: các văn kiện, giấy tờ, tài
liệu tuyên truyền của các đảng phái; các văn bản của chính quyền (Pháp, Nhật);
báo chí xuất hiện trước năm 1945; các ghi chép cá nhân của các nhân vật/nhân
chứng lịch sử v.v… Tại Việt Nam hiện nay, phần lớn các tư liệu sơ cấp liên quan
đến đề tài luận án chủ yếu tập trung ở các Phông Phủ Toàn quyền Đông Dương
(các tài liệu thuộc series F3 - các báo cáo chính trị của chính quyền và F74 - về
giám sát hoạt động chính trị của người bản xứ); Phông Phủ Thống Sứ Bắc Kỳ (các
tài liệu thuộc series F6, F7, G6, G7…) thuộc Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I; các
phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ, Tòa Khâm Sứ Trung Kỳ thuộc Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia II. Các tài liệu tại các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I và II chủ yếu là
những điều tra của chính quyền thực dân về hoạt động của các đảng phái chính trị;
biên bản các cuộc thẩm vấn tù chính trị, trong đó nhiều nhất là đảng viên Đảng
Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD) và Việt Nam Quốc dân đảng (VNQDĐ). Cục
Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng là nơi lưu nhiều tài liệu vô giá về Đảng
Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và các lãnh tụ. Ngoài ra, những tài liệu này còn rải
rác được bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam; Viện Sử học; Viện Lịch sử

Đảng v.v… Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, sự ra đời của bộ Văn kiện Đảng
toàn tập (54 tập) một tài liệu quý giá cho người nghiên cứu vì nó chứa đựng một
kho tàng về lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Trong phạm vi giới hạn thời gian nghiên cứu của đề tài luận án, tác giả tập
trung nghiên cứu từ tập 1 đến tập 8 của bộ Văn kiện Đảng toàn tập do NXB Chính
trị Quốc gia xuất bản trong những năm 1999-2002. Ngoài ra, Hồ Chí Minh toàn

6


tập và một số trước tác khác của các nhà lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn này
như Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh v.v... cũng được coi là nguồn tư
liệu quan trọng. Đối với một số đảng phái chính trị khác, có thể tìm thấy nhiều tư
liệu quý giá như cương lĩnh, chương trình hành động v.v... trong bộ Tài liệu tham
khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam gồm 12 tập do Trần Huy Liệu và cộng
sự sưu tầm, công bố trong những năm 1955-1960.
Trong hoàn cảnh một nước thuộc địa, khi các đảng phái chính trị Việt Nam
hầu hết hoạt động bí mật và bất hợp pháp, báo chí là một kênh vô cùng quan trọng
để họ bày tỏ lập trường chính trị, giáo dục đảng viên, thu hút và tập hợp quần
chúng. Ở Việt Nam cận đại, đã thực sự hình thành dòng báo chí chính trị. Đặc biệt,
trong những năm 1936-1939, khi mặt trận bình dân lên nắm quyền ở Pháp, chính
quyền thực dân ở Đông Dương buộc phải nới lỏng một phần sự kiểm soát đối với
báo giới, báo chí yêu nước và chống Pháp có điều kiện phát triển lên một tầm cao
mới. Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và nhiều nhà Nho cấp tiến ở Việt Nam đã đi
đầu trong việc biên soạn, ấn hành nhiều tài liệu tuyên truyền, mở đường cho việc sử
dụng các phương tiện truyền thông hiện đại vào mục đích giải phóng dân tộc. Tờ
báo ra đời sớm gắn với Đảng Lập hiến là tờ La Tribune Indigène (Diễn đàn bản xứ),
sau là tờ La Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương). Ngoài ra đảng này còn
có tờ báo tiếng Việt là Đuốc Nhà Nam. Năm 1921, ngay sau khi lựa chọn con
đường cách mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc đã lập ra tờ Le Paria và phát hành công

khai ở Pháp. Tại Việt Nam, chính sự ra đời của La Cloche fêlée (Chuông rè) của
Nguyễn An Ninh (Thanh Niên Cao vọng đảng) và Đông Pháp thời báo của Trần
Huy Liệu (Đảng Thanh niên) đã mở đầu cho dòng báo chí đối lập công khai ở Việt
Nam. Đảng Cộng sản Đông Dương mà tiền thân của nó là tổ chức Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên (HVNCMTN) là tổ chức chính trị thực sự coi trọng tuyên
truyền qua báo chí. Chính bởi vậy, không ngạc nhiên khi Thanh Niên và ĐCSVN sở
hữu rất nhiều tờ báo chính trị như Thanh Niên, Le Travail (Lao động),
Rassemblement (Tập hợp), En Avant (Tiến lên), Notre voix (Tiếng nói của chúng
ta), La Lutte (trước khi bị mất vào nhóm Trotskyist), L’Avant Garde (Tiền Phong).
Cũng trong cuộc vận động vì dân sinh, dân chủ (1936-1939), một số tờ báo tiếng
Việt của Đảng đã ra đời như Tin tức, Đời nay, Dân Chúng v.v... Trong cuộc vận
động tiến tới Cách mạng tháng Tám, ĐCSĐD tiếp tục cho ra các tờ báo như Cờ giải
phóng, Cứu Quốc, Việt Nam Độc lập. Trong lịch sử tồn tại của mình, các đảng phái
khác cũng sở hữu một số tờ báo cả tiếng Việt và tiếng Pháp như nhóm Trotskyist có
7


các tờ La Lutte (Tranh đấu), Tháng Mười, Đại Việt có tờ Bình Minh v.v... Ngay cả
những tờ báo/tạp chí tuy không hẳn là báo chí chính trị, nhưng qua đó, vẫn giúp
người đọc tìm hiểu được quan điểm, cũng như những biến chuyển tư tưởng của các
nhân vật liên quan như tờ Phong Hóa, Ngày Nay với nhóm Tự Lực Văn Đoàn và
Đại Việt Dân chính đảng.
Ngoài ra, truyền đơn là một phương thức tuyên truyền chính trị được nhiều
tổ chức chính trị sử dụng thời kỳ cận, hiện đại. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I và
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam hiện đang lưu giữ một số truyền đơn liên quan
đến đề tài luận án, trong đó sớm nhất là tờ Quốc tế Lao động nông hội kính báo in
lời kêu gọi của Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản (QTCS) tại Moscow ngày
27/2/1924 gửi cho nhân dân Đông Dương.
Nhóm sử liệu thành văn thứ cấp bao gồm toàn bộ những sử liệu khác liên
quan mà không phải do những người trực tiếp tham gia vào các đảng phái chính trị

sinh ra trong thời gian trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Với nguyên tắc trên, những hồi ký của các nhân chứng lịch sử viết lại về quá
trình lịch sử họ tham gia hoặc chứng kiến đều được coi là sử liệu thứ cấp. Hồi ký
mang đậm tính chủ quan. Các sự kiện được kể lại không khỏi chịu tác động bởi các
quy luật quên lãng. Tính chủ quan khiến hồi ký không thể so bì với các tư liệu gốc,
các chứng tích về tính xác thực. Tuy nhiên, điều đó phần nào được bù đắp bởi văn
phong sinh động, cảm tưởng trực tiếp của cá nhân tác giả. Với đề tài này, tác giả
tham khảo một khối lượng tương đối lớn các hồi ký từ hồi ký của những nhà cách
mạng tiền bối như Phan Bội Châu với Ngục trung thư, đến hồi ký của những nhà
lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam như Võ Nguyên Giáp (Từ nhân dân mà ra,
Những năm tháng không thể nào quên), Trần Văn Giàu (hồi ký chưa được công bố
chính thức), Hoàng Quốc Việt (Chặng đường nóng bỏng, Con đường theo Bác), đến
những hồi ký của những người từng tham gia các đảng phái khác như Trần Huy
Liệu với hồi ký mang tên ông, Nhượng Tống (Việt Nam Quốc dân đảng) với Hoa
cành nam, hồi ký Đào Duy Anh - Tân Việt (Nhớ nghĩ chiều hôm), hồi ký Trần
Trọng Kim (Một cơn gió bụi), hồi ký Hà Thúc Ký - đảng Đại Việt (Sống còn với
dân tộc), Bùi Diễm - đảng Đại Việt (Gọng kìm lịch sử), Hoàng Linh Đỗ Mậu - cựu
đảng viên Đại Việt (Việt Nam máu lửa quê hương tôi - Tâm sự tướng lưu vong),
Pham Văn Hùm - Trotskyist (Ngồi tù khám lớn), Ngô Văn - Trotskyist (Tại xứ
Chuông rè - Nỗi truân chuyên của một người dân Nam Kỳ thời thuộc địa), Hồ Hữu
Tường - Trotskyist (41 năm làm báo) v.v…
8


Chiếm số lượng lớn nhất trong nhóm sử liệu thứ cấp là hàng trăm công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước về các đảng phái chính trị ở Việt Nam và những
vấn đề lịch sử liên quan. Điều đáng mừng cho giới nghiên cứu là một khối lượng
lớn sách báo xuất bản thời kỳ thuộc địa của Thư viện Quốc gia Pháp và một bộ
phận trong bộ sưu tập Đông Dương của Thư viện Quốc gia Việt Nam đã được số
hóa và chia sẻ trên internet. Những nghiên cứu này vừa cung cấp những kiến thức

nền (background) của lịch sử Việt Nam cận đại vừa đi sâu nghiên cứu một chính
đảng hoặc một khía cạnh nào đó của chính đảng.
4.2.

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp lịch sử, kết hợp phương
pháp logic, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp.
-

Phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic: là hai phương pháp

chính được sử dụng nhằm làm rõ điều kiện, quá trình hình thành các đảng chính trị
ở Việt Nam, những chuyển biến trong tư tưởng chính trị của các đảng phái.
-

Phương pháp đồng đại và lịch đại: Trong khi cách tiếp cận lịch đại

(chronologic approach) giúp tái hiện lịch sử theo trình tự thời gian, cách tiếp cận
đồng đại (synchronic approach) giúp người nghiên cứu có thể nhìn thấu được bên
trong quá trình chuyển biến tư tưởng trong các đảng phái, và những tác động của
các điều kiện lịch sử cụ thể đến sự hình thành và vận động tư tưởng trong các
chính đảng.
-

Phương pháp so sánh (comparative study): được sử dụng để so sánh các đảng

phái chính trị ở Việt Nam thời kỳ cận đại, từ đó tìm được sự giống và khác nhau của
các chính đảng trong cách tiếp cận vấn đề dân tộc và dân chủ trong điều kiện lịch sử
cụ thể của Việt Nam.

-

Phương pháp phân tích và tổng hợp: các thông tin được khai thác tại các

trung tâm lưu trữ, kết hợp với các tài liệu thứ cấp sẽ được phân tích, tổng hợp thành
tư liệu để phục vụ luận án. Những kết luận, đánh giá sẽ được xây dựng dựa trên
phân tích và tổng hợp các sự kiện lịch sử.
-

Phương pháp thống kê: được sử dụng để thống kê các truyền đơn của các tổ

chức chính trị ở Việt Nam trước tháng 9 năm 1945, qua đó tìm hiểu chủ trương,
chính sách của từng tổ chức qua mỗi giai đoạn lịch sử cũng như chủ trương, chính
sách ấy đi vào quần chúng như thế nào.
9


5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về phương pháp và cách tiếp cận: Những nghiên cứu về các đảng chính trị
Việt Nam, đặc biệt là những nghiên cứu trong nước trước đây thường chỉ nghiên
cứu một tổ chức riêng lẻ, dưới góc độ lịch sử thuần túy. Vì vậy, cách tiếp cận liên
ngành trên cơ sở phối hợp các phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học lịch sử
và khoa học chính trị là một đóng góp mới của luận án. Luận án đã sử dụng hệ
thống lý thuyết chính đảng của khoa học chính đảng làm nền tảng lý thuyết cho
nghiên cứu lịch sử chính đảng ở Việt Nam thời kỳ cận đại.
Về sử liệu: đối với Đảng Cộng sản Việt Nam/Đảng Cộng sản Đông Dương,
bên cạnh khai thác tối đa bộ Văn kiện Đảng toàn tập, tác giả luận án bước đầu quan
tâm đến nguồn sử liệu truyền đơn vốn chưa được sử dụng nhiều trong nghiên cứu
nhằm làm rõ những biến chuyển về tư tưởng trong Đảng để tiếp cận gần hơn chân
lý cứu nước. Đối với các đảng phái khác, thông tin nằm rải rác ở nhiều loại sử liệu

với mức độ xác tín khác nhau. Xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu, luận án đã sắp xếp,
đối chiếu và góp phần cung cấp thông tin tương đối đầy đủ, hệ thống về diễn trình
tư tưởng của những đảng phái chính trong bản đồ lịch sử chính trị - tư tưởng Việt
Nam thời kỳ cận đại.
Về nhận thức lịch sử:
-

Luận án đem đến nhận thức tương đối toàn diện và có hệ thống về quá trình

vận động tư tưởng trong mỗi đảng phái và cuộc đấu tranh tư tưởng giữa các đảng
phái chính trị ở Việt Nam thời kỳ cận đại. Luận án không tiếp cận nghiên cứu đảng
chính trị như một thực thể riêng lẻ, mà đặt chúng trong hệ thống và xem xét xem
các đảng phái chính trị đã tiếp cận, giải quyết vấn đề dân tộc và dân chủ - vấn đề
xương sống của cách mạng Việt Nam như thế nào.
-

Luận án góp phần làm rõ và lấp dần những “khoảng trống” trong lịch sử Việt

Nam nói chung, lịch sử chính trị, lịch sử tư tưởng Việt Nam nói riêng thời kỳ cận
đại thông qua bước đầu nghiên cứu những đảng/phái ít được nghiên cứu như Đảng
Đại Việt, nhóm Trotkyist… Đối với những chính đảng đã được nghiên cứu tương
đối kỹ như Tân Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam Quốc dân đảng, Đảng Cộng sản
Việt Nam v.v… luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề mới hoặc còn tranh cãi
như cuộc đấu tranh tư tưởng giữa Đảng Cộng sản Đông Dương và nhóm Trotskyist
Việt Nam, quá trình hoàn thiện tư duy về con đường giải phóng dân tộc của Đảng
Cộng sản Đông Dương.
10


-


Thông qua quá trình chuyển biến tư tưởng, luận án làm sáng tỏ bản chất

chính trị của từng chính đảng. Đây chính là chìa khóa đề giải mã được những thành
công cũng như thất bại; nguyên nhân của những thành công, thất bại đó; định vị
được vị trí, vai trò của từng tổ chức trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến
bộ xã hội ở Việt Nam. Từ đó, luận án góp phần nhận thức đầy đủ hơn lịch sử Việt
Nam thời kỳ cận đại trên phương diện tư tưởng chính trị.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được cấu trúc thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Quá trình hình thành các đảng phái chính trị ở Việt Nam thời kỳ
cận đại
Chương 3: Sự vận động tư tưởng trong các đảng phái chính trị ở Việt Nam
trước năm 1930
Chương 4: Sự vận động tư tưởng trong các đảng phái chính trị ở Việt Nam
từ năm 1930 đến năm 1945

11


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Những nghiên cứu liên quan đến đề tài ở Việt Nam có thể chia ra làm ba giai
đoạn: trước năm 1954, sau năm 1954 đến trước đổi mới và những nghiên cứu
những năm gần đây.
Trước năm 1954: Trong điều kiện nước ta vẫn còn nằm dưới ách thống trị
của thực dân Pháp, nghiên cứu về các đảng phái chính trị khó có thể có thành tựu.
Tuy nhiên, trên phương diện lý luận, đáng chú ý có hai cuốn sách giới thiệu cách sơ

lược về các hình thức tổ chức chính trị là cuốn Hội kín xuất bản năm 1935 và cuốn
Tổ chức chính trị trong một quốc gia độc lập do Impr. Tân Việt xuất bản năm 1945.
Đối với những vấn đề lịch sử cụ thể, tài liệu thuộc dạng sớm về lịch sử chính
trị ở Đông Dương là cuốn Contribution à l’histoire des mouvements politiques de
L’Indochine Française (Góp phần vào lịch sử chính trị Đông Dương thuộc Pháp)
của Louis Marty - Giám đốc An ninh Đông Dương do Phủ Toàn quyền Đông
Dương xuất bản tại Hà Nội năm 1933-1934 gồm 7 tập. Cuốn sách đã cung cấp
những tư liệu quan trọng về hoạt động của các đảng phái, các phong trào chính trị.
Tuy nhiên, do được xây dựng dựa trên lời khai của tù chính trị nên cuốn sách chứa
đựng những thông tin không chính xác vì phạm nhân thường có xu hướng nhấn
mạnh “công” và chối “tội”. Mặt khác, về mặt quan điểm, vì tác giả là một nhân vật
nắm vị trí trọng trách trong chính quyền thực dân nên có một số nhận định cực đoan
khi coi hầu hết các đảng phái là các tổ chức phiến loạn.
Về các đảng phái cụ thể, có hai cuốn sách của Nhượng Tống về hai tổ chức
chính trị tiêu biểu thời cận đại là Tân Việt với Tân Việt cách mệnh đảng do Việt
Nam thư xã ấn hành năm 1945 và về lãnh tụ Nguyễn Thái Học của Việt Nam Quốc
dân đảng. Nguyễn Thế Nghiệp - một đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng
(VNQDĐ) có công trình Việt Nam Quốc dân đảng tại hải ngoại đăng trên Hải
Phòng nhật báo năm 1945. Cùng đề tài, Bạch Diện cũng viết cuốn Nguyễn Thái
Học và Việt Nam Quốc dân đảng in tại Hà Nội năm 1950. Giá trị của những công
trình này nằm ở chỗ tác giả của chúng là những người cùng thời, thậm chí là người
trực tiếp tham gia VNQDĐ nên có những hiểu biết về nhân vật và thời cuộc. Do đó,
với tư cách là những ấn phẩm sớm nhất viết và tôn vinh Nguyễn Thái Học và
VNQDĐ chúng đều chứa đựng những tư liệu lịch sử có giá trị để những thế hệ sau
12


tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên, những cuốn sách nói trên cũng cho thấy thái độ
chống cộng quyết liệt của Nhượng Tống hay những câu chữ đề cao đóng góp của cá
nhân Nguyễn Thế Nghiệp mà người nghiên cứu khó kiểm chứng được độ xác thực.

Ngoài ra, có giá trị nhất trong những công trình viết về các đảng phái chính
trị trước năm 1954 phải kể đến loạt 12 bài của Phan Khôi đăng trên báo Trung Lập
năm 1930 về Đảng Lập Hiến có tựa đề “Nói về Đảng Lập hiến ở Nam Kỳ”. Đọc
loạt bài này ta không khỏi ngạc nhiên trước cách đánh giá sâu sắc của một học giả
viết cách chúng ta nhiều năm khi nhận định tương đối chính xác những đóng góp
cũng như những hạn chế của Đảng Lập hiến trên nhiều bình diện (tư tưởng, tổ chức,
hoạt động…).
Trong khoảng thời gian những năm 1951-1952, trên tạp chí Phổ Thông do
Hội Sinh viên trường Luật ấn hành, Văn Huy trong bài “Phong trào quốc gia ở Việt
Nam” cũng đề cập một cách sơ lược đến các đảng phái chính trị ở Việt Nam.
Sau khi hòa bình được lập lại trên miền Bắc (năm 1954), công tác nghiên
cứu lịch sử nói chung, lịch sử cận hiện đại Việt Nam mới được đẩy mạnh. Cũng
trong năm đó, Ban nghiên cứu Văn học, Lịch sử, Địa lý được chuyển đổi trên cơ sở
tổ chức tiền thân là Ban nghiên cứu Lịch sử, Địa lý, Văn học thuộc Trung ương
Đảng được thành lập ngay trong thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
đang trong giai đoạn quyết liệt nhất (2/12/1953). Cơ quan phát ngôn thông tin của
Ban là Tạp chí Văn - Sử - Địa cũng được ra đời. Về lịch sử cách mạng Việt Nam
thời cận đại, đáng chú ý có tập tài liệu gồm 12 tập do Trần Huy Liệu cùng một số
cán bộ nghiên cứu của Ban nghiên cứu Văn - Sử - Địa biên soạn mang tên Tài liệu
tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam. Cho đến nay đây vẫn là công trình
có giá trị tư liệu cao, cung cấp một số tư liệu quan trọng liên quan đến cương lĩnh,
chương trình hành động và các văn kiện khác của các đảng phái chính trị thời cận
đại. Cuốn Lịch sử 80 năm chống Pháp cũng của Trần Huy Liệu cũng là một trong
những công trình sử học tiên phong của giới sử học Việt Nam non trẻ. Quyển 2 của
bộ sử này đề cập đến phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam từ đầu thế kỷ
XX đến năm 1930, trong đó có một nội dung quan trọng là các đảng phái chính trị.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ một công trình tổng quát về lịch sử Việt Nam,
cuốn sách không có điều kiện đi sâu về các đảng phái mà chỉ giới thiệu sơ lược về
tư tưởng chính trị và hoạt động của các đảng phái này. Đối với những tổ chức chính
trị phi vô sản, nhìn chung, cách nhìn nhận, đánh giá còn dè dặt.


13


Khắc phục những hạn chế của những tập sách nói trên, các bộ thông sử về
lịch sử Việt Nam cận đại ra đời sau như bộ Lịch sử cận đại Việt Nam xuất bản năm
1963 của nhóm tác giả Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Kiều Xuân Bá; cuốn Lịch
sử Việt Nam của Hồ Song in năm 1979 và Lịch sử Việt Nam in năm 1985 của
Nguyễn Khánh Toàn, và gần đây nhất là hai cuốn Đại cương lịch sử Việt Nam tập 2
(xuất bản lần đầu năm 1998 và được tái bản nhiều lần) và Lịch sử Việt Nam tập 3
(năm 2012) cùng do GS. Đinh Xuân Lâm chủ biên đề cập ngày một sâu hơn về các
đảng phái cũng như sự chuyển biến tư tưởng ở Việt Nam thời cận đại. Nhìn chung,
hệ tư tưởng, hoạt động, những nhận định, đánh giá về các chính đảng cũng ngày
một khách quan và sâu sắc hơn. Tuy nhiên, với tư cách là những bộ thông sử, các
bộ sách đó cũng chỉ giới thiệu khái quát mà không có điều kiện đi sâu vào các khía
cạnh của các vấn đề khoa học có liên quan.
Tại miền Nam trước năm 1975, cuốn Việt Nam Pháp thuộc sử 1862-1945,
Khai Trí xuất bản tại Sài Gòn năm 1961 của Phan Khoang cũng là bộ thông sử
tương đối quen thuộc với giới nghiên cứu. Trong đó, tác giả dành chương 5 với tựa
đề Tranh đấu, giải phóng để giới thiệu về phong trào yêu nước từ Phan Châu Trinh,
Phan Bội Châu đến hoạt động của các đảng phái trước năm 1945. Tuy nhiên, Đảng
Cộng sản không được đề cập và mặc dù có mục về các đảng chính trị nhưng dung
lượng chỉ chưa đến 10 trang (từ trang 466 đến 476). Dưới góc độ khoa học chính trị,
bộ sách hai tập của Tiến sĩ chính trị học Nguyễn Ngọc Huy Lịch sử các học thuyết
chánh trị (năm 1971) là một tài liệu quý, không chỉ cung cấp những kiến thức cơ
bản về các học thuyết chính trị trên thế giới mà còn đề cập đến các học thuyết chính
trị ở Việt Nam như chủ nghĩa duy tân (đảng Đại Việt Duy tân), chủ nghĩa dân tộc
sinh tồn (Đại Việt Quốc dân đảng), chủ nghĩa nhân vị v.v...
Bên cạnh những cuốn thông sử, đã xuất hiện những công trình chuyên khảo
về một đảng chính trị cụ thể. Chiếm đa số vẫn là hàng ngàn cuốn sách, bài tạp chí,

luận án tiến sĩ, luận văn cao học, khóa luận tốt nghiệp khai thác nhiều khía cạnh của
lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong những năm 1976-1977, Ban nghiên cứu
lịch sử Đảng Trung ương đã cho ra mắt những bộ tư liệu rất quý có tên là Các tổ
chức tiền thân của Đảng. Đây là nguồn tư liệu tương đối tin cậy để tìm hiểu về
những tổ chức cách mạng trước khi thành lập Đảng. Liên quan đến đề tài luận án,
có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như Lê Mậu Hãn (Sức mạnh dân tộc dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, Các cương
lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam); Phạm Xanh (Nguyễn Ái Quốc và
14


quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Hồ Chí Minh: Dân tộc và
Thời đại, Đi tìm nguồn gốc của những biểu hiện ấu trĩ “tả khuynh” trong phong
trào Xô viết Nghệ Tĩnh); Vũ Quang Hiển (Đảng với vấn đề nông dân, nông nghiệp,
và nông thôn (1930-1975)); Phạm Hồng Tung (Lịch sử cuộc vận động vì các quyền
dân sinh, dân chủ ở Việt Nam (1936-1939), Lịch sử cuộc cách mạng tháng Tám
1945 ở Việt Nam); Ngô Đăng Tri (Sự thống nhất cơ bản giữa Chánh cương và Luận
cương của Đảng năm 1930); Hồ Thị Tố Lương (Quốc tế Cộng sản và Cách mạng
Việt Nam)v.v... Những công trình kể trên đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề
quan trọng trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó quan trọng nhất là
những vấn đề sau: Thứ nhất, vấn đề thành lập Đảng và vai trò của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc trong truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin, trong chuẩn bị tư tưởng - tổ chức
để thành lập Đảng, trong việc đề ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên đúng đắn và sáng
tạo. Thứ hai, vấn đề đường lối chiến lược giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản
Việt Nam từ năm 1930 đến thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945,
đường lối đó đã thay đổi như thế nào trong từng giai đoạn lịch sử, nhân tố chủ quan
và khách quan gì đã tác động đến sự thay đổi đó đó. Thứ ba, mối quan hệ đa chiều
giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, giữa Quốc tế Cộng sản (QTCS)
và ĐCSVN. Bên cạnh những nhận thức lịch sử tương đối thống nhất trong giới sử
học, về lịch sử ĐCSVN vẫn còn nhiều vấn đề tranh luận như: về ngày thành lập

Đảng và Hội nghị thành lập Đảng; có hay không sự khác biệt giữa Cương lĩnh chính
trị đầu tiên (tháng 2/1930) và Luận cương chính trị (tháng 10/1930); trong giai đoạn
1939-1945, có sự “thay đổi chiến lược” (tương đương với các khái niệm “điều
chỉnh chiến lược”, “chuyển hướng chiến lược”) hay không có sự thay đổi chiến
lược, mà chỉ có sự thay đổi về chỉ đạo thực hiện chiến lược?
Không chỉ tồn tại những vấn đề tranh luận, các công trình nghiên cứu lịch sử
ĐCSVN hiện đang đặt ra một số vấn đề cần đổi mới và cải thiện như: phản ánh
đúng những thành công, nhưng cũng cần trình bày và lý giải những khuyết điểm, sai
lầm của Đảng trong tiến trình lãnh đạo cách mạng; tái hiện chân thực mối quan hệ
của Đảng với QTCS, các đảng cộng sản và các tổ chức quốc tế; làm rõ chủ trương,
chính sách của Đảng qua các văn kiện song cũng cần phản ánh được quá trình thảo
luận, tư duy của Đảng để đi đến quyết sách đó; ngay cả đối với lịch sử Đảng cũng
không thể chỉ được quan sát và tiếp cận theo một chiều từ trên xuống dưới (topdown) mà cần cả cách tiếp cận từ dưới lên (bottom-up): chủ trương, chính sách của
Đảng đi vào thực tiễn như thế nào, tính chủ động, sáng tạo của các cấp bộ đảng cơ
15


sở, của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thực tiễn đó sẽ phản ánh trở lại đến tư duy,
lý luận của Đảng như thế nào cũng là vấn đề cần quan tâm.
Ngoài ĐCSVN, kể từ những năm 80 của thế kỷ XX, đã xuất hiện những
nghiên cứu chuyên sâu về một đảng phái chính trị ở Việt Nam thời cận đại. Từ đó
trở đi, hàng loạt các công trình được xuất bản nghiên cứu toàn diện về một số đảng
chính trị tiêu biểu như Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội (1986) do
Nguyễn Thành chủ biên; Tân Việt Cách mạng Đảng trong cuộc vận động thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam của Đinh Trần Dương (2006); Việt Nam Quốc dân đảng
trong lịch sử cách mạng Việt Nam (2005, tái bản và bổ sung năm 2012) của Nguyễn
Văn Khánh v.v…Với tư cách là những công trình khảo cứu chuyên sâu, những công
trình này nghiên cứu và làm sáng tỏ một cách tương đối toàn diện về điều kiện hình
thành, hoạt động cũng như đưa ra những nhận định, đánh giá về vai trò, vị trí của ba
tổ chức yêu nước và cách mạng tiêu biểu nhất trong những năm 20 của thế kỷ XX.

Trong đó, quá trình “chuyển mình” cả về tư tưởng, đảng danh và tổ chức của
HVNCMTN và Tân Việt để hòa mình vào Đảng Cộng sản đã được làm rõ về cơ
bản. Đối với cuốn Việt Nam Quốc dân đảng trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
ngoài đạt được mục đích nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về VNQDĐ trước
năm 1930, trong lần tái bản, tác giả đã bổ sung thêm một chương khảo cứu về hoạt
động của VNQDĐ từ năm 1930 đến năm 1945, trong đó, bước đầu phân tích bước
chuyển hóa tư tưởng của VNQDĐ sau thất bại của khởi nghĩa Yên Bái - vốn là vấn
đề chưa được làm rõ trong các công trình nghiên cứu trước đó.
Mặc dù rất có giá trị, song nếu như chỉ khảo cứu về một đảng phái thì cũng
không thể đem đến cái nhìn toàn diện về quá trình chuyển biến tư tưởng ở Việt
Nam thời cận đại.Quả thật là đến cuối những năm 60, đầu những năm 70 của thế
kỷ XX, không chỉ cách mạng Việt Nam mà chính là nhu cầu phát triển chung của
đất nước, đặc biệt là của chính bản thân các ngành khoa học xã hội và nhân văn,
đòi hỏi phải có một sự trình bày mang tính hệ thống và tổng kết về diễn trình tư
tưởng Việt Nam từ khi Pháp xâm lược tới năm 1945. Đó là nhiệm vụ nan giải và
phức tạp. Trong hướng nghiên cứu này, bộ sách có giá trị hơn cả và rất nổi tiếng
cả ở trong nước và ở nước ngoài chính là công trình gồm ba tập Sự phát triển của
tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám của Trần Văn Giàu
được công bố trong khoảng thời gian 1973-1993. Đây chính là bộ công trình mà
ông dụng công, dụng tâm, dụng trí nhiều hơn cả để hoàn thành. Ngay sau khi hai
tập đầu của công trình được công bố (1973-1975) nó đã được giới khoa học trong
16


nước và quốc tế nhiệt liệt chào đón. David G. Marr, một trong những chuyên gia
lớn nhất về Việt Nam ở phương Tây đã nhận xét về bộ sách như sau: "Trong số
các công trình đã xuất bản bằng mọi thứ tiếng trên thế giới thì đó là bộ sử tốt nhất
về tư tưởng Việt Nam" [166, tr. 449].
Trong những năm gần đây, ngành khoa học chính trị ở Việt Nam tương đối
được quan tâm phát triển. Nhiều vấn đề của lịch sử Việt Nam nói chung, các đảng

phái chính trị ở Việt Nam nói riêng được nghiên cứu gắn liền với những lý thuyết
của khoa học chính trị đang là hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới hiện nay hình thành mấy trung tâm nghiên cứu Việt Nam học.
Đối với đề tài này, có hai trung tâm nghiên cứu lớn là Liên Xô trước đây (Nga hiện
nay) và Âu - Mỹ. Đối với Liên Xô trước đây, có những công trình thông sử về lịch
sử Việt Nam cận đại và hiện đại được xuất bản. Ngoài ra còn một số chuyên khảo
về giai cấp công nhân, giai cấp tư sản, phong trào giải phóng dân tộc v.v… với
những phát hiện khá quan trọng nhiều vấn đề của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, đó
cũng chỉ là những nghiên cứu đại cương về lịch sử Việt Nam nói chung, phong trào
giải phóng dân tộc Việt Nam nói riêng, những công trình chuyên khảo, đặc biệt liên
quan đến đề tài này gần như còn thiếu vắng.
Việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam ở các nước Âu - Mỹ, từ khá sớm đã xuất
hiện những công trình ít nhiều liên quan đến các đảng phái chính trị ở Việt Nam
thời Pháp thuộc. Về cơ bản, các nghiên cứu trên thường tiếp cận các đảng phái
chính trị theo mấy góc độ: lịch sử chính đảng gắn với lịch sử Việt Nam, mà cụ thể
hơn là lịch sử chính trị Việt Nam cận đại; lịch sử tư tưởng Việt Nam và các khảo sát
về các đảng phái cụ thể.
Trước hết, về các công trình nghiên cứu về lịch sử chính trị Việt Nam nói
chung: Trong năm 1952, hai công trình của hai nhà sử học nổi tiếng người Pháp
cùng được xuất bản: cuốn Histoire du Vietnam de 1940-1952 của Phillippe
Devillers và cuốn Vietnam: Socilogie d’une guerre của Paul Mus. Trong khi
Devillers tiếp cận những biến cố của lịch sử Việt Nam dưới góc độ lịch sử chính trị
thì Paul Mus lại tiếp cận dưới góc độ xã hội học. Mặc dù không trực tiếp nghiên cứu
về các đảng chính trị, nhưng giai đoạn hai ông nghiên cứu cũng là thời kỳ các lực
lượng chính trị ở Việt Nam hoạt động mạnh để tranh giành ảnh hưởng nên hai công
trình trên bước đầu cung cấp thông tin với cách nhìn đa chiều của chính những nhà
khoa học người Pháp. Tư duy và cách tiếp cận lịch sử, đặc biệt là lịch sử chính trị
Việt Nam của hai ông có ảnh hưởng tới nhiều nhà sử học thế hệ sau.
17



Năm 1968, Joseph Buttinger cho ra mắt công trình Vietnam: A Political
History nghiên cứu lịch sử chính trị Việt Nam từ truyền thống đến năm 1967 - khi
tác giả hoàn thành bản thảo. Có thể coi đây là bộ sử chính trị Việt Nam công phu
nhất vào thời điểm nó được xuất bản. Trong đó, phần 2 với tựa đề From
Colonialism to Viet Minh (Từ chủ nghĩa thực dân đến Việt Minh) tác giả cố gắng tái
hiện và lý giải đặc điểm chính trị ở Việt Nam thời Pháp thuộc, các phong trào chống
Pháp (bao gồm các đảng phái), sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản và mặt trận Việt
Minh. Tuy nhiên, tác giả quá nhấn mạnh vào yếu tố bên ngoài khi lý giải sự thắng
lợi của Việt Minh và sự thất bại của các chính đảng phi vô sản như mô hình cai trị
của Pháp không tạo điều kiện cho tầng lớp trung lưu, sự kiện chiến tranh thế giới,
Đức chiếm Pháp và tấn công Liên Xô v.v...
Trong thập niên tiếp theo của thế kỷ XX xuất hiện nhiều công trình nghiên
cứu về lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử chính trị thời Pháp thuộc nói riêng của
các tác giả J.Chesneaux, G.Boudarel, Ph.Devillers, Lê Thành Khôi, David Marr,
W.Duiker, Huỳnh Kim Khánh, Hồ Tài Huệ Tâm v.v… Trong số đó, có một số tác
phẩm xứng đáng xếp vào danh sách bắt buộc phải đọc đối với người nghiên cứu chủ
đề này. Về phong trào chống chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam từ thập niên 1920 đến
Cách mạng tháng Tám có cuốn Radicalism and the Origins of the Vietnamese
Revolution của Hồ Tài Huệ Tâm. Đúng như tên gọi của cuốn sách, trong công trình
của mình, tác giả cố gắng đi tìm nguồn gốc của cách mạng Việt Nam thông qua sự
phát triển của chủ nghĩa cấp tiến những năm 1920 và giải thích tại sao nó lại bị thay
thế bởi chủ nghĩa Marx-Lenin trong vai trò lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc.
Tuy thời gian nghiên cứu trong công trình này chỉ gói gọn trong thập niên 1920,
nhưng đó là thập niên có tính chất quyết định (decisive decade) đối với cách mạng
Việt Nam. Nhờ nguồn tư liệu phong phú, từ tài liệu lưu trữ đến hồi ký, hồi ức của
các nhân chứng, cuốn sách cũng đem lại những kiến thức khái quát nhưng không
kém phần sâu sắc về các dòng chảy tư tưởng, chính trị ở Việt Nam từ cuối thế kỷ
XIX đến những năm 1930.Trong chương 6 với tiêu đề “Organizing Revolution”, tác

giả hệ thống một số đảng phái chính trị ở Việt Nam như HVNCMTN, VNQDĐ,
Thanh niên Cao vọng đảng. Hồ Tài Huệ Tâm cũng là tác giả của những công trình
về các phong trào chính trị của giai cấp nông dân gắn liền với các tổ chức tôn giáo
có màu sắc chính trị là Cao Đài, Hòa Hảo, nổi bật nhất là cuốn Millenarianism and
Peasant Politics in Vietnam (xuất bản năm 1983).
18


Cũng theo hướng đề tài này, không thể không kể đến những công trình của
David Marr - được đánh giá là một chuyên gia về lịch sử Việt Nam cận - hiện đại và
một trong những nhà Việt Nam học xuất sắc nhất. Với công trình Vietnamese
Anticolonialism 1885-1925 (1971), David Marr đã tiếp cận cuộc kháng chiến chống
chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam như một sự chuyển giao thế hệ: thế hệ Cần Vương,
thế hệ Phan Bội Châu - Phan Châu Trinh và thế hệ những thanh niên Tây học. Cuộc
chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân, đồng thời cũng là quá trình định hình bản sắc
(identity) Việt Nam. Tiếp nối cuốn Vietnamese Anticolonialism, cuốn Vietnam:
Tradition on Trial 1925-1945 miêu tả và lý giải những biến đổi trong lịch sử Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám. Vào thời điểm cuốn sách ra mắt, cuốn sách được
đánh giá rất cao bởi trước đó, hiểu biết của người phương Tây nói chung, giới học
giả nói riêng về tư tưởng, tình cảm của người Việt trước khi bước vào hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ rất hạn chế. David Marr cho rằng sẽ không
thể lý giải tại sao có Cách mạng tháng Tám và chiến thắng Điện Biên Phủ, và kháng
chiến chống Mỹ nếu không tìm hiểu tận gốc rễ những biến đổi trong cấu trúc xã hội
Việt Nam, đặc biệt là giới trí thức. Cuốn sách là công trình đầu tiên của người nước
ngoài về trí thức Việt Nam trong vòng hơn hai thập kỷ: từ thời điểm lớp trí thức Tây
học trưởng thành đến năm 1945 - trước khi lịch sử Việt Nam bước vào giai đoạn có
những biến đổi có tính cách mạng và xung đột quân sự kéo dài với 8 nội dung
chính: từ sự thiết lập bộ máy cai trị của chủ nghĩa thực dân đến vấn đề đạo đức,
chính trị, tôn giáo, ngôn ngữ, văn học, vấn đề phụ nữ và sức mạnh trí thức. Trên cơ
sở đó, David Marr phủ nhận quan điểm cho rằng thắng lợi của người Việt là do kỹ

thuật tổ chức của Đảng Cộng sản. Mặc dù rất thành công, nhưng hai công trình nói
trên đều tiếp cận lịch sử theo kiểu top-down (nhìn từ trên xuống dưới). Kết quả là
lịch sử đó thường chỉ được trình bày chủ yếu như là lịch sử của các chính đảng, các
tổ chức, các tôn giáo và lãnh tụ. Trong công trình đồ sộ về Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 có tên là Vietnam 1945: The Quest for Power, ông đã dũng cảm thay đổi
toàn bộ phương pháp và cách tiếp cận, cố gắng tái hiện lịch sử một cách chân thực
nhất theo góc nhìn "bottom-up" (nhìn từ dưới lên). Năm chương đầu của cuốn sách
tái hiện tình hình Việt Nam những năm 1940-1945 dưới cách nhìn của tất cả các
nhóm chính trị, phe phái liên quan (người Pháp, người Nhật, Việt Nam gồm cả phía
của tướng De Gaulle lẫn phía đầu hàng Đức và hợp tác với Nhật ở Đông Dương,
Nhật Bản, Việt Nam (Việt Minh và các phe nhóm khác), Trung Quốc, Hoa Kỳ và
Anh). Ba chương sau mô tả tỉ mỉ diễn tiến các sự kiện của cuộc cách mạng tháng
19


Tám và đầu tháng 9/1945. Vì vậy, với công trình này, lần đầu tiên Cách mạng tháng
Tám được trình bày một cách sáng tỏ, thực sự là sự nghiệp của quần chúng. Đây là
điểm thành công nhất của cuốn sách và nó cũng trở thành công trình được đánh giá
cao nhất của David Marr (được trao giải Fairbank Prize năm 1996 giành cho công
trình xuất sắc nhất năm viết về Đông Á). David Marr cũng nhận được giải từ Quỹ
văn hóa Phan Châu Trinh cho hạng mục Việt Nam học năm 2008.
Chia sẻ chung hướng nghiên cứu với David Marr là nhà sử học Na Uy Stein
Tønnesson với công trình nổi tiếng The Vietnamese Revolution of 1945 - Roosevelt,
Ho Chi Minh and de Gaulle in a World at War (1991). Nét đặc sắc thứ nhất của
công trình này là tác giả của nó đã cố gắng khai thác và sử dụng được một khối
lượng tư liệu khổng lồ từ nhiều kho lưu trữ và thu thập được qua phỏng vấn nhiều
nhân chứng lịch sử, trong đó có một số nguồn sử liệu mà trước đó giới nghiên cứu
chưa từng khai thác được như phòng chỉ huy bản đồ của Tổng hành dinh quân đội
Mỹ và của cá nhân Tổng thống Mỹ Roosevelt, hồ sơ tài liệu lưu trữ của cơ quan
tình báo của chính phủ kháng chiến de Gaulle, các tài liệu lưu trữ ở một số nước

Bắc Âu. Nét đặc sắc thứ hai của công trình nằm ở cách tiếp cận, mà tác giả gọi đó là
“tiếp cận vấn đề dưới góc độ của lịch sử quốc tế" (international history). Lần đầu
tiên cuộc Cách mạng Tháng Tám được trình bày sáng rõ như là kết quả của sự tác
động qua lại, nhuần nhuyễn, giữa nhiều yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Trong
công trình này, Tonnesson dành một mục khảo về các đảng và hội kín (parties and
Sects). Tønnesson cũng phân loại các tổ chức này theo hệ tư tưởng của chúng như
thân Nhật (pro-Japanese), thân Pháp (pro-French), thân Trung Quốc (proChinese)…. Mặc dù mỗi tổ chức chính trị chỉ được Stein Tønnesson chấm phá vài
nét cơ bản, song cũng khái quát được tổng thể bức tranh đảng phái chính trị chính
trị Việt Nam cận đại. Tuy nhiên, trên cơ sở phân tích bối cảnh quốc tế cũng như thế
và lực của các lực lượng chính trị trong nước, Stein Tønnesson lại cho rằng Cách
mạng tháng Tám năm 1945 được diễn ra trong một “khoảng trống quyền lực”
(vacuum of power). Do đó, vai trò của Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận
Việt Minh chưa được nhìn nhận xứng đáng.
Như vậy, mặc dù không trực tiếp nghiên cứu về các đảng phái chính trị,
nhưng những nghiên cứu về lịch sử/lịch sử chính trị Việt Nam nói trên của những
nhà nghiên cứu nước ngoài nói trên đã đem lại nhiều nhận thức quan trọng. Nhìn
chung, giới sử học phương Tây rất đề cao vai trò của tầng lớp trí thức trong phong
trào giải phóng dân tộc Việt Nam. Khi xem xét nguồn gốc của phong trào dân tộc
20


×