Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.79 KB, 120 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................................. 1
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 2
Chương 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG BA
THỨ QUÂN TRONG NHỮNG NĂM 1945 – 1950 .............................................. 10
1.1.Quan điểm của Đảng ta về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ........... 10
1.2.Chủ trương của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong
những năm 1945 - 1950 ...................................................................................... 19
1.3.Lãnh đạo xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích
trong những năm 1945 - 1950 ............................................................................. 33
Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................... 49
Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG VŨ TRANG BA
THỨ QUÂN TRONG NHỮNG NĂM 1951 – 1954 .............................................. 51
2.1.Chủ trương của Đảng về phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân trong
những năm 1951 - 1954 ...................................................................................... 51
2.2.Lãnh đạo phát triển bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích
trong những năm 1951 - 1954 ............................................................................. 72
Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................... 83
Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ...................... 85
3.1 Một số nhận xét ............................................................................................. 85
3.1.1 Chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân của Đảng trong
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) là đúng đắn, sáng tạo ...... 85
3.1.2 Lực lượng vũ trang ba thứ quân luôn phối hợp tác chiến nhịp nhàng,
hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp .. 88
3.2 Bài học kinh nghiệm ..................................................................................... 91
3.2.1 Xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân từ thấp đến cao, coi trọng
chất lượng là chính.......................................................................................... 91
3.2.2 Đảng luôn giữ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện đối với
lực lượng vũ trang ........................................................................................... 98
3.2.3 Đảng ta luôn dựa chắc vào dân, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của
quốc tế để xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang ...................................... 102


Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................. 107
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 112

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) là cuộc
chiến tranh nhân dân Việt Nam lần đầu tiên do Đảng ta tổ chức và lãnh đạo, diễn ra
ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, khi nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà vừa tuyên bố độc lập (2.9.1945), trong bối cảnh, tình hình trong
nước và quốc tế có nhiều thuận lợi song còn nhiều khó khăn, phức tạp. Cùng một
lúc chúng ta vừa phải khắc phục những hậu quả của chế độ thực dân phong kiến để
lại, vừa phải đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược - một đế quốc tư bản
phương Tây, có đội quân xâm lược nhà nghề, được trang bị vũ khí tối tân, hiện đại
hơn ta gấp nhiều lần.
Trước tình hình ấy, bên cạnh những nhiệm vụ quan trọng khác thì việc xây
dựng lực lượng vũ trang vững mạnh là một nhiệm vụ trọng yếu. Nhận thấy lực
lượng vũ trang cách mạng lúc này còn non trẻ, trang bị kém, thiếu thốn mọi bề,
kinh nghiệm chiến đấu còn ít, Đảng ta đã có những chủ trương, biện pháp cụ thể để
xây dựng lực lượng vũ trang. Đảng xác định cần phải biết cách đưa đông đảo quần
chúng tham gia vào những hoạt động cách mạng thực tiễn. Thấm nhuần quan điểm
về chiến tranh và cách mạng, xây dựng quân đội kiểu mới của chủ nghĩa Mác Lênin, đồng thời vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam; chính trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954), trên cơ sở động viên và tổ
chức toàn dân kháng chiến, Đảng ta đã từng bước xây dựng lực lượng vũ trang với
tổ chức và quy mô ngày càng thích hợp, đó chính là hình thức tổ chức lực lượng vũ
trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng
cốt cho toàn dân đánh giặc.

Bộ đội chủ lực là bộ phận quan trọng nhất của quân đội thường trực, là lực
lượng cơ động nòng cốt hoàn thành các nhiệm vụ chiến lược trên chiến trường.
Nhiệm vụ cơ bản của bộ đội chủ lực là tiến hành những trận đánh tiêu diệt lớn lực
lượng chiến lược của quân địch bằng tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng, tác
chiến hiện đại, bảo vệ nhiều vùng lãnh thổ quan trọng…đồng thời dìu dắt bộ đội
địa phương và dân quân du kích, lực lượng chính trị của quần chúng, thực hiện
2


những đòn đánh quyết định trên các hướng chiến lược chủ yếu, chiến trường chủ
yếu, làm biến chuyển so sánh lực lượng và cục diện chiến tranh có lợi cho ta để
tiến tới giành thắng lợi toàn cục của cuộc kháng chiến.
Bộ đội địa phương, bộ phận của quân đội thường trực ở tại địa phương, là
lực lượng tập trung, cơ động của địa phương, được xây dựng thích hợp với nhiệm
vụ của từng khu, tỉnh (thành phố), huyện (thị xã), theo điều kiện thực tế của chiến
trường mà tổ chức thành những đơn vị mạnh, có chất lượng cao, có những binh
chủng cần thiết, có khả năng tác chiến tập trung với quy mô nhất định trên từng địa
phương cụ thể.
Nhiệm vụ chủ yếu của bộ đội địa phương là tác chiến tiêu diệt sinh lực địch
và phương tiện chiến tranh của địch, làm nòng cốt để phát động chiến tranh nhân
dân, chiến tranh du kích ở địa phương giúp quần chúng đấu tranh chính trị và nổi
dậy; dìu dắt dân quân du kích trong chiến đấu và xây dựng, phối hợp tác chiến với
dân quân du kích, chủ động tiến công tiêu diệt, tiêu hao quân địch. Cụ thể, bộ đội
địa phương: phải phụ trách đánh những trận vừa và phải chuẩn bị chiến trường sẵn
sàng khi Vệ quốc quân đánh trận to ở địa phương mình; đồng thời phải phối hợp
với bộ đội chủ lực trong các chiến dịch, các đợt hoạt động chiến lược, là lực lượng
để bổ sung và phát triển bộ đội chủ lực. Bộ đội địa phương là một lực lượng nòng
cốt bảo vệ tổ chức đảng, chính quyền địa phương, tính mạng tài sản của nhân dân,
trật tự trị an, sản xuất ở địa phương; gương mẫu chấp hành và vận động quần
chúng chấp hành chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Dân quân du kích là lực lượng đông đảo được vũ trang và có tổ chức ở cơ
sở, không thoát ly sản xuất. Đó là lực lượng bám đất, bám dân, vừa đánh giặc vừa
lao động sản xuất, vừa là quân vừa là dân. Đây là lực lượng hùng hậu để bổ sung
cho bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương.
Tổ chức ba thứ quân là một hình thức tổ chức thích hợp với yêu cầu của
phương pháp cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân và nghệ
thuật quân sự Việt Nam. Với cách tổ chức lực lượng vũ trang đó, ta đã đẩy mạnh
chiến tranh du kích, phát triển chiến tranh chính quy, kết hợp giữa chiến tranh du
kích và chiến tranh chính quy một cách nhuần nhuyễn. Tổ chức lực lượng vũ trang
3


ba thứ quân của Đảng trong kháng chiến chống Pháp không những phù hợp với
quy luật chiến tranh giải phóng mà còn phù hợp với cả quy luật chiến tranh bảo vệ
tổ quốc ở nước ta. Việc hoàn thiện về cơ cấu tổ chức của lực lượng vũ trang ba thứ
quân là nhân tố đảm bảo cho lực lượng vũ trang không ngừng lớn mạnh về mọi
mặt, phát huy đầy đủ vai trò của nó. Chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy
của Việt Nam chỉ có thể tiến hành hiệu quả trên cơ sở sự trưởng thành và lớn mạnh
của lực lượng vũ trang ba thứ quân. Việc xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân
thời kỳ này được tiến hành theo quy trình của cuộc chiến tranh, căn cứ vào tình
hình của cả nước, tình hình cụ thể của từng địa phương, từng chiến trường. Sự hỗ
trợ giữa ba thứ quân trong chiến đấu chính là hình thức phối hợp giữa lực lượng tại
chỗ và lực lượng cơ động và quá trình thực hành tác chiến du kích và chính quy, là
một nhân tố to lớn làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (1945 – 1954).
Ngày nay, với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
điều kiện sự nghiệp đổi mới đã giành được những thành tựu to lớn, đất nước bước
sang thời kỳ Công nghiệp hoá - hiện đại hoá và hội nhập kinh tế thế giới. Bên cạnh
những thuận lợi, chúng ta cũng luôn phải đối mặt với những âm mưu phá hoại của
các thế lực thù địch, nhằm chống phá cách mạng Việt Nam, phá hoại sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chính vì thế, nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ
trang vẫn luôn luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chú trọng phát triển.
Những kinh nghiệm về xây dựng lực lượng vũ trang nói chung và kinh nghiệm xây
dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong kháng chiến chống Pháp nói riêng vẫn
được ứng dụng và phát triển để xây dựng một lực lượng vũ trang ngày càng vững
mạnh hơn, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới.
Trên những ý nghĩa đó, chúng tôi quyết định chọn vấn đề : “Đảng lãnh đạo
xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong thời kỳ kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954)” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

4


Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) là một vấn đề thu hút sự quan tâm của
nhiều cơ quan, tổ chức Đảng, Nhà nước, chính quyền, Bộ Quốc phòng, v.v, và là
đề tài được nhiều nhà quân sự, chính trị, khoa học quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu
theo nhiều góc độ khác nhau.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Đảng ta thường
xuyên quan tâm tới việc tổ chức, lãnh đạo lực lượng vũ trang. Các vấn đề thuộc về
chủ trương, đường lối xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân được thể hiện
trong các văn kiện, nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng, Ban
Thường vụ, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 (2.1951),v.v, được công
bố trong Văn kiện Đảng toàn tập, từ tập 8 đến tập 15, Nxb Chính trị quốc gia xuất
bản năm 2000 và 2001. Bên cạnh đó, các vấn đề nói trên, còn được thể hiện trong
nhiều bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các vị tướng lĩnh Quân đội nhân dân
Việt Nam, v.v. Đáng kể là các tác phẩm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp như:
Những kinh nghiệm lớn của Đảng ta về lãnh đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng

lực lượng vũ trang cách mạng, Nxb Sự Thật, 1961; Mấy vấn đề về đường lối quân
sự của Đảng ta, Nxb Sự Thật, 1970; Dân quân tự vệ một lực lượng chiến lược,
Nxb Sự Thật, 1974; v.v.
Những vấn đề cụ thể về xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân
quân du kích và hoạt động của các lực lượng này, được thể hiện nhiều trong các
công trình nghiên, tác phẩm lịch sử của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, của các
Quân khu, quân đoàn, quân binh chủng và các địa phương. Tiêu biểu là: Lịch sử
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 -1954 (Tập 1 và 2, của Viện Lịch sử
Quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, 1994); Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam,Tập
1 của Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Nxb QĐND,
1974; Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam 1944 – 1975, của Viện Lịch sử Quân
sự Việt Nam, Nxb QĐND, 2005; Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
- Thắng lợi và bài học, của Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính
trị, Nxb Chính trị quốc gia, 1996; Cục Dân quân tự vệ 50 năm xây dựng, chiến đấu
và trưởng thành 1947 – 1997, Nxb QĐND, 1997, v.v.
5


Có khá nhiều các bài viết đề cập một cách trực tiếp tới vấn đề xây dựng lực
lượng vũ trang ba thứ quân trong kháng chiến chống Pháp. Tiêu biểu như: Về lực
lượng vũ trang ba thứ quân thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) của
Trần Văn Thức in trong cuốn “55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam - Miền đất
khai sinh và quá trình phát triển”, Nxb QĐND, 1999; Những quan điểm đầu tiên
của Đảng chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam của Trịnh
Vương Hồng in trong sách “Quân đội nhân dân Việt Nam với sự nghiệp đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Nxb QĐND, 2004; các bài Tổ chức xây dựng và sử
dụng các đại đoàn chủ lực trong chiến dịch Điện Biên Phủ trong sách “Quân và
dân Tây Bắc với chiến thắng Điện Biên Phủ”, Nxb QĐND, 1999; Vai trò của bộ
đội chủ lực trong chiến dịch Điện Biên Phủ trong sách “Chiến thắng Điện Biên
Phủ, mốc vàng lịch sử chân lý thời đại”, Nxb QĐND, 2004; Bộ TổngTtham mưu

với quá trình tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân (1945 – 1975)
trong sách “Bộ Tổng tham mưu – 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành”,
Nxb QĐND, 2005; Dân quân tự vệ và du kích là bức tường sắt của Tổ quốc trong
sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước và giữ nước”, Nxb QĐND, 2000, của
cùng môt tác giả Dương Đình Lập; Qúa trình xây dựng và phát triển lực lượng vũ
trang ba thứ quân trong kháng chiến chống Pháp của Vũ Tang Bồng (Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, 11.1996), v.v.
Nội dung các bài viết khẳng định trong kháng chiến chống Pháp, quá trình
xây dựng, phát triển của lực lượng vũ trang ba thứ quân gắn bó chặt chẽ với bước
đi lên của cuộc kháng chiến và đây chính là một trong những nhân tố có ý nghĩa
quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng thời nhấn
mạnh việc tổ chức lực lượng vũ trang ba thứ quân là hình thức tổ chức thích hợp
với yêu cầu và phương pháp cách mạng, phương thức tiến hành chiến tranh và
nghệ thuật quân sự Việt Nam; khái quát sơ lược sự phát triển của dân quân du kích,
bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực trong kháng chiến chống Pháp. Khẳng định
việc từng bước xây dựng, phát triển ba thứ quân, đưa chiến tranh du kích tiến dần
lên vận động chiến là một quá trình vận dụng sáng tạo nguyên tắc vừa chiến đấu
vừa xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng. Khẳng định việc xây dựng
6


từng thứ quân phải phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và cách đánh trong từng giai
đoạn kháng chiến, v.v.
Năm 2007, Lê Huy Bình (Học viện Chính trị quân sự) bảo vệ thành công
Luận án tiến sĩ với đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang
ba thứ quân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 1954)”. Với đề tài này, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu là tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược. Mục đích nhằm khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và sự vận dụng tư tưởng của Người trong xây dựng lực lượng vũ trang

trong thời đại mới.
Điểm lại tình hình nghiên cứu, chúng tôi thấy, cho tới nay chưa có một công
trình lớn nào tiến hành nghiên cứu một cách hệ thống, chi tiết về những chủ
trương, chính sách; quá trình xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân
trong kháng chiến chống Pháp.
Tuy nhiên, thành quả nghiên cứu của các công trình, bài viết kể trên rất bổ
ích, đó không chỉ là nguồn tư liệu quý báu, mà còn là những gọi mở cho chúng tôi
trong quá trình thực hiện bản luận văn này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: trên phạm vi cả nước
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 1945 đến năm 1954
- Đối tượng nghiên cứu: Những chủ trương, chính sách của Đảng nhằm xây
dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945
-1954). Quá trình xây dựng và phát triển của lực lượng vũ trang ba thứ quân,
những thành quả đạt được. Luận văn không đi sâu vào tình hình diễn biến chiến sự,
mà tập trung vào từng cơ cấu tổ chức của mỗi lực lượng (bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân du kích) để thấy được nét riêng trong việc xây dựng mỗi thứ
quân; cũng qua đó thấy được mối quan hệ giữa ba thứ quân trong xây dựng, tổ
chức lực lượng và cùng nhau chiến đấu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
7


- Hệ thống hoá và trình bày những chủ trương, đường lối cơ bản của Đảng
về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong kháng chiến chống Pháp (1945 –
1954).
- Hệ thống hoá và trình bày quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ
trang ba thứ quân theo những chủ trương trên và những hoạt động có tính tiêu biểu
của lực lượng vũ trang ba thứ quân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1945 - 1954).

5. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ chủ trương, đường lối, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
lực lượng vũ trang ba thứ quân của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1945 - 1954).
- Làm sáng tỏ quá trình hình thành, phát triển của lực lượng vũ trang ba thứ
quân trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954).
- Rút ra một số bài học kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng
lực lượng vũ trang ba thứ quân.
6. Phương pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận
- Phương pháp nghiên cứu: sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp lịch sử, phương pháp mô tả, phương pháp thống kê, phương pháp
logic và phương pháp tổng hợp.
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lê nin, quan điểm và đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về
chiến tranh cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
- Nguồn tư liệu chủ yếu mà tác giả sử dụng để thực hiện luận văn bao gồm:
Văn kiện Đảng toàn tập (chủ yếu là các tập từ tập 7 đến tập 15), Văn kiện Đảng
trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh toàn tập, cùng nhiều tác
phẩm có nội dung liên quan tới vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
7. Đóng góp của luận văn
- Góp phần khẳng định đường lối xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân
của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp là hoàn toàn đúng đắn;

8


- Góp phần làm sáng tỏ thêm quá trình hình thành và phát triển của bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích trong cuộc kháng chiến chống Pháp
(1945 - 1954);
- Tập hợp, hệ thống hóa các tư liệu có liên quan tới đề tài từ những nguồn

khác nhau.
8. Bố cục của luận văn
Bố cục của luận văn, ngoài Mở đầu, Kết luận, bao gồm các chương nội dung
như sau:
Chương 1: Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trong
những năm 1945 – 1950
Chương 2: Đảng lãnh đạo phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân trong
những năm 1951 – 1954
Chương 3: Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm

9


Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
BA THỨ QUÂN TRONG NHỮNG NĂM 1945 – 1950
1.1.Quan điểm của Đảng ta về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng
Từ khi ra đời Đảng ta đã sớm nhận thấy vai trò, sức mạnh của lực lượng vũ
trang trong sự nghiệp cách mạng. Cụ thể, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng
(2.1930), đã xác định phương thức cách mạng đúng đắn và duy nhất để nhân dân ta
có thể đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp đó là con đường kiên quyết dùng
bạo lực cách mạng, phát động quần chúng đấu tranh giai cấp, lãnh đạo quần chúng
đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền về tay công nông, xây dựng chế độ xã hội mới. Chỉ có dùng bạo lực cách
mạng mới chống lại được bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.
Trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế – xã hội của Việt Nam lúc bấy giờ,
Cương lĩnh đã nêu lên các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng trên các phương diện
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…trong đó có nhiệm vụ vô cùng quan trọng là:
“Đánh đổ bọn đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam

được hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội
công nông”[ 36, tr.2]. Như vậy, Đảng ta đã sớm nhận thức một cách sâu sắc tư
tưởng cách mạng bạo lực – nền móng của toàn bộ học thuyết Mác – Lênin và sớm
nêu ra trong các văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiền của Đảng.
Tháng 10 năm 1930, Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương Đảng họp và
thông qua Luận cương chính trị của Đảng cộng sản Đông Dương. Bản Luận
cương này cũng xác định phải thành lập quân đội công nông để tiến hành đấu tranh
vũ trang, phải tổ chức và khuếch trương hết cả các cách tranh đấu của quần chúng
như bãi công, thị oai, tổng bãi công bạo động… Luận cương xác định: “Võ trang
bạo động không phải là một việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp
cách mạng mà lại phải theo khuôn phép nhà binh, cho nên cần phải chú ý. Trong
10


khi không có tình thế trực tiếp cách mạng cũng cứ kịch liệt tranh đấu, nhưng kịch
liệt tranh đấu ấy không phải là để tổ chức những cuộc manh động, hoặc võ trang
bạo động quá sớm mà cốt là để suý động đại quần chúng ra thị oai, biểu tình, bãi
công, v.v.để dự bị họ về cuộc võ trang bạo động sau này”[36, tr.102].
Như vậy, những quan điểm về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng đã
hình thành ngay từ khi Đảng mới ra đời. Đảng nhận thức rõ bạo lực là phương thức
cơ bản để giành chính quyền và đạt được mục đích của cách mạng. Lực lượng vũ
trang khi được thành lập phải là quân đội công nông cách mạng dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của Đảng.
Tuy nhiên, việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng còn phải phụ thuộc
vào tình thế cách mạng mà tiến hành. Cuối 1930, trong Báo cáo về những Nghị
quyết của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương gửi Quốc tế Cộng sản, mặc dù
Nguyễn Ái Quốc đã hoan nghênh chính quyền Xô Viết và coi đó là sáng kiến lớn
của quần chúng cách mạng ở Nghệ An – Hà Tĩnh, nhưng không tán thành chủ
trương bạo động vì chưa có điều kiện thắng lợi của một cuộc khởi nghĩa. Riêng về
vấn đề đội tự vệ, Người khẳng định:

- “Tổ chức tự vệ của nông dân rất quan trọng trong các cuộc đấu tranh ở
thôn xã. Nông hội phải tuyên truyền giải thích trong quần chúng ý nghĩa việc thành
lập một đội tự vệ để bảo vệ và kêu gọi quần chúng tham gia”[87, tr.567]. Do vậy,
cần phải nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của đội tự vệ.
- Việc tổ chức đội tự vệ phải đi đôi với việc phát triển, huấn luyện để đội tự
vệ có thể hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng được giao.
- Hoạt động của đội tự vệ là nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị do Đảng
xác định. Chính vì thế, cần phải giải thích cho nông dân hiểu rõ lực lượng và vai
trò của mình, tránh khuynh hướng hành động cá nhân và xu hướng khủng bố trái
với Cương lĩnh.
Đến tháng 3.1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao
cũng đã thảo luận và thông qua Nghị quyết về đội tự vệ (28.3.1935) nêu rõ mục
đích tổ chức tự vệ nhằm: ủng hộ quần chúng hàng ngày, ủng hộ quần chúng trong
11


các cuộc tranh đấu, ủng hộ các cơ quan và chiến sĩ cách mạng, huấn luyện quân sự
cho quần chúng; chống quân thù giai cấp tấn công và làm cho vận động cách mạng
phát triển thắng lợi…Tự vệ đội càng mạnh thì sau này càng có điều kiện để tổ chức
du kích, Hồng quân.
Nghị quyết này còn nêu rõ nguyên tắc cơ bản để xây dựng đội tự vệ:
- Phải là một tổ chức có tính chất bán quân sự của quần chúng lao động, chủ
yếu là công nông, do Đảng cộng sản tổ chức lãnh đạo.
- Thành phần là những phần tử nhiệt thành, bao gồm cả gái và trai, không
phân biệt dân tộc, từ 18 tuổi trở lên.
Ngoài ra, Nghị quyết cũng xác định những vấn đề cơ bản về tổ chức, biên
chế, trang bị, huấn luyện cho đội tự vệ, trong đó cũng nhấn mạnh nhiệm vụ huấn
luyện quân sự là rất quan trọng.
Tới năm 1939, khi cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ và chỉ sau một
thời gian ngắn, nước Pháp đã bị phát xít Đức chiếm đóng. Đảng cộng sản Đông

Dương nhận định đây là thời cơ cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Trong
thời gian này, ở Đông Dương, cách mạng phải đương đầu với bọn phản động thuộc
địa gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân ta với thực dân Pháp nói chung
và bọn phản động thuộc địa nói riêng ngày càng lớn. Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ 6 (11.1939) quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng. Hội
nghị khẳng định không có con đường nào khác con đường đánh đổ đế quốc Pháp,
chống tất cả các ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải
phóng dân tộc. Tư tưởng đó khẳng định lúc này nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã
được đặt lên hàng đầu.
Dưới ánh sáng của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6, phong trào đấu
tranh của quần chúng ngày càng phát triển mạnh. Tháng 9.1940, quân Nhật đã
vượt biên giới Việt – Trung và tấn công vào Lạng Sơn. Ngay sau khi Nhật vào
Lạng Sơn, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương thì nhân dân châu Bắc Sơn đã
khởi nghĩa xoá bỏ chính quyền đế quốc và lập ra Đội du kích Bắc Sơn.
12


Tiếp theo đó, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 (11.1940) sau khi nghe
báo cáo về khởi nghĩa Bắc Sơn đã quyết định tiếp tục duy trì lực lượng vũ trang,
phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập căn cứ du kích. Hội nghị đã nhận
định rằng lúc này ở Nam Kỳ nói riêng và trong cả nước nói chung điều kiện khởi
nghĩa đều chưa có đủ. Đặc biệt, Nguyễn Ái Quốc sau khi nhận được tin về cuộc
khởi nghĩa Nam Kỳ sắp nổ ra đã gửi bức điện chỉ thị cho Xứ uỷ Nam Kỳ hoãn
cuộc khởi nghĩa. Song vì bức điện không đến kịp nên cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn
diễn ra và sau cuộc khởi nghĩa này thì các đội du kích được tổ chức thành Quân du
kích Nam Kỳ.
Sau khi tràn vào Đông Dương, ngày 22.9.1940, Nhật buộc Pháp ký một hiệp
ước cho mượn con đường xe lửa từ Lạng Sơn qua Hà Nội xuống Hải Phòng để
chuyên chở lương thực, thuốc men, vũ khí... và binh lính ra Thái Bình Dương; cho
Nhật sử dụng 3 sân bay lớn ở Bắc Kỳ, cho Nhật được đóng 6.000 quân ở phía Bắc

sông Hồng. Tháng 7.1941, Nhật lại buộc Pháp ký hiệp ước “Cam kết phòng thủ
chung Đông Dương với Nhật”, trên thực tế thì Nhật đã chỉ huy Pháp về mặt quân
sự. Tháng 11.1941, Nhật buộc Pháp ký tiếp hiệp ước “Cam kết hợp tác với Nhật về
toàn diện”. Về cơ bản phát xít Nhật đã làm chủ Đông Dương khiến cho mâu thuẫn
Nhật – Pháp ngày một tăng. Nhật sử dụng Pháp như một công cụ chống nhân dân
ta và chuẩn bị lật đổ thực dân Pháp để độc chiếm Đông Dương. Bề ngoài Pháp tỏ
ra phục tùng Nhật, nhưng bên trong vẫn ngấm ngầm chuẩn bị chống lại, cụ thể là
chờ khi quân Đồng Minh đổ bộ vào Đông Dương sẽ nổi dậy tấn công Nhật từ phía
sau lưng. Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8(5.1941)
khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân
tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm
cũng không đòi lại được”[37, tr.113]. Đặc biệt, Hội nghị chỉ rõ: “Cuộc cách mạng
Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”[37, tr.129]. Hội
nghị chủ trương mở rộng và củng cố các tổ chức cứu quốc ở nông thôn, rừng núi;
thành lập những đội tự vệ cứu quốc và những tiểu tổ du kích chính thức làm lực

13


lượng xung kích trong các cuộc khởi nghĩa ở địa phương và trong tổng khởi nghĩa
toàn quốc.
Cũng trong Hội nghị Trung ương lần thứ 8, Đảng ta đã thông qua Điều lệ
của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc, với các nội dung chính yếu:
- Xác định đây là tổ chức cao hơn tự vệ nhưng thấp hơn du kích chính thức.
Mục đích xây dựng Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc là nhằm giải vây cho các
chiến sĩ, giữ gìn các cơ quan cách mạng, giúp đỡ đội du kích chính thức trong lúc
hành quân và chiến đấu với kẻ thù, phá các cơ quan vận tải lương thực của kẻ
thù…Tương lai của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc là sẽ biến chuyển theo
chiều hướng đi lên thành đội du kích chính thức để đánh đổ ách thống trị của đế

quốc Pháp và phát xít Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho ta.
- Về phương pháp tổ chức: từ 3 đến 7 hội viên thì tổ chức thành một tiểu đội
du kích cứu quốc, có một đội trưởng chỉ huy; từ 2 tiểu tổ du kích trở lên thì thì tổ
chức thành liên tiểu tổ, có một liên đội trưởng và một liên đội phó, một uỷ viên
chính trị chỉ huy. Những người của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc thực sự
không phải là những người thoát ly sản xuất và tiểu tổ du kích chịu dưới quyền chỉ
huy của đoàn thể cứu quốc và Việt Minh tổ chức ra nó.
- Điều kiện vào Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc: những ai trong hội cứu
quốc của Việt Minh, có sức khoẻ và hăng hái, thừa nhận Điều lệ của Đội thì được
gia nhập vào Đội.
- Nhiệm vụ của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc: ra sức bảo vệ các cơ
quan và chiến sĩ cách mạng. Khi tình thế thuận lợi, có thể phát động du kích chiến
tranh để đánh đuổi đế quốc Pháp và phát xít Nhật thì biến chuyển thành đội du kích
chính thức để hành động.
- Các đội viên phải trải qua chương trình huấn luyện: cách tập trung, giải
tán, đánh tráo, giải vây, dùng hiệu lệnh; tập võ, tập đánh phá các cơ sở của địch…
- Trang bị: các đội viên tự sắm lấy khí giới cần thiết.

14


Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8, Trung ương Đảng đã quyết định đổi tên
Đội du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí
Hoàng Quốc Việt, tháng 9.1941, trung đội Cứu quốc quân thứ 2 cũng đã được
thành lập. Đặc biệt, tháng 10.1941, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã giao cho
Lê Thiết Hùng, Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm (những người trước đây đã được cử đi
học tại Trường Quân sự Hoàng Phố) mở lớp huấn luyện quân sự cho các đội tự vệ
chiến đấu, nhằm chuẩn bị điều kiện để thành lập đội du kích chính thức. Đồng thời,
Người cũng đã giao nhiệm vụ cho Lê Quảng Ba và Lê Thiết Hùng vạch kế hoạh tổ
chức đội du kích chính thức, sau đó Người đã bổ sung một số điểm và quyết định

thông qua kế hoạch tổ chức đội du kích tập trung với tên gọi “Đội du kích”. Đội du
kích có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan, bảo vệ cán bộ; vũ trang tuyên truyền; giao thông
liên lạc đặc biệt; nhiệm vụ quân sự; làm nòng cốt cho xây dựng lực lượng du kích
và tự vệ chiến đấu. Ban chỉ huy gồm có: Lê Thiết Hùng, Lê Quảng Ba và Trần Văn
Kỳ (Hoàng Sâm).
Tháng 11 năm 1941, Đội du kích Cao Bằng được thành lập. Trong thời gian
đầu huấn luyện, đội đã được Nguyễn Ái Quốc giảng dạy sinh động về cách đánh
du kích. Người khẳng định vấn đề quan trọng của chiến thuật du kích là phải biết
rõ địch. Sau khi được huấn luyện và đi vào hoạt động, đội du kích Cao Bằng đã
thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao: khống chế được thổ phỉ, bảo vệ an toàn tính
mạng và tài sản của nhân dân, bảo vệ cơ sở cách mạng, phân hoá được một bộ
phận lực lượng địch…Đồng thời, thông qua hoạt động vũ trang tuyên truyền, đội
du kích Cao Bằng đã làm nòng cốt cho việc xây dựng các đội vũ trang ở châu, tổng
và các đội tự vệ chiến đấu cấp xã ở một số huyện.
Không chỉ chú trọng xây dựng các đội du kích, Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta
cũng sớm nhận rõ vai trò của bộ đội chủ lực. Năm 1944, khi các điều kiện để xây
dựng bộ đội chủ lực đã xuất hiện. Đầu tháng 12 năm 1944, Người đã giao cho Võ
Nguyên Giáp đảm nhiệm công việc chuẩn bị thành lập đội quân chủ lực đầu tiên.
Với kế hoạch ấy, ngày 22.12.1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã
chính thức được thành lập:
15


Với tên gọi Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thì: Về quân sự,
nguyên tắc của đội là phải tập trung lực lượng bằng cách chọn lọc trong hàng ngũ
những du kích Cao – Bắc – Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất,
tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực. Đồng thời, trong khi tập trung
lực lượng để lập một đội quân đầu tiên cũng cần phải duy trì lực lượng vũ trang
trong các địa phương cùng phối hợp hành động. Đội quân chủ lực có nhiệm vụ dìu
dắt cán bộ vũ trang của địa phương giúp đỡ huấn luyện và vũ khí cho các đội vũ

trang địa phương ngày càng trưởng thành lên.Về chiến thuật: vận dụng lối đánh du
kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay đông mai tây, lai vô ảnh, khứ vô tung.
Đảng cũng xác định, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân lúc đầu
tuy còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó là vẻ vang, là khởi điểm của giải phóng quân, có
thể đi suốt mọi miền Tổ quốc.
Qua bản chỉ thị, chúng ta thấy Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
là đội quân chủ lực có tính chất cơ động toàn quốc chứ không phải hoạt động tại
chỗ như các lực lượng vũ trang địa phương. Với việc thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân, hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang bao gồm 3 thứ
quân đã bước đầu được hình thành, dần đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến
toàn dân.
Để tiến tới thành lập đội quân chủ lực đầu tiên, Đảng ta – đứng đầu là chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đề cập, giải quyết một loạt các vấn đề trong tư tưởng, lý luận
như động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng chủ lực, đồng thời
duy trì và phát triển lực lượng vũ trang ở các địa phương; khẳng định bản chất cách
mạng và nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, xác định nguyên tắc xây dựng, nguyên
tắc hoạt động, nghệ thuật quân sự, địa bàn đứng chân và tiền đồ phát triển.
Quan điểm và đường lối xây dựng lực lượng vũ trang Đảng ta trong thời kỳ
1930 – 1945 đã đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản, trở thành nền tảng lý luận để vũ
trang toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang, với nòng cốt là lực lượng chủ lực
vững mạnh trong thực tiễn, đáp ứng nhu cầu của cuộc khởi nghĩa vũ trang giành

16


chính quyền cách mạng và tiến lên hoàn thành các nhiệm vụ ở các giai đoạn sau
đó.
Cuối năm 1944 - đầu năm 1945, khi sự chuẩn bị lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang để tiến hành một cuộc khởi nghĩa đã đạt được những kết quả lớn.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng chính trị thì lực lượng vũ trang

cũng ngày càng lớn mạnh. Đặc biệt là sang đầu năm 1945, tình hình ở Đông
Dương đã có những biến chuyển nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi cho cách
mạng nước ta tiến lên giành thắng lợi.
Ngày 9.3.1945, Nhật tiến hành đảo chính Pháp, xác lập quyền thống trị của
Nhật trên toàn cõi Đông Dương. Trước tình hình đó, ngày 12.3.1945, Ban Thường
vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta, xác định kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt của chúng ta bây giờ chính là
phát xít Nhật. Bản chỉ thị đã đề ra nhiệm vụ quân sự là phải “tổ chức thêm nhiều bộ
đội du kích và tiểu tổ du kích”.
Tiếp sau đó, trong tháng 4 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã
tiến hành triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ và Nghị quyết hội nghị
quân sự cách mạng Bắc Kỳ đã được thông qua. Nghị quyết của hội nghị đã chủ
trương thống nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân thành
Việt Nam giải phóng quân. Căn cứ theo nhu cầu điều kiện cán bộ, vũ khí, đạn
dược, lương thực, Ủy ban quân sự cách mạng sẽ lập tức chỉnh đốn Giải phóng
quân thành một bộ đội mạnh mẽ. Ngoài ra, Nghị quyết của hội nghị quân sự cách
mạng Bắc Kỳ cũng xác định một số vấn đề sau:
- Cần phải củng cố bộ đội, lựa chọn đội viên huấn luyện chính trị, quân sự
thống nhất; kiến lập công tác chính trị trong bộ đội; trau dồi kỷ luật; chống khuynh
hướng thổ phỉ hoá và chủ nghĩa địa phương.
- Phát triển bộ đội giải phóng: Phải tổ chức ngay những đội tự vệ thường, tự
vệ chiến đấu và bộ đội địa phương.
- Thống nhất chỉ huy quân sự: Uỷ ban quân sự cách mạng chỉ huy toàn xứ.
Các người chỉ huy cấp dưới do cấp trên trực tiếp đề nghị hoặc chỉ định, Uỷ ban
17


quân sự cách mạng chuẩn y. Trong mỗi chiến khu có một Bộ tư lệnh, một hay
nhiều chính trị uỷ viên hoặc đại biểu hay phái viên của Uỷ ban quân sự cách mạng.
- Công tác kiểm điểm phân phối võ khí do Uỷ ban quân sự cách mạng quyết

định; cần tích trữ lương thực cho đầy đủ.
Tháng 8.1945, khi cuộc khủng hoảng kinh tế - chính trị - xã hội ở Đông
Dương đã chín muồi, phong trào đấu tranh du kích ở các chiến khu và phong trào
đấu tranh chính trị của quần chúng ở nông thôn và thành thị kết hợp chặt chẽ với
nhau tạo nên một không khí cách mạng sôi sục trong cả nước. Ngày 3.8.1945, đạo
quân Quan Đông của Nhật đã bị tiêu diệt, Nhật hoàng phải ký giấy đầu hàng vô
điều kiện Liên Xô và quân Đồng Minh. Ở Đông Dương quân đội Nhật bị tê liệt,
chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật nặn ra thì hoang mang cực độ.
Trước tình hình đó, ngày 13.8.1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại
Tân Trào đã quyết định tổng khởi nghĩa trong cả nước với nguyên tắc: tập trung,
thống nhất, kịp thời. Hội nghị đã thành lập Uỷ ban khởi nghĩa và ra Quân lệnh số
1, kêu gọi toàn dân khởi nghĩa, đồng thời đề ra những biện pháp nhằm đảo bảo cho
tổng khởi nghĩa thắng lợi. Tiếp theo đó, từ ngày 16 đến 17.8.1945, Đại hội quốc
dân cũng đã họp tại Tân Trào, tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng cộng
sản Đông Dương, thông qua lệnh tổng khởi nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang cách mạng của ta tuy còn
non trẻ nhưng đã cùng với quần chúng đông đảo tạo nên thắng lợi vĩ đại của cách
mạng tháng Tám năm 1945. Với thắng lợi của cách mạng tháng Tám, ta đã đánh
đuổi được bọn phát xít Pháp – Nhật, giải phóng được dân tộc, lật đổ chế độ phong
kiến, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam Á. Thắng lợi này đã đưa nước ta từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến trở thành một nước độc lập, dân chủ cộng hòa, đưa nhân dân ta từ địa
vị nô lệ lên làm chủ đất nước, đưa Đảng ta từ một đảng hoạt động bất hợp Pháp trở
thành Đảng cầm quyền trong cả nước.
Như vậy, ngày từ khi mới ra đời, với những quan điểm bước đầu nhưng
đúng đắn trong việc xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân
18


làm nên thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Tám 1945. Thắng lợi của cách mạng

tháng Tám có ý nghĩa quyết định tới toàn bộ tiến trình phát triển tiếp theo của lịch
sử dân tộc. Cũng từ sau cách mạng tháng Tám, để bước vào cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp 1945 - 1954, Đảng ta tiếp tục chú trọng hơn nữa trong việc
xây dựng lực lượng vũ trang nói chung và lực lượng vũ trang ba thứ quân nói riêng
để làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
1.2.Chủ trương của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân
trong những năm 1945 - 1950
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời sau cách mạng tháng Tám phải
đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách. Nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, kiệt
quệ; tài chính khô cạn, nạn đói đe doạ; trình độ học vấn của nhân dân thấp kém,
v.v. Trong khi đó, ở phía Bắc, 20 vạn quân Tưởng cùng với bọn tay sai bán nước
được đế quốc Mỹ hỗ trợ đã tràn vào hầu hết các thành phố, thị xã, thị trấn nhằm
tiêu diệt Đảng cộng sản, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền nhân dân để lập nên
chính quyền phản động. Ở phía Nam, được thực dân Anh giúp đỡ, Pháp đã quay
trở lại xâm lược Đông Dương. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp nổ súng
đánh chiếm Sài Gòn, chính thức mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Trước tình thế khó khăn, thù trong giặc ngoài, việc xây dựng lực lượng vũ trang
trở thành yêu cầu cấp thiết. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cơ quan quân sự đầu
ngành như: tham mưu, chính trị, thông tin, quân nhu, quân giới…đều lần lượt được
thành lập và củng cố để đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu.
Để nắm vững lực lượng vũ trang, tháng 1.1946, Trung ương Quân ủy đã được
thành lập.
Trước sự kiện thực dân Pháp và bọn Tưởng đã thoả thuận với nhau bằng
Hiệp ước Hoa – Pháp, để cho Pháp đổ bộ ra Bắc, mở rộng cuộc xâm lược của
chúng ra cả nước; Đảng ta đã chủ trương ký với Pháp Hiệp định sơ bộ 6. 3.1946,
chủ động hoà hoãn với Pháp, đẩy nhanh quân Tưởng ra khỏi nước và tranh thủ thời
gian chuẩn bị lực lượng để đối phó với âm mưu xâm lược lâu dài của thực dân
Pháp. Tiếp sau Hiệp định sơ bộ, để tranh thủ hơn nữa thời gian hoà hoãn có lợi cho
19



việc xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã tiếp tục ký kết bản Tạm ước 14.9.1946.
Mặc dù đã ký kết Hiệp định sơ bộ 6.3.1946 và Tạm ước 14. 9.1946, song thực dân
Pháp đã bội ước, liên tiếp lấn tới bằng chính trị, quân sự nhằm thực hiện âm mưu
đặt lại toàn bộ ách thống trị trên đất nước ta. Trên thực tế, Việt Nam càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Các cuộc hành binh lấn chiếm của quân Pháp
được diễn ra liên tục ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Hạ tuần tháng 11 năm 1946,
thực dân Pháp đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn, mở rộng cuộc chiến tranh xâm
lược trên quy mô lớn và quyết liệt đối với miền Bắc. Trước tình thế cấp bách ấy,
giữa tháng 12 năm 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp mở rộng và
quyết định chủ trương phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp trên
phạm vi cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta kế tục sự nghiệp của cách mạng tháng Tám,
nhằm đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập và thống nhất. Nó là một cuộc chiến
tranh cách mạng của dân tộc, chiến tranh chính nghĩa.
Quyết tâm phát động kháng chiến toàn quốc theo quan điểm chiến tranh
nhân dân là một quyết định đúng kịp thời và là điểm xuất phát cơ bản cho mọi
thắng lợi về sau của cuộc kháng chiến.
Cuối tháng 12.1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng công bố rộng rãi chỉ
thị Toàn dân kháng chiến, nêu một cách tóm tắt nội dung đường lối và chính sách
kháng chiến gồm: mục đích, tính chất, chính sách, cách đánh, chương trình kháng
chiến, cơ quan lãnh đạo kháng chiến…Đây là cuộc kháng chiến của toàn dân nên
phải động viên, giáo dục và tổ chức toàn dân tham gia kháng chiến, kháng chiến
khắp nơi với khẩu hiệu: “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo
đài”. Có thể nói, chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân là tư tưởng, nội dung
chủ đạo trong đường lối quân sự của Đảng. Lúc này cần phải đẩy mạnh mặt trận
quân sự để tiêu diệt lực lượng của địch trên đất nước ta, đè bẹp ý chí xâm lược của
Pháp. Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến chống lại đội quân xâm lược
nhà nghề, có ưu thế về trang bị vũ khí nên phải tiến hành lâu dài, gian khổ và hy
sinh. Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định chiến lược mở đầu cuộc kháng

20


chiến toàn quốc đúng lúc và xác định được từ đầu những nội dung cơ bản về quan
điểm, đường lối kháng chiến là chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài,
tự lực cánh sinh, nhất định thắng lợi. Đặc biệt, Đảng luôn chú trọng xây dựng lực
lượng vũ trang ba thứ quân để làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Bao gồm bộ
đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích.
- Chủ trương xây dựng bộ đội chủ lực. Quy luật chi phối mọi cuộc chiến
tranh là quy luật sức mạnh: mạnh được, yếu thua và tinh hoa của khoa học và nghệ
thuật quân sự là luôn luôn tạo được ưu thế sức mạnh ở những thời gian và không
gian nhất định. Hiểu rõ quy luật đó, bước vào cuộc kháng chiến, trên cơ sở nhận rõ
vai trò quan trọng của “quả đấm chủ lực”, Đảng nhanh chóng đề ra những chủ
trương nhằm xây dựng và phát triển bộ đội chủ lực trong giai đoạn này.
Ngày 22 tháng 5 năm 1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 71/SL về việc đổi Vệ
quốc đoàn thành Quân đội quốc gia Việt Nam. Quân đội quốc gia được đặt dưới sự
chỉ huy tập trung thống nhất của Bộ Tổng tham mưu, cơ quan tham mưu quân sự
cơ mật, đầu não của quân đội. Quân đội được tổ chức biên chế thống nhất theo
trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội. Tiếp theo Sắc lệnh thành lập Quân đội quốc gia,
Đảng đề ra những chủ trương cụ thể để xây dựng bộ đội chủ lực.
Về chính trị: Đảng nhận thấy sức mạnh của quân chủ lực do nhiều yếu tố
hợp thành, nhưng ngọn nguồn của thắng lợi hay thất bại đều bắt nguồn từ nhân tố
chính trị, từ tinh thần và sức mạnh của tổ chức. Công tác chính trị trong quân đội
chính là công tác vận động cách mạng của Đảng đối với quần chúng chiến sĩ để
đem mục đích và tính chất của chiến tranh, đem đường lối và chính sách của Đảng
và Chính phủ mà giáo dục cho quân đội, đề cao trình độ giác ngộ, rèn luyện tinh
thần chiến đấu cho quân đội, củng cố sự đoàn kết đối nội và đối ngoại của quân
đội, đảm bảo cho quân đội thực hiện được công cuộc chiến thắng quân địch, thực
hiện được mục đích chính trị của chiến tranh. Kháng chiến muốn thắng lợi cần
phải xây dựng bộ đội chủ lực vững mạnh về chính trị, lấy xây dựng chính trị làm

cơ sở để bộ đội chủ lực ngày càng lớn mạnh, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình
huống. Thực tế chứng minh rằng ở đâu mà chính sách của đảng được thi hành
21


nghiêm chỉnh nhất, công tác chính trị trong quân đội chu đáo nhất, thì ở đấy, nói
chung không hề có tình trạng lỏng lẻo trong quân đội, quân đội giữ gìn được trật tự
tốt hơn, tinh thần của họ cũng cao hơn, ở đấy thu được nhiều thắng lợi lớn hơn.
Chính sức mạnh về chính trị là cơ sở đảm bảo cho sức mạnh về quân sự.
Nghị quyết hội nghị cán bộ Trung ương (ngày 31.7 – 1.8.1946) nhận định
lúc này chúng ta vẫn còn thiếu công tác chính trị trong quân đội, nhất là công tác
Đảng. Do vậy, Ban Thường vụ Trung ương đã ra Quyết nghị về tổ chức và hệ
thống Đảng trong quân đội. Theo đó, Tổng chính uỷ - Phụ trách công tác đảng và
lãnh đạo công tác quân sự trong quân đội toàn quốc; Chính uỷ Liên khu - Phụ trách
công tác đảng và lãnh đạo công tác quân sự trong quân đội một liên khu; Chính uỷ
cấp trung đoàn - Phụ trách công tác đảng và lãnh đạo công tác quân sự trong quân
đội một trung đoàn. Chính trị uỷ viên (từ cấp trung đoàn trở lên)có nhiệm vụ: chịu
trách nhiệm trước Đảng và cấp trên về mọi công tác đảng và quân sự thuộc phạm
vi mình theo đường lối của Đảng; Chịu sự lãnh đạo của cấp bộ đảng bên ngoài về
tổ chức và chính sách của Đảng; Khi cấp uỷ đảng bên ngoài không đồng ý với chỉ
thị chính uỷ cấp trên thì uỷ viên chính trị chỉ thi hành chỉ thị của uỷ viên cấp trên
rồi báo cáo, khi cấp uỷ đảng thấy uỷ viên chính trị làm sai chỉ thị cấp trên có quyền
đình chỉ sự thi hành đó và báo cáo ngay lên cấp trên. Uỷ ban Quân sự Trung ương
có nhiệm vụ giúp Trung ương nghiên cứu đường lối chiến lược, chiến thuật quân
sự, đề nghị lên Trung ương.
Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, do tương quan lực lượng giữa ta và địch
có sự chênh lệch lớn nên chủ trương của ta là kháng chiến lâu dài, vừa đánh vừa
phát triển lực lượng từ nhỏ tới lớn, từ yếu tới mạnh để đi tới thắng lợi. Phương
châm tác chiến là tích cực tiến công, giải quyết mau trong từng trận, dùng cách
đánh du kích, đánh vận động và có thể đánh trận địa.Với tinh thần đó, thực hiện

mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, ngày 19.12.1946 quân dân Hà Nội đã nổ phát súng
đầu tiên. Kế tiếp là các thành phố Đà Nẵng, Huế, Vinh, Nam Định, Hải Dương lần
lượt nổ súng vào các căn cứ của Pháp, mở đầu cuộc tổng giao chiến trong toàn
quốc.
22


Bước sang năm 1947, chỉ đạo xây dựng bộ đội chủ lực là một trong những
công tác trọng tâm của Bộ Tổng chỉ huy. Để tăng cường hơn nữa sức mạnh chính
trị trong bộ đội chủ lực, Hội nghị chính trị viên toàn quốc lần thứ nhất (1.2.1947)
xác định 10 nhiệm vụ lớn của cơ quan chính trị trong quân đội là: Nâng cao tinh
thần chiến đấu của toàn thể bộ đội trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Gây hứng thú và tổ chức nghiên cứu thêm kỹ thuật và chiến thuật, học tập kinh
nghiệm. Rèn luyện tinh thần kỷ luật bằng cách chấn chỉnh nội dung các mệnh lệnh,
việc động viên để thi hành mệnh lệnh, việc thưởng phạt. Bảo đảm sự thực hiện của
phương châm chiến lược về quân sự. Huấn luyện dân vận cho bộ đội để giúp vào
việc thực hành quân dân nhất trí. Đoàn kết đối nội, đối ngoại. Làm cho bộ đội tin
tưởng ở thắng lợi. Rèn luyện cho bộ đội có tinh thần tự lập chiến đấu trong lúc gian
nguy. Làm tốt công tác địch vận. Nỗ lực làm đúng 10 lời thề và 12 điều kỷ luật.
Đào tạo cho mỗi người đội viên thành một chiến sĩ tiên phong và quân đội ta thành
một quân đội quốc gia với đúng danh nghĩa ấy.
Về mặt tổ chức: Yêu cầu của cuộc kháng chiến là phải tổ chức xây dựng các
đơn vị chủ lực mạnh theo phương châm từ du kích chiến tiến lên vận động chiến,
từ chiến tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy… Theo Quy tắc Quân đội
quốc gia Việt Nam, biên chế bộ đội căn cứ vào nhiều điều kiện, cách điều động các
đơn vị, số vũ khí và cách điều khiển các vũ khí, những dụng cụ và cách giao thông
vận tải ở mỗi địa phương,…Sự biên chế ấy sẽ tuỳ thời gian mà thay đổi, cốt nhất là
để cho bộ đội có thể điều động dễ dàng, mau chóng và sự chỉ huy được chặt chẽ.
Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương miền bắc Đông Dương(20.5.1948) xác
định phải: Tăng cường các đội chủ lực; kiện toàn các cấp chỉ huy, mở các trường

đào tạo thêm cán bộ. Cơ quan chỉ huy cần được hợp lý hoá, tất cả những sự bất
hợp lý cần giải quyết dứt khoát, cần có sự phân công phối hợp được rõ ràng, để sự
chỉ huy được tập trung, thống nhất nhanh chóng.
Bên cạnh việc tổ chức biên chế, Đảng chú trọng về phương diện trang bị kỹ
thuật cho quân đội. Do chúng ta phải đối mặt với một quân đội nhà nghề, binh khí
hiện đại nên việc huấn luyện quân sự, trang bị kỹ thuật là tất yếu quan trọng. Quán
23


triệt tinh thần này, ngày 15 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập
Phòng Quân giới thuộc Bộ Quốc phòng. Đến ngày 22 tháng 3 năm 1946, Hồ Chí
Minh ký sắc lệnh số 34/SL, quy định tổ chức Bộ Quốc phòng, trong đó có Chế tạo
quân giới Cục và Công chính giao thông Cục. Từ cuối tháng 10 năm 1946, tất cả
các công binh xưởng sản xuất, sửa chữa vũ khí thuộc Vệ quốc đoàn đều do Cục
chế tạo quân giới quản lý. Ngày 5.12.1946, Hồ Chí Minh trực tiếp bổ nhiệm đồng
chí Phạm Quang Lễ làm Cục trưởng Cục quân giới.
Tháng 1 năm 1948, Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng chỉ đạo:“ Không một
quả lựu đạn nào không nổ, không một khẩu súng nào thiếu đạn, không một người
lính nào không có một vũ khí thô sơ, tiến lên chế tạo những vũ khí tối tân, chuẩn bị
cho bộ đội đánh những trận tiêu diệt lớn”[46, tr.282]. Đầu năm 1949, Hội nghị cán
bộ Trung ương Đảng lại ra nghị quyết: Sản xuất vũ khí cần đi đôi với yêu cầu
chiến thuật. Bên cạnh những vũ khí đã chế tạo được, cần nỗ lực hơn nữa trong chế
tạo vũ khí tối tân. Đảng đã quan tâm tới việc sản xuất vũ khí từ thô sơ đến hiện đại
để đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến, giúp cho bộ đội ngày càng trưởng thành
hơn trong chiến đấu.
Về huấn luyện quân sự: để bộ đội có khả năng hoàn thành nhiệm vụ tác
chiến với quy mô ngày càng lớn hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển cao của cuộc
kháng chiến, Đảng cũng thường xuyên chú trọng. Đảng đã đồng thời từng bước
nâng cao trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ, chiến thuật cho bộ đội để cho bộ đội có thể
đánh thắng kẻ thù trên mọi loại địa hình và quy mô tác chiến. Nghị quyết Hội nghị

cán bộ Trung ương (8.1948) nêu phương châm và biện pháp huấn luyện quân sự
cho bộ đội là: phải đánh địch từng bước; phải diệt cứ điểm riêng lẻ của địch, sau đó
mới đánh cứ điểm trung bình và cứ điểm lớn; đánh vận động từng tiểu đoàn đến
trung đoàn; tránh tình trạng chưa học bò đã lo học chạy; phải biết sử dụng thành
thạo các loại vũ khí và đặc biệt phải tranh thủ lấy súng của địch đánh địch.
Với kế hoạch nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của kháng chiến, tiêu diệt quân
chủ lực của ta, phá hoại kho tàng, bao vây và khóa chặt biên giới. Ngày 7.10.1947,
thực dân Pháp đã mở cuộc hành quân lên Việt Bắc. Tuy nhiên cuộc hành quân này
24


đã nhanh chóng bị quân ta làm cho thất bại nặng nề. Thắng lợi của cuộc phản công
ở Việt Bắc đã mang lại ý nghĩa chiến lược quan trọng trong năm đầu toàn quốc
kháng chiến, đập tan chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp,
đưa cuộc kháng chiến của ta sang giai đoạn mới: phát triển chiến tranh du kích
rộng khắp, tiến dần lên chiến tranh chính quy (1948 - 1950).
- Chủ trương xây dựng dân quân du kích. Để đưa cuộc kháng chiến chống
Pháp dần đi tới thắng lợi to lớn, bên cạnh việc chú trọng xây dựng bộ đội chủ lực,
Đảng ta cũng luôn quan tâm xây dựng dân quân du kích, nhất là trong giai đoạn
đầu của cuộc kháng chiến thì việc xây dựng dân quân du kích càng được chú trọng.
Dân quân du kích là lực lượng đông đảo được vũ trang và có tổ chức ở cơ sở,
không thoát ly sản xuất. Đó là lực lượng bám đất, bám dân, vừa đánh giặc vừa lao
động sản xuất, vừa là quân vừa là dân. Đây là lực lượng hùng hậu để bổ sung cho
bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương.
Từ sau 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân quân du kích từ chỗ là tổ chức
vũ trang quần chúng do Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc xây dựng,
đến tháng 3 năm 1947 đã được thống nhất về tổ chức, trở thành một bộ phận của
lực lượng vũ trang nhân dân. Dân quân du kích được đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp
của các cấp xã đội, huyện đội và tỉnh đội bộ dân quân. Nghị quyết Hội nghị cán bộ
Trung ương (3 – 6. 4.1947) kết luận rằng kháng chiến toàn quốc đã chứng tỏ địch

không thể dùng vũ khí tối tân mà tiêu diệt ta. Cuộc kháng chiến tuy gian khổ
nhưng ta có niềm tin vào thắng lợi. Hội nghị đã đề ra những chủ trương và chính
sách về chính trị, quân sự, để thực hiện “toàn dân đoàn kết, kháng chiến lâu dài”.
Riêng về xây dựng dân quân du kích, nghị quyết chỉ đạo: Cấp tốc xúc tiến việc tổ
chức, huấn luyện và võ trang, lãnh đạo dân quân. Tốt nhất là Vệ quốc quân đóng
mỗi nơi phụ trách việc huấn luyện quân sự cho dân quân và làm cho dân quân quen
với tiếng súng. Chú trọng thực tế (canh gác, xét hỏi, liên lạc, thông tin, báo động,
hành quân ban đêm, tập bắn súng, ném lựu đạn, tập xung phong bằng lựu đạn và
đại đao,v.v). Đặc biệt, hoá một phần bộ đội thành dân quân( nhất là ở những nơi bị

25


×