Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Phát huy vai trò văn hóa bản địa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay : Luận văn ThS. Triết học: 60 22 85

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 145 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO

PHÁT HUY VAI TRÒ VĂN HÓA BẢN ĐỊA
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở TỈNH LÂM ĐỒNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:
60 22 85

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. DƢƠNG XUÂN NGỌC

HÀ NỘI - 2011


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hoá là sản phẩm của con ngƣời, của cộng đồng ngƣời, gắn liền với
cuộc sống của con ngƣời và sự phát triển của xã hội, đƣợc xác định bao gồm tất
cả các giá trị vật chất và tinh thần, tính cách và lối sống, truyền thống của mỗi
dân tộc, mỗi cộng đồng xã hội. Nó tồn tại qua thời gian và lƣu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, thấm sâu vào lối sống của cộng đồng dân cƣ và trở thành
bản sắc riêng của mỗi dân tộc, quốc gia.
Là quốc gia đa dân tộc thống nhất “nền văn hoá Việt Nam là nền văn hóa
thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Hơn 50 dân tộc sống trên đất nƣớc ta đều có những giá trị và sắc thái


riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa
Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc…” [20, tr.57]. Những năm gần đây,
vấn đề văn hóa nói chung và văn hóa các DTTS nói riêng đƣợc sự quan tâm
nhiều của xã hội. Nhận thức về vai trò quyết định của văn hóa đối với sự phát
triển ở nƣớc ta cũng đƣợc nâng lên đúng với giá trị đích thực của nó. Ngay từ
Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV của Ban chấp hành Trung ƣơng khóa VII đã
khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều
sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp
nhất trong quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, với xã hội và với thiên nhiên. Nó vừa
là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, vừa là một trong những mục
tiêu của chúng ta. Nhằm bổ sung và hòan thiện tƣ tƣởng đƣợc nêu trong Hội nghị
lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa VII, Nghị quyết Hội nghị Trung
ƣơng 5, khóa VIII, Đảng ta đã đề ra chính sách văn hóa trong kinh tế “Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội [20, tr.55].
Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển trở thành vấn đề đƣợc quan tâm,
nhận thức và vận dụng vào thực tiễn đổi mới ở nƣớc ta. Cùng với phát triển kinh
tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, Đảng ta nhấn mạnh phát triển văn

2


hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Xét về mặt lý luận, kinh tế - xã hội phát
triển, đời sống của ngƣời dân đƣợc nâng cao đó là tiền đề, điều kiện cho phát
triển văn hóa, đồng thời hoạt động văn hóa lại có tác động trở lại để thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Để phát huy có hiệu quả hơn vai
trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội và xử lý đúng đắn sự tác động
qua lại giữa kinh tế và văn hóa, Đảng ta trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội X,
XI chỉ rõ phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn nữa giữa văn hóa và kinh tế.
Trong tính đa dạng thống nhất của nền văn hóa Việt Nam, văn hóa bản địa

các DTTS ở Lâm Đồng do những đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội
và nhiều nhân tố ảnh hƣởng khác nhau, mang những nét đặc trƣng riêng có,
những đặc điểm khác biệt. Những yếu tố văn hóa đặc trƣng của các tộc ngƣời
bản địa trở thành những tiềm năng đặc biệt, những nguồn tài nguyên quan trọng
cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở Lâm Đồng. Đặc biệt là tiềm năng kinh tế, du
lịch từ nguồn tài nguyên văn hóa bản địa. Đó là niềm tự hào của các tộc ngƣời
bản địa ở Nam Tây Nguyên cần đƣợc các nhà khoa học nghiên cứu để phát huy,
phát triển. Tuy vậy, văn hóa bản địa các DTTS bản địa Lâm Đồng trong những
năm qua chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, chƣa phát huy đƣợc vai trò động lực
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều yếu tố văn hóa đang ngày càng mai
một, thậm chí một số loại hình, lĩnh vực có nguy cơ mất hẳn, có những yếu tố đã
trở nên lạc hậu, lỗi thời không còn phù hợp, có những yếu tố mang tính chất hiện
đại. Sự tác động của cơ chế thị trƣờng và ảnh hƣởng của các tôn giáo mới, một
mặt làm cho văn hóa bản địa các dân tộc đang có những biến đổi, đã có những
nét văn hóa riêng bị phai nhạt, bị đồng hóa, mất đi bản sắc riêng, một mặt làm
cho văn hóa bản địa có biểu hiện lai căng, hoặc biến các di sản văn hóa truyền
thống của cƣ dân bản địa Lâm Đồng thành những "sản phẩm lạc hậu", không
phù hợp với cuộc sống hiện tại, cơ cấu xã hội và quan hệ giữa các thành viên
trong buôn làng nay đã có nhiều biến đổi lớn, làm cho sinh hoạt cộng đồng ít gắn
bó hơn, không còn tác dụng nuôi dƣỡng nền văn hóa truyền thống và ảnh hƣởng
đến củng cố khối đoàn kết dân tộc. Do vậy, để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội, trong xu thế mở cửa, hội nhập kinh tế và giao lƣu văn hóa, cần phát phát huy

3


các giá trị văn hóa với những bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc để làm
phong phú nền văn hóa chung của cả nƣớc góp phần nâng cao tính thống nhất đa
dạng của văn hóa Việt, đấu tranh chống các khuynh hƣớng lợi dụng văn hóa để
chia rẽ, phá họai khối đại đoàn kết các dân tộc. Lâm Đồng hiện vẫn còn là tỉnh

nghèo, quy mô nền kinh tế nhỏ; chƣa khai thác và phát huy tốt tiềm năng và lợi
thế của tỉnh; chƣa phát huy đƣợc vai trò động lực của văn hóa đối với sự phát
triển. Thời gian qua, những yếu tố văn hóa bản địa Lâm Đồng mới chỉ đƣợc khai
thác phục vụ cho yêu cầu trƣớc mắt, chứ chƣa chú ý tới việc nghiên cứu, nhằm
khẳng định và bảo tồn cũng nhƣ đề ra các giải pháp phát huy các giá trị văn hóa
phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là phục vụ cho phát triển kinh tế du
lịch ở địa phƣơng. Giữ gìn, bào tồn và phát huy các giá trị văn hóa địa các dân
tộc thiểu số ở Lâm Đồng là một trong những nhân tố quan trọng, góp phần nâng
cao chất lƣợng cuộc sống của ngƣời dân bản địa ở nam Tây Nguyên, làm cho
nền tảng tinh thần của xã hội ngày càng vững chắc góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Xuất phát từ tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển, để đánh giá
đúng vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số Lâm đồng đối với sự phát triển
kinh tế- xã hội của tỉnh, phát hiện ra những xu hƣớng biến đổi và đƣa ra những
giải pháp thích hợp, tích cực cho việc bảo tồn và phát huy vai trò của văn hóa bản
địa các dân tộc thiểu số, biến các giá trị văn hóa của các dân tộc bản địa Lâm
Đồng thành tài sản văn hóa góp phần phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội ở địa phƣơng, học viên đã chọn đề tài “Phát huy vai trò văn hóa bản địa đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên cả phƣơng diện lý luận và thực tiễn, vấn đề văn hóa đã có nhiều học
giả quan tâm nghiên cứu ở những khía cạnh và góc độ khác nhau. Sau đây là một
số công trình, bài viết cơ bản về văn hóa, văn hóa tộc ngƣời.
Những nghiên cứu về văn hóa nói chung có các công trình: “Văn hóa và
đổi mới” (Nxb Chính trị quốc gia. H, 1994) của cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng,
trong đó tác giả đề cập đến văn hóa một cách có hệ thống, công trình đã nêu lên

4


mối quan hệ giữa văn hóa và đổi mới. “Sự chuyển đổi các giá trị trong văn hóa

Việt Nam” (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989) của GS.TS Đỗ Huy, PGS.
Trƣờng Lƣu. “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa” (2001) của GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn - TS. Phạm Văn
Đức - TS. Hồ Sĩ Quý, Nxb Chính trị quốc gia; Chƣơng trình Khoa học - Công
nghệ cấp nhà nƣớc mã số KX-05 “Phát triển văn hoá, con người và nguồn nhân
lực trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá” giai đoạn 2001-2005, do GS,VS
Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm gồm 12 đề tài. Các công trình này đã tập trung
làm rõ 3 chủ đề lớn đó là: Văn hoá và văn hoá Việt Nam đầu TK XXI; con ngƣời
và con ngƣời Việt Nam đầu TK XXI; phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân
lực Việt Nam đầu TK XXI. Trong đó đáng chú ý là những phƣơng pháp tiếp cận
mới và những kết quả mới nhất trong nghiên cứu về con ngƣời, nguồn lực con
ngƣời, đời sống văn hoá và xu hƣớng phát triển văn hoá ở các vùng miền khác
nhau, về quan hệ nhân quả phức tạp giữa văn hoá - con ngƣời - nguồn nhân lực.
Ngoài ra còn phải kể đến một số công trình khác nhƣ: “Văn hóa các dân
tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng” (2002), (Nông Quốc Chấn - Huỳnh Khái
Vinh, Nxb Chính trị quốc gia; Phạm Minh Hạc với tác phẩm “Phát triển văn
hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp với tinh hóa nhân loại” (1996),
Nxb Khoa học Xã hội; “Sáng tạo và bảo tồn giá trị văn hóa, văn nghệ các dân
tộc thiểu số Việt Nam” (1998), của Hội Văn học - Nghệ thuật các dân tộc thiểu
số Việt Nam, in tại trƣờng Trung học Kỹ thuận In, Hà Nội.
Nhìn chung, các công trình này nghiên cứu văn hóa dƣới góc độ chung và
đã đạt đƣợc những thành công to lớn trong việc nghiên cứu khái niệm, cấu trúc,
giá trị, và hình thức biểu hiện của văn hóa.
Các công trình, bài viết về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển, về vai
trò của văn hóa trong nền kinh tế thị trƣờng có: Trần Ngọc Hiên, "Văn hóa và
phát triển - từ góc nhìn Việt Nam", Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, (1993); Phạm
Văn Đồng, "Văn hóa và đổi mới", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, (1994); Phạm
Xuân Nam, "Văn hóa vì sự phát triển", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, (1998).

5



Hồ Sĩ Vịnh, "Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, (1999).
Những nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số và các DTTS ở Tây
Nguyên có các công trình: “Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong
cuộc sống hôm nay”, Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số
7/2000. Đề tài: “Vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số
ở Gia Lai trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003 của Đỗ Văn Hòa.
Ngô Đức Thịnh: “Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam” (1993)
đã xác định tính không đồng nhất giữa không gian văn hóa Tây Nguyên và
không gian lãnh thổ Tây Nguyên. Các nghiên cứu: “Giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa Tây Nguyên” (1996) do Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III
tổ chức và thực hiện; “Xu hướng vận động của nền văn hóa các dân tộc ở khu
vực Tây Nguyên” (1995) của Nguyên Hồng Sơn; “Văn hoá các dân tộc Tây
Nguyên - thực trạng và những vấn đề đặt ra” (2004) của GS.TS Trần Văn Bính.
Qua điều tra, tổng kết thực tiến, các công trình nghiên cứu này đã đánh giá, phân
tích tƣơng đối toàn diện, khách quan về thực trạng đời sống văn hoá của một số
dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên trong công cuộc đổi mới, đề xuất các giải
pháp vừa cơ bản vừa cấp bách nhằm tiếp tục phát triển đời sống văn hoá các dân
tộc trên địa bàn dƣới tác động của quá trình thực hiện sự nghiệp phát huy và bảo
tồn văn hoá dân tộc.
Những nghiên cứu về văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng có:
“Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng”(1986) do Mạc Đƣờng chủ biên, Sở văn
hóa tỉnh Lâm Đồng xuất bản; “Ngƣời Chu Ru ở Lâm Đồng” (2009) do TS
Hoàng Sơn chủ biên, nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc.
Trong khuôn khổ Chƣơng trình nghiên cứu về khoa học xã hội - nhân văn
1996 của tỉnh Lâm Đồng, Trung tâm Phát triển Kinh tế - Văn hóa - Xã hội (Đại
học Đà Lạt) đã tiến hành triển khai đề tài "Văn hóa truyền thống Cơ ho, Mạ", do

Cao Thế Trình (chủ nhiệm), đề tài thuộc Sở KHCN & MT Lâm Đồng. Đề tài này
gộp hai dân tộc Mạ và K‟Ho để nghiên cứu; trọng tâm nghiên cứu là các đặc

6


điểm văn hoá truyền thống nên các tác giả coi trọng cả tƣ liệu cũ, càng xƣa càng
tốt; có nghiên cứu tổ chức gia đình - dòng họ - buôn (bon) làng theo quan niệm
đó là văn hoá xã hội - văn hoá tổ chức cộng đồng.
Đề tài “Điều tra di sản văn hóa Kơho tỉnh Lâm Đồng” (1998) và đề tài
“Điều tra di sản văn hóa Mạ, Churu tỉnh Lâm Đồng” (1999), do Nguyễn Vũ
Hoàng (chủ nhiệm), đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh. Cả hai đề tài đều xác
định vốn di sản văn hóa các nhóm dân tộc bản địa Lâm Đồng. Trên cơ sở điều
tra phân tích, đề tài đã khẳng định giá trị, nét độc đáo của di sản văn hóa K‟Ho,
Mạ, Churu.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Phát huy mặt tích cực của luật tục
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng để xây dựng thôn buôn văn
hóa” (2006), do ThS Đặng Trọng Hộ (Chủ nhiệm). Đề tài đã làm rõ tác động của
luật tục và những cơ chế tác động của nó đến đời sống đồng bào các tộc ngƣời
thiểu số trong các thôn văn hóa và những thôn đăng ký xây dựng thôn văn hóa ở
Lâm Đồng và đề xuất những giải pháp để phát huy những mặt tích cực của luật
tục trong xây dựng thôn văn hóa.
Vấn đề văn hóa còn đƣợc nhiều tác giả nghiên cứu tiếp cận dƣới các góc
độ khác nhau đƣợc thể hiện trong các bài viết đã đăng trên các tạp chí nhƣ: “Giữ
gìn và phát huy giá trị văn hoá Tây Nguyên trong quá trình xây dựng đời sống
văn hoá tinh thần ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số”, Trƣơng Minh Dục Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số 1/2003; “Văn hoá các tộc người Tây Nguyên Thành tựu và thực trạng” Tô Ngọc Thanh - Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số
1/2003; “Nâng cao đời sống văn hoá tinh thần vùng núi các tỉnh miền Trung” Hồ Tấn Sáng, Tạp chí Cộng sản số 17 - 10/1997; “Văn hoá dân gian và bản sắc
văn hoá dân tộc” Ngô Đức Thịnh, Tạp chí Cộng sản số 8-02/2001; Đặng Hữu
Toàn, "Vai trò của văn hóa trong sự phát triển lâu bền theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Triết học, số 2/1999.

Những công trình khoa học, sách báo, tạp chí nêu trên đã khẳng định tầm
quan trọng của việc bảo tồn những giá trị, những di sản văn hóa nói chung và
văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số nói riêng trong công cuộc đổi mới. Tuy

7


nhiên cho đến nay chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về phát huy vai trò
văn hóa bản địa các dân tộc thiếu số Lâm Đồng đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của văn hóa
và thực trạng phát huy vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lâm Đồng, luận văn dự báo xu hƣớng biến
đổi và đề xuất những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò văn hóa bản địa
các dân tộc thiếu số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong công
cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lâm Đồng.
- Làm rõ thực trạng phát huy vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lâm Đồng và những vẫn đề đặt ra.
- Đề xuất những giải pháp nhằm phát huy vai trò văn hóa bản địa các dân
tộc thiểu số thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lâm đồng trong công
cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là: “Vai trò văn hóa bản địa đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay”.

* Phạm vi nghiên cứu:
Văn hóa là một lĩnh vực hết sức rộng lớn, đa dạng và phong phú, đề tài
nghiên cứu, làm rõ vai trò của văn hóa bản địa Lâm Đồng đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội những không đi vào nghiên cứu toàn bộ các vấn đề thuộc về văn
hóa bản địa, mà chỉ tập trung ở vai trò của văn hoá bản địa các DTTS Lâm Đồng
trên các phƣơng diện: phƣơng thức sinh hoạt - kinh tế, kiến trúc, tri thức bản địa,

8


nghề truyền thống, ý thức cộng đồng, thiết chế xã hội, luật tục, lễ hội, tín ngƣỡng
và tôn giáo, nhằm kế thừa, bảo tồn và phát huy nó. Đặc biệt chú trọng ở văn hoá
tinh thần.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận và thực tiến của đề tài:
Việc nghiên cứu và trình bày của luận văn dựa trên cơ sở lý luận và các
nguyên tắc phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
và các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan đến đề tài. Tham
khảo một số công trình nghiên cứu của các tác giả đã đƣợc công bố, có nội dung
liên quan tới vấn đề mà luận văn đề cập.
Đề tài đƣợc tiếp cận theo quan điểm lịch sử cụ thể và phƣơng pháp cấu
trúc hệ thống về văn hóa và vai trò của văn hóa bản địa đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội. Nghiên cứu vốn văn hoá nền cùng với những tập quán sản xuất, sinh
hoạt cộng đồng của đồng bào các tộc ngƣời bản địa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phƣơng pháp chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề; đồng thời kết
hợp nhuần nhuyễn các phƣơng pháp: Điều tra; lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng
hợp; quy nạp và diễn dịch;… nhằm đạt tới mục đích đề tài đã đề ra.
6. Đóng góp mới của luận văn

- Luận văn trình bày một cách tƣơng đối rõ ràng cơ sở lý luận về văn hóa
và vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Lâm Đồng”.
- Làm rõ thực trạng phát huy vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số
đối với sự phát triển kinh - xã hội của tỉnh Lâm Đồng và chỉ rõ đƣợc những vấn đề
đặt ra đối với văn hóa trƣớc sự tác động của xu hƣớng mở cửa, hội nhập quốc tế.
- Đƣa ra những dự báo về xu hƣớng biến đổi của văn hóa bản địa và đề
xuất một số giải pháp phát huy vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số đối
với sự phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Lâm đồng trong giai đoạn hiện nay.

9


* Ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
Luận văn góp phần củng cố nhận thức lý luận về văn hóa, vai trò văn hóa
bản địa các dân tộc thiếu số Lâm Đồng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, từ
đó góp phần nâng cao nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh
tế, hình thành nên ở mỗi ngƣời thái độ đúng đắn, hợp quy luật trong việc giữ gìn,
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa nói chung và văn hóa bản địa các dân tộc
thiểu số nói riêng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Luận văn còn có thể sử
dụng vào việc nghiên cứu những vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở các tỉnh
Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 3 chƣơng 8 tiết:
Chƣơng 1: Vai trò của văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số ở tỉnh Lâm
Đồng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội - cơ sở lý luận.
Chƣơng 2: Vai trò của văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số tỉnh Lâm
Đồng đối với phát triển kinh tế - xã hội - thực trạng và vấn đề đặt ra.
Chƣơng 3: Xu hƣớng biến đổi và giải pháp phát huy vai trò văn hóa bản

địa các dân tộc thiểu số đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lâm Đồng
trong giai đoạn hiện nay.

10


Chƣơng 1
VAI TRÒ CỦA VĂN HOÁ BẢN ĐỊA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
Ở TỈNH LÂM ĐỒNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI - CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Quan niệm về văn hóa
Văn hóa, là thuật ngữ đa nghĩa, thƣờng đƣợc xem xét từ nhiều khía cạnh
khác nhau. Cho đế nay ngƣời ta đã thống kê có hơn 400 định nghĩa về văn hóa.
Điều đó có nghĩa là sự xác định khái niệm văn hóa không đơn giản bởi mỗi học
giả đều xuất phát từ những cứ liệu riêng, góc độ riêng, mục đích riêng phù hợp
với vấn đề mình cần nghiên cứu.
Trong lịch sử, khái niệm văn hóa xuất hiện rất sớm ở cả phƣơng Đông
cũng nhƣ ở phƣơng Tây. Ở phƣơng Đông, trong thời kỳ Cổ đại ở Trung Quốc,
văn hóa đƣợc hiểu là cách thức điều hành xã hội của tầng lớp thống trị dùng
“văn hóa” và “giáo hóa”, dùng cái hay, cái đẹp để giáo dục và cảm hóa con
ngƣời. Ở nƣớc ta gần 600 năm trƣớc, Nguyễn Trãi cũng đã mơ ƣớc một xã hội
văn trị, lấy nền tảng văn hiến cao, lấy trình độ học vấn và trình độ tu thân của
mỗi ngƣời làm cơ sở cho sự phát triển hài hòa của xã hội.
Ở phƣơng Tây, từ văn hóa bắt nguồn từ tiếng La tinh, (Cullture) nghĩa là
cày cấy, vun trồng - gắn liền với hoạt động nông nghiệp. Sau này, nội dung đó phát
triển thành ý nghĩa hoạt động vun trồng, bù đắp... tinh thần của con ngƣời, gắn chặt
với lao động sáng tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con ngƣời.
Trong Tiếng Việt, văn hóa đƣợc dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học
thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để

chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn... trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa
bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngƣỡng, phong
tục, lối sống, lao động...
Chủ nghĩa Mác-Lênin xem văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do con ngƣời sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội -

11


lịch sử, tiêu biểu cho trình độ đạt đƣợc trong lịch sử phát triển xã hội [49,
tr.507].
Cũng bàn về văn hóa, Giáo sƣ, tiến sĩ A.I. Ácnônđốp cho rằng: "Văn hóa
là hiện tƣợng phức tạp và đa diện. Nó bao gồm cả hoạt động sáng tạo, tức là toàn
bộ quá trình sản xuất ra tƣ tƣởng và vật chất hóa các tƣ tƣởng đó; cả những tính
cách của con ngƣời nhƣ một chủ thể hoạt động, và cả bản thân nói chung những
giá trị vật chất và tinh thần đƣợc tạo ra trong quá trình hoạt động ấy. Một định
nghĩa thỏa đáng về văn hóa cần phải bao hàm tất cả các mặt trên đây" [1, tr.32].
Trên cơ sở nghiên cứu đầy đủ tổng thể các hiện tƣợng bao chứa trong khái
niệm phức tạp này, A.I.Ácnônđốp đã đề xuất một định nghĩa khái quát nhƣ sau:
"Văn hóa là hoạt động sáng tạo tích cực của con ngƣời (cá thể nhóm xã
hội, giai cấp, dân tộc, xã hội nói chung) thực hiện trong các lĩnh vực sản xuất vật
chất và tinh thần, nắm bắt và khai thác thế giới, quá trình này sẽ sản xuất, bảo
quản phân phối, trao đổi và tiêu thụ những giá trị vật chất và tinh thần mang ý
nghĩa xã hội, đồng thời nó là một tổng hợp chính những giá trị đã vật thể hóa
hoạt động sáng tạo của ngƣời" [1, tr.33]. Tuy đến nay đã có hàng trăm định
nghĩa khác nhau về văn hóa song các định nghĩa đều thống nhất chung ở một
điểm chủ yếu là nhấn mạnh đến sự sáng tạo vƣơn tới các giá trị nhân văn của văn
hóa, là phƣơng thức tồn tại đặc hữu của loài ngƣời , khác cơ bản với tổ chức đời
số ng các quầ n thể sinh vâ ̣t trên trái đấ t . Mọi thứ văn hóa đều thuộc về con ngƣời,
văn hóa là đặc trƣng cơ bản phân biệt con ngƣời với động vật… Con ngƣời sinh

ra từ tự nhiên, không thể tách khỏi tự nhiên để tồn tại và phát triển. Văn hóa trƣớc
hết là sự thích nghi chủ động và có ý thức của con ngƣời với tự nhiên, đồng thời lại
là sự phát triển của sự thích nghi ấy.Với tính cách là một sinh vật, con ngƣời có
một bản chất thứ nhất, đó là bản chất tự nhiên, nhƣng với tính cách là một sinh
vật có ý thức và sống thành xã hội thì con ngƣời lại có bản chất thứ hai đó là bản
chất văn hóa, vƣợt ra khỏi tự nhiên. Nhƣ vậy, văn hóa đƣợc hình thành và phát
triển trong quan hệ thích nghi giữa con ngƣời với thiên nhiên, giữa con ngƣời
với con ngƣời. Trải qua hàng ngàn năm thích nghi và cải tạo thế giới, những
kinh nghiệm mà con ngƣời tích lũy đƣợc đã trở thành nền tảng cơ bản cho sự

12


phát triển của văn hóa. Văn hóa không chỉ bó hẹp trong quan hệ cá nhân gia đình
và cộng đồng mà còn mở rộng trong mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên
thế giới. Văn hóa hình thành trong quá trình tiếp xúc, giao lƣu, sàng lọc, cải biến
giữa văn hóa bản địa với những nền văn hóa khác. Do đó, văn hóa bao giờ cũng
thể hiện sự đa dạng, phong phú nhƣng luôn mang những nét độc đáo của dân tộc,
đồng thời bao hàm tiềm ẩn những giá trị chung của nhân loại. Bản chất cốt lõi và
cơ bản của văn hóa là sự sáng tạo vƣơn tới các giá trị nhân văn của con ngƣời
qua trƣờng kỳ lịch sử. Khi bàn về văn hóa Hồ Chí Minh viết:
Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ mục đích của cuộc sống, loài ngƣời mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phƣơng thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phƣơng thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn [52, tr.431].
Quan niệm văn hóa của Hồ CHí Minh là một cách tiếp cận văn hóa từ ý
nghĩa khái quát, đặc trƣng nhất của nó, một định nghĩa cô đọng và chính xác về

văn hóa. Hồ Chí Minh xuất phát từ cách tiếp cận mác - xít nhƣng lại gần gũi với
nhận thức hiện đại, đã toát lên cái nhìn vƣ̀a toàn diê ,̣n vƣ̀a sâu sắ c về nguồ n gố c lich
̣
sƣ̉ của văn hóa , về pha ̣m vi rô ̣ng lớn của văn hóa , về mă ̣t biể u hiê ̣n của văn hóa
trong đời số ng và toàn bô ̣ sinh hoa ̣t của con ngƣơ.̀ iNguồ n gố c của văn hóa theo Hồ
Chí Minh là do nhu cầu sinh tồn và mục đích sống của con ngƣời
. Con ngƣời không
thể tồ n ta ̣i nế u không có khả năng sáng ta ̣o và phát minh ra văn hóa nhằm đối phó
với nhƣ̃ng thƣ̉ thách của thiên nhiên và của xã hô ̣i. Ngƣời đã xác định văn hóa bao
gồm những thành quả của sự sáng tạo cả về phƣơng diện vật chất và tinh thần nhằm
đáp ứng cho sự tồn tại và phát triển của loài ngƣời. Và điều đặc biệt ở đây là Ngƣời
cho rằng văn hóa không chỉ là sự sáng tạo mà còn là phƣơng thức sử dụng sự sáng
tạo đó.
Với cách tiếp cận văn hóa từ ý nghĩa khái quát, đặc trƣng nhất Hồ Chí Minh
đã đƣa ra định nghĩa cô đọng về văn hóa: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phƣơng

13


thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích
ứng với những nhu cầu của đời sống và đời hỏi của sự sinh tồn” [53, tr.431].
Gần đây, đứng trƣớc sự tiến công mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa, vấn đề
giữ gìn, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa của các dân tộc, các quốc gia đang gặp
phải những thách thức to lớn, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển và các dân tộc
thiểu số. Vì vậy, UNESCO đã nêu ra định nghĩa về văn hóa trên cơ sở nhấn mạnh
đến nội dung này nhằm thức tỉnh tinh thần trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong
việc chống xu thế nhất thể hóa văn hóa, hƣớng tới tôn trọng và bảo vệ những giá trị
văn hóa độc đáo của các quốc gia, các dân tộc:
Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật
chất, trí tuệ và xúc cảm, quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm

ngƣời trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chƣơng, những lối sống,
những quyền cơ bản của con ngƣời, những hệ thống các giá trị, những tập tục và
những tín ngƣỡng [42, tr.23].
GS. Phạm Minh Hạc cho rằng: “Văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và
tinh thần, do con ngƣời, cộng đồng, dân tộc, loài ngƣời sáng tạo ra” [38, tr.56].
Nhƣ vậy, văn hóa bao gồm cả lĩnh vực văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần thể hiện năng lực sáng tạo độc đáo, riêng biệt của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc
trong qúa trình vận động và phát triển của mình. Đó là tổng thể sống động các
hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng trong quá khứ và hiện tại.
Qua các thế hệ, hoạt động sang tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các
truyền thống và thị hiếu- những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc,
với các biểu hiện chính là: giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Văn hóa là sự phát
triển năng lực của con ngƣời trong quá trình không ngừng nâng cao trình độ làm
chủ của mình đối với tự nhiên, xã hội và bản thân, nhằm thỏa mãn nhu cầu về
tinh thần và vật chất trong hoạt động thực tiễn hƣớng tới các giá trị nhân văn.
Chính lịch sử phát triển của xã hội loài ngƣời đã chứng minh điều đó. Trên hành
tinh này không có gì quý hơn con ngƣời. Con ngƣời vừa là chủ thể, vừa là sản
phẩm của văn hóa. Điều đó đƣợc phản ánh rõ nét qua những đặc trƣng và chức
năng của văn hóa, gồm:

14


- Một là , văn hóa có tiń h h ệ thống . Nhờ có tiń h hê ̣ thố ng chúng ta hiểu
đƣợc văn hóa không phải là tập hợp , là phép cộng đơn thuần những hiện tƣợng
văn hóa mà văn hóa tồn tại với tƣ cách là mô ̣t thƣ̣c thể bao trùm mo ̣i hoa ̣t đô ̣ng
của xã hội, thƣ̣c hiê ̣n đƣơ ̣c chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa làm tăng độ
ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phƣơng tiện cần thiết để đối phó với
môi trƣờng tự nhiên và xã hội của mình.
- Hai là, văn hóa có tính giá trị, nhƣng là những giá trị kết tinh lao động

sáng tạo của con ngƣời trên các bình diện hoạt động nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo
xã hội và cải tạo chính bản thân mình, hƣớng tới chân, thiện, mỹ. Nghĩa là hƣớng
tới sự tốt đẹp, nhân văn và không ngừng hoàn thiện của nhân loại. Nói đến văn
hóa không chỉ là nói đến những giá trị tĩnh, kết tinh ngƣng đọng, mà còn là sự vận
động, phát triển và hoàn thiện những giá trị ấy trong thời gian và không gian. Tính
giá trị của văn hóa là thƣớc đo mức độ nhân bản của xã hội và con ngƣời. Tính giá
trị là đặc trƣng quan tro ̣ng và cầ n để phân biê ̣t giá trị với phi giá tri ̣. Nhờ vào đă ̣c
trƣng giá tri, ̣ theo mu ̣c đích chúng ta có thể chia thành giá tri ̣vâ ̣t chất (phục vụ cho
nhu cầ u vâ ̣t chấ t) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thầ n).
Văn hóa vật chất hay còn gọi là văn hóa đảm bảo đời sống, thể hiện mối
quan hệ giữa con ngƣời với thiên nhiên, cách thích ứng với điều kiện tự nhiên để
tiến hành sản xuất ra của cải nuôi sống con ngƣời, thỏa mãn nhu cầu của con
ngƣời trong môi trƣờng tự nhiên và xã hội nhất định. Đó là những phƣơng tiện
kỹ thuật sản xuất và những sản phẩm thiết yếu cho cuộc sống phục vụ nhu cầu
ăn, ở mặc, phƣơng tiện đi lại. Những sáng tạo của con ngƣời trình sản xuất, cải
tạo tự nhiên không chỉ đƣợc thể hiện bằng những sản phẩm đƣợc vật chất hóa
nhằm thỏa mãn những nhu cầu đó của con ngƣời mà nó còn tạo ra sắc thái văn
hóa vùng, miền, dân tộc. (Tùy thuộc các điều kiện tự nhiên cũng nhƣ xã hội của
dân tộc... ).
Văn hóa tinh thầ n là nhƣ̃ng sản phẩ m lao đô ̣ng trí óc của con ngƣời đƣợc
sáng tạo trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại . Nó bao gồm các chuẩn
mực trong xã hội và quan hệ thẩm mỹ của con ngƣời với thực tại (tức là quan hệ
giữa con ngƣời với thiên nhiên, với con ngƣời... ) đồng thời còn bao hàm cả quan

15


hệ giữa con ngƣời của cõi sống và con ngƣời của cõi chết... Đƣợc thể hiện qua
các hoạt động sáng tạo nhƣ tôn giáo, tín ngƣỡng, nghệ thuật, nghi lễ, lễ hội... Giá
trị tinh thần còn bao gồm các tƣ tƣởng có giá trị sử dụng (khoa học, giáo dục…),

trong đó có cả bản thân cách thức sáng tạo ra các giá trị mà qua kinh nghiệm
ngàn đời, con ngƣời đã tích lũy đƣợc. Theo nghĩa này, văn hóa có thể đƣợc xem
nhƣ một dạng hoạt động. Tuy nhiên sự phân biệt này chỉ có tính chất tƣơng đối,
bởi ngay trong sản phẩm vật chất cũng luôn bao hàm trong đó cả những giá trị
tinh thần.
Đồng thời, dựa vào tính giá trị chúng ta còn có thể phân biệt văn hóa với
hậu quả của nó hoặc những hiện tƣợng phi văn hóa, loại ra những cách hiểu quá
rộng, quy về văn hóa mọi hoạt động của con ngƣời. Theo thời gian có thể phân
biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Trong các giá trị nhất thời lại có thể
phân biệt giá trị đã lỗi thời, giá trị hiện hành và giá trị đang hình thành. Nhờ
thƣờng xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện đƣợc chức năng quan
trọng thứ hai của mình là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì
đƣợc trạng thái cân bằng động của mình, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng
với những biến đổi của môi trƣờng nhằm tự bảo vệ để tồn tại và phát triển. Từ
việc điều chỉnh xã hội, văn hóa còn có chức năng bộ phận là định hướng các
chuẩn mực, điều chỉnh các ứng xử của con người và chức năng phái sinh là động
lực cho sự phát triển của xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà UNESCO nhấn mạnh
rằng văn hóa chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết của phát triển.
- Ba là, hình thành trong một quá trình và đƣợc tích lũy qua nhiều thế hệ,
nên văn hóa có tính lịch sử. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều
sâu và chính nó buộc văn hóa thƣờng xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và
phân bố lại các giá trị.
Tính lịch sử của văn hóa đƣợc duy trì bằng truyền thống văn hóa, đó là
những giá trị tƣơng đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dƣới
những khuôn mẫu xã hội đƣợc tích lũy và tái tạo trong cộng đồng ngƣời qua
không gian và thời gian và đƣợc cố định hóa dƣới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập
quán, nghi lễ, luật pháp, dƣ luận… Truyền thống văn hóa tồn tại đƣợc nhờ giáo

16



dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ ba của văn hóa. Nhƣng
văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định
(truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Các giá trị đã ổn
định và những giá trị đang hình thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con
ngƣời hƣớng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình
thành nhân cách ở con ngƣời.
Khái niệm văn hóa đƣợc tiếp cận từ hệ thống cấu trúc, chức năng nhƣ vậy
cho thấy, yếu tố hàng đầu của văn hóa chính là sự hiểu biết, bao gồm từ tri thức
kinh nghiệm đến tri thức khoa học và sự khôn ngoan mà con ngƣời, cộng đồng
ngƣời đã tích lũy đƣợc trong quá trình lao động sản xuất, học tập, rèn luyện ý
chí… để sinh tồn qua các thế hệ. Hiểu biết đó lại định hƣớng cho những ứng xử
của con ngƣời trong các mối quan hệ và trở thành nền tảng cho mỗi cộng đồng
ngƣời cũng nhƣ mỗi cá nhân trong cộng đồng đó. Để trên cơ sở đó con ngƣời có
thể xây dựng cho mình một kế hoạch kinh tế, một chiến lƣợc phát triển thực sự
vì con ngƣời, hƣớng con ngƣời tới những giá trị tốt đẹp, tới cái đúng, cái thiện…
trong cuộc sống.
Nhƣ vậy, văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi
mặt của cuộc sống (cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ cũng nhƣ
trong hiện đại. Do vậy, theo quan niệm chung, khái niệm văn hóa có thể đƣợc
định nghĩa nhƣ sau: “Văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần, đƣợc
hình thành, lƣu truyền và phát triển qua quá trình hoạt động thực tiễn của con
ngƣời, cộng đồng ngƣời trong sự tƣơng tác với môi trƣờng tự nhiên và xã hội”.
1.1.2. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Khẳng định, văn hóa là hê ̣ thố ng các giá tri ,̣ các truyền thống, các thị hiếu
và lối sống đƣợc các cộng đồng ngƣời sáng tạo nên qua lịch sử phát triển hàng
thế kỷ , dƣ̣a vào đó tƣ̀ng dân tô ̣c khẳ ng đinh
̣ bản sắ c riêng của mình , thì rõ ràng
văn hóa không hề đƣ́ng ngoài mà ngƣơ ̣c la ̣i nằ m ở trong , là “nguồn lực nội sinh
quan trọng nhất” [6] của sự phát triển kinh tế - xã hội.

Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, biểu hiện ở vai
trò của tất cả các yếu tố cấu thành văn hóa: khoa học, giáo dục - đào tạo, đạo đức

17


xã hội, thiết chế xã hội, phong tục, tín ngƣỡng, tri thức… và những kinh nghiệm
đƣợc tích lũy trong quá trình lao động sản xuất. Tất cả những yếu tố đó, có ảnh
hƣởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Là sản phẩm sáng tạo của con ngƣời, nhƣng văn hóa lại chi phối toàn bộ
hoạt động của con ngƣời. Văn hóa là “hoạt động sản xuất nhằm cung cấp năng
lƣợng tinh thần cho con ngƣời, làm cho con ngƣời ngày càng hoàn thiện, xa rời
trạng thái nguyên sơ ban đầu khi từ con vật phát triển thành con ngƣời. Con
ngƣời tồn tại, không chỉ cần những sản phẩm vật chất mà còn có nhu cầu hƣởng
thụ sản phẩm văn hóa tinh thần, con ngƣời và xã hội loài ngƣời càng phát triển
thì nhu cầu văn hóa tinh thần đòi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu văn hóa
tinh thần đó chính là đảm bảo sự phát triển ngày càng nhiều của cải vật chất cho
con ngƣời và xã hội” [2].
Dù ở thời kỳ nào, ở quốc gia nào còn ngƣời cũng đều đóng vai trò quyết
đinh
̣ đôi với quá trình sản xuấ t , mà con ngƣời trƣớc hế t la ̣i là mô ̣t thƣ̣c thể văn
hóa. Thƣ̣c tiế n đã chƣ́ng minh , sƣ̣ phát triể n của mỗi quố c gia không phải chỉ ở
tài nguyên thiên nhiên giàu có, đa da ̣ng mà quyế t đinh
̣ là ở sƣ̣ sáng ta ̣o, trí tuệ, tài
năng, đa ̣o đƣ́c của con ngƣời , ở trong hàm lƣợng và sự phân bố tài nguyên tri
thƣ́c trong cơ cấ u sản xuấ t . Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu
cuối cùng là văn hoá . Trong mỗi chính sách kinh tế - xã hội luôn bao hàm nội
dung và mục tiêu văn hoá. Văn hoá có khả năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của
con ngƣời - nguồn nhân lực quyết định sự phát triển xã hội . Điề u đó cho thấ y ,
văn hóa và kinh tế có quan hệ biện chứng với nhau . Trong đó , kinh tế vƣ̀a đảm

bảo cho những nhu cầu sinh tồn của con ngƣời , vƣ̀a ta ̣o điề u kiê ̣n cho văn hóa
phát triển. Kinh tế không thể phát triể n nế u không có mô ̣t nề n tảng văn h óa, còn
văn hóa không chỉ phản ánh kinh tế mà còn là nhân tố tác đô ̣ng đế n sƣ̣ phát triể n
kinh tế . Nói cách khác , sƣ̣ phát triể n của mỗi quố c gia , dân tô ̣c có năng đô ̣ng ,
hiê ̣u quả , bề n vững hay không phu ̣ thuô ̣c vào sƣ̣ kế t hợp hài hòa giữa kinh tế và
văn hóa.
Chính vì vậy, trong lễ phát đô ̣ng Thâ ̣p kỷ thế giới phát triể n văn hóa (1987
- 1997) Tổng thƣ ký UNESCO đã nói : “Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu

18


phát triển kinh tế mà tách khỏi môi trườn

g văn hóa , thì nhất định sẽ xảy ra

những mấ t cân đố i nghiêm trọng cả về kinh tế , lẫn văn hóa và tiề m năng sáng
tạo của nước ấy sẽ bị suy giảm rất nhiều” [77, tr.5].
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của văn hóa, ngay từ khi mới ra đời Đảng
ta đã quan niệm: văn hóa có khả năng to lớn góp phần giải phóng dân tộc, giải
phóng con ngƣời, cải tạo xã hội. Hiểu rõ biết đọc, biết viết là tiền đề của văn
hóa, là ngƣỡng cửa bƣớc vào văn hóa của một dân tộc trƣớc kia bị nô dịch, bị
kìm kẹp trong chính sách ngu dân, nên ngay sau khi Cách mạng tháng 8/1945
thành công Đảng ta và Bác Hồ đã nêu cao khẩu hiệu 3 chống; chống giặc đói,
chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm.
Vị trí, vai trò của văn hoá trong đời sống xã hội và đối với sự phát triển đã
đƣợc Đảng ta nhận thức càng ngày càng rõ hơn, sâu sắc hơn và thể hiện rõ trong
Văn kiện Đại hội VIII, và là quan điểm chỉ đạo cơ bản đƣợc xác định rõ trong
Nghị quyết Trung ƣơng V khóa VIII: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội" [19,

tr.110]. Hội nghị lần thứ 10, BCHTW Đảng khóa IX tiếp tục khẳng định: “Bảo
đảm gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn
Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của
XH; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết
định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nƣớc” [23]. Phát
huy vai trò nền tảng tinh thần xã hội của văn hóa là phải “làm cho văn hóa thấm
sâu vào từng khu dân cƣ, từng gia đình, từng ngƣời, hoàn thiện hệ giá trị mới của
con ngƣời Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc, và tiếp thu tinh
hoa văn hóa của loài ngƣời, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại.
Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt
của nhân dân” [24, tr.213].
Văn hóa “biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức phát triển, sức mạnh tiềm
tàng và bản lĩnh, cốt cách của dân tộc đƣợc thể hiện qua truyền thống văn hóa
dân tộc và hệ giá trị văn hóa” [6], là sự hiểu biết , là tri thức , kinh nghiê ̣m và sƣ̣
khôn ngoan tić h lũy đƣơ ̣c trong quá triǹ h ho ̣c tâ ̣p , lao đô ̣ng, đấ u tranh để duy trì ,

19


phát triển cuộc sống của con ngƣời; đó là hệ giá trị và chuẩn mực xã hội truyền
thống, đã đƣợc đúc kết từ trong lịch sử dân tộc, quốc gia, tạo nên bản sắc văn
hoá, là những nét riêng để phân biệt với các dân tộc khác, quốc gia khác. Bản sắc
dân tộc đó hình thành nên bản lĩnh tinh thần của cộng đồng dân tộc, của mỗi
quốc gia và hình thành nên niềm tin, lý tƣởng chung của cộng đồng, đƣợc chắt
lọc kế thừa phát huy và phát triển qua các thế hệ. Đƣợc vật chất hóa trong cấu
trúc thiết chế chính trị - xã hội và trong hoạt động sống để dân tộc đó, quốc gia
đó hƣớng tới. Điều đó cho thấy, khả năng phát triển của dân tộc không đơn thuần
chỉ dựa vào cơ sở vật chất mà cơ bản và chủ yếu là ở khả năng phát huy nguồn
lực của con ngƣời. Quan hệ giữa kinh tế và văn hóa đƣợc chỉ rõ trong Nghị
quyết Trung ƣơng V khóa VIII: “Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục

tiêu cuối cùng là văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con ngƣời phát triển
toàn diện, nhƣng văn hóa không chỉ là kết quả của kinh tế mà còn là và phải là
động lực của sự phát triển kinh tế” [20, tr.55]. Xét cho cùng, mọi sự phát triển
đều do con ngƣời quyết định mà văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng
cao, càng toàn diện con ngƣời và xã hội, làm cho con ngƣời và xã hội ngày càng
phát triển, tiến bộ. Với vai trò là mục tiêu của sự phát triển, văn hoá hƣớng vào
sự hoàn thiện của con ngƣời, điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời
bằng giá trị và chuẩn mực xã hội, bằng văn hoá. Văn hóa thúc đẩy, sự hoàn thiện
của con ngƣời cả về thể lực trí lực và nhân cách. Sự điều tiết đó phải hƣớng tới
mục đích nâng cao chất lƣợng cuộc sống, vì hạnh phúc của con ngƣời: nối dài
cuộc sống, an sinh xã hội, điều tiết sự công bằng xã hội. Một xã hội phát triển
cuối cùng sẽ dẫn đến một xã hội có văn hóa cao, tức là xã hội phải đảm bảo đƣợc
một cuộc sống đầy đủ, phong phú, giải phóng đƣợc mọi tiềm lực tuy duy và sáng
tạo, phát huy đƣợc mọi giá trị đạo đức. Bởi sự phát triển là nâng cao chất lƣợng
cuộc sống của con ngƣời trong sự kết hợp hài hòa trong điều kiện vật chất và
tinh thần.
Bản chất văn hóa là phát triển, là sáng tạo, nên văn hóa còn đóng vai trò
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bởi, phát triển mang tính đồng bộ, hệ
thống, nó biểu hiện bằng chất lƣợng sống. Ngày nay, trong mọi lĩnh vực của đời

20


sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, đang cho thấy: ở nhiều quốc gia phát
triển ngoài các nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật, cộng nghệ thì
tiềm năng sáng tạo của con ngƣời đang là nguồn lực chủ yếu. Vai trò đó biểu
hiện ở tâm lòng, đạo đức, hiểu biết, lối sống phù hợp… và ở hành vi của cá
nhân, của cộng đồng. Văn hoá phải làm bà đỡ cho sự ra đời của nền kinh tế tiên
tiến văn minh thông qua việc hoàn thành hệ thống pháp lý và đạo lý xã hội,
chống lại những tiêu cực phản giá trị, phản văn hoá. Phát huy vai trò điều tiết

phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nhân tố chủ quan và khách
quan, của các điều kiện bên trong và bên ngoài, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ổn định, bền vững. Trong việc phát triển nguồn lực khoa học công nghệ,
không chỉ là quá trình phát triển KHKT công nghệ mà cái chính là quá trình
chuyển đổi tƣ duy của cả một cộng đồng dân tộc, nâng cao tầm văn hoá và trình
độ văn hoá của dân tộc, là quá trình làm thay đổi lối sống, nếp sống của xã hội
cho phù hợp với sự phát triển của thời đại công nghiệp.
Con ngƣời là vốn quý nhất, song văn hoá lại có ý nghĩa làm cho tốt đẹp hơn
về đạo lý, đạo đức của con ngƣời. Con ngƣời làm ra văn hoá, nhƣng văn hoá hóa
con ngƣời, văn hoá phải làm tốt vai trò hình thành nhân cách - yếu tố cốt lõi trong
nguồn lực con ngƣời. Con ngƣời là nguồn lực vô hạn, nhƣng phải là con ngƣời có
văn hoá. Đúng nhƣ khẳng định của ĐCSVN: “Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây
dựng con ngƣời Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức, thể
chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, tôn trọng
nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và
ngoài xã hội. Văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con ngƣời tự hoàn thiện nhân
cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nƣớc, ý
chí tự lực tự cƣờng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [15, tr.114]. Với chức năng điều
tiết của mình, văn hoá phải luôn luôn làm cho con ngƣời sống tốt hơn, sống có đạo
lý, phẩm giá. Văn hoá làm cho con ngƣời bao giờ cũng sống cùng, sống với, sống
vì mọi ngƣời. Do vậy, văn hóa không chỉ phát huy mặt tích cực mà còn khắc phục
mặt hạn chế của các điều kiện chủ quan, khách quan, cũng nhƣ các điều kiện bên

21


trong và bên ngoài đảm bảo cho sự phát triển hài hòa, ổn định bền vững của xã
hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay.
Nhƣ vậy, văn hóa không thể thiế u vắng trong đô ̣ng lƣ̣c thúc đẩ y sƣ̣ phát
triể n kinh tế - xã hội. “Văn hoá, với sự thẩm thấu lẫn nhau cả vật chất lẫn tinh
thần, cả quá khứ - hiện tại và tƣơng lai, cả truyền thống và hiện đại, cả tinh thần,

bản sắc dân tộc với tinh hoa nhân loại, tinh thần và xu thế của thời đại, đó chính
là động lực của phát triển và phát triển bền vững” [4]. Với tƣ cách là tổng thể các
giá trị vật chất và tinh thần, trong đời sống xã hội văn hóa luôn luôn can thiệp
vào các quá trình xã hội thông qua sự đánh giá của tất cả các chủ thể xã hội, từ
các cá nhân riêng lẻ đến toàn bộ cộng đồng. Văn hóa là sự biểu hiện của cách
thức mà con ngƣời tồn tại, là tổng thể những giá trị mà con ngƣời đã, đang và sẽ
tạo ra, nên văn hóa không chỉ chi phối, tác động mà còn có khả năng quy định sự
phát triển của xã hội. Những bài học kinh nghiệm từ những thập kỷ qua trên toàn
thế giới đã chỉ ra rằng những phƣơng thức phát triển nào có tính đến yếu tố văn
hóa địa phƣơng và dân tộc thƣờng có khả năng thành công và ổn định cao hơn.
1.2. Vai trò văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số Lâm Đồng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh
Nế u nhƣ văn hóa dân tộc là cội nguồn của nội lực quốc gia và nó gắn bó
mật thiết với cuộc sống của con ngƣời, có vai trò rất quan trọng trong việc
quyết định tính dân tộc cũng nhƣ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế

- xã

hội, thì văn hóa bản địa các dân tộc thiểu số Lâm Đồng là một bộ phận và là
nét đặc trƣng trong văn hóa Việt , nó không c hỉ góp phần tạo nên tính đa dạng
phong phú cho bản sắ c văn hóa Viê ̣t mà

còn có vai trò hế t sƣ́c quan trọng . Vì

trình độ nhận thức , thƣởng thƣ́c văn hóa , giƣ̃ giǹ , phát huy vai trò văn hóa của
các tộc ngƣời bản địa không chỉ ảnh hƣởng đế n điạ phƣơng nơi ho ̣ cƣ trú mà còn
ảnh hƣởng đến toàn bộ công cuộc xây dựng đất nƣớc trên tất cả các lĩnh vực của
đời số ng xã hô ̣i . Ở đây đề tài dùng từ “bản địa” là để chỉ bộ phận cƣ dân gốc,
những cƣ dân đã cƣ trú lâu đời trên xứ sở này, và hệ thống giá trị văn hóa của
các cƣ dân đó, bao gồm cƣ dân của các tộc ngƣời: K‟Ho, Churu, Mạ, Mnông.


22


Các DTTS bản địa Lâm Đồng tuy có sự khác nhau về nguồn gốc và ngôn
ngữ, song ngay từ khi lựa chọn mảnh đất nam Tây Nguyên này làm địa bàn cƣ
trú, thì trong quá trình sinh sống chung trên cùng lãnh thổ , vừa có sự cộng cƣ
vừa có sự giao lƣu về văn hóa , họ cũng đồng thời tƣ̀ng bƣớc tạo dựng nên một
nền văn hóa đậm đà sắc thái bản địa, phù hợp với những điều kiện môi trƣờng
sinh thái mà họ cƣ trú cũng nhƣ trình độ nhận thức và các điều kiện kinh tế - xã
hội mà họ đạt đƣợc. Đó là hệ thống các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, biểu
hiện kết tinh của những hoạt động về sản xuất, về tƣ duy, về ứng xử xã hội và
ứng xử với tự nhiên trong không gian sinh tồn của các cƣ dân bản địa đƣợc lƣu
truyền và phát triển qua bao thế hệ.
1.2.1. Văn hóa vật chất và vai trò của nó
Để thích nghi với điều kiện môi trƣờng sống, đặc biệt là núi rừng trùng
điệp, sự chia cắt khắc nghiệt và với một số dân ít ỏi, thƣa thớt, văn hoá vật chất
của đồng bào các DTTS bản địa Lâm Đồng có những nét độc đáo riêng biệt, biểu
hiện ở:
Vai trò của phƣơng thức sản xuất nƣơng rẫy và tri thức kinh nghiệm.
Với nền nông nghiệp nƣơng rẫy, phƣơng thức sản xuất truyền thống của
đồng bào bản địa Lâm Đồng là trồng trọt, chăn nuôi và chiếm đoạt sản phẩm của
tự nhiên. Cƣ trú lâu đời trên vùng rừng núi cao, đa số trong các tộc ngƣời bản
địa, dựa vào rừng núi vây quanh để làm rẫy lúa theo thời vụ của nông lịch dân
gian: phát, đốt, chọc, trỉa… Canh tác nƣơng rẫy theo kiểu luân canh nhƣ vậy đòi
hỏi một không gian sinh tồn rộng, nên thói quen trong cuộc sống và sinh hoạt
của các DTTS bản địa Lâm Đồng là chuyển dịch thƣờng xuyên. Do vậy, nếp
sống của họ khá tạm bợ, sơ sài, ít nhiều hình thành nên thói quen tùy tiện và có
tập quán du canh, du cƣ. Tuy nhiên nét đặc trƣng lại là khả năng thích nghi
nhanh với cái mới và sự thay đổi. Cũng có một số nhóm ngƣời ở các tộc ngƣời

bản địa lại sống nhờ canh tác lúa nƣớc, những vẫn tiến hành phát nƣơng, làm rẫy
và khai thác rừng nhƣ là nguồn bổ sung cho đời sống (1). Rẫy của đồng bào dân

. Phần lớn cƣ dân tộc ngƣời Chu ru trồng lúa nƣớc, còn phát rừng làm rẫy cũng là một hoạt động
quan trọng, những đây chỉ là một hình thái kinh tế phụ [67, tr.26].
(1)

23


tộc bản địa là rẫy đa canh tức là vừa trồng cây lƣơng thực vừa trồng cây thực
phẩm. Lƣơng thực chính của các dân tộc này là lúa, bắp; thực phẩm thƣờng là
một số loại rau, đậu trồng quanh nhà hoặc bên rẫy xen với lƣơng thực, ngoài ra
một số rau, măng rừng cũng đƣợc họ hái về sử dụng trong mùa giáp hạt… Chăn
nuôi với đồng bào bản địa cũng là một hoạt động hỗ trợ đắc lực cho trồng trọt và
các hoạt động văn hóa phi vật thể khác. Các vật nuôi thƣờng là: trâu, heo, dê,
ngựa, gà, vịt... trong đó trâu, ngựa đƣợc nuôi chủ yếu để dùng làm sức kéo còn
các loại gia súc, gia cầm khác đƣợc dùng vào các nghi lễ của cộng đồng, nghi lễ
vòng đời và nhất là nghi lễ nông nghiệp. Kỹ thuật chăn nuôi của đồng bào chủ
yếu là theo kiểu nửa thả rông. Bên cạnh kinh tế sản xuất, đồng bào còn có kinh tế
chiếm đoạt biểu hiện chủ yếu là hái lƣợm và săn bắt, trong đó săn bắn giữ vị trí
quan trọng trong đời sống của họ nhất là vào những năm mất mùa hay là vào
những tháng giáp hạt.
Công cụ sản xuất của các cƣ dân bản địa Lâm Đồng, còn thô sơ nhƣng có
kiểu dáng phù hợp với sự di chuyển trên núi cao, trong rừng rậm. Đồ sắt phổ
biến có: rìu, xà gạc - một loại dao lƣỡi dài, cong, có cán bằng gỗ hoặc tre, cong ở
ngay chuôi dao để tiện mắc vào vai khi di chuyển, cán khá dài để tiện việc chặt
phát cành cao. Dụng cụ đào, xới thƣờng là cuốc chim có thể dùng cả hai đầu;
dụng cụ chọc lỗ là một cây gỗ dài vừa tay nắm, có đầu nhọn bịt sắt hoặc không;
dụng cụ vận chuyển chủ yếu là gùi đeo sau lƣng, đƣợc đan bằng tre hoặc mây

song. Có thể nói công cụ lao động của ngƣời dân các DTTS bản địa Lâm Đồng
tuy thô sơ song đó là những công cụ đa năng và có vai trò quan trọng trong đời
sống của đồng bào. Nó không chỉ sử dụng trong sản xuất mà còn đƣợc sử dụng
trong sinh hoạt gia đình, thời kỳ kháng chiến chống thực dân, đế quốc những
công cụ lao động thô sơ đó lại chính là vũ khí chống lại kẻ thù.
Nghề thủ công của các tộc ngƣời bản địa rất ít chủ yếu là: đan lát, dệt thổ
cẩm, kim hoàn, rèn sắt... thƣờng chỉ hoạt động trong những dịp nông nhàn, nhằm
tự cấp, tự túc cho cá nhân, gia đình. Sản phẩm của các nghề truyền thống mặc dù
cũng co trao đổi nhƣng không nhiều. Trong các nghề thủ công của các DTTS
Trong tộc ngƣời K‟Ho thì nhóm ngƣời Srê, ngƣời Lạt…phƣơng thúc canh tác chính là ruộng nƣớc
[34].

24


bản địa, nghề dệt thổ cẩm rất đa dạng, độc đáo, gây ấn tƣợng bởi cách phối màu
và đƣờng nét hoa văn. Ở mỗi tấm vải dệt không chỉ có giá trị về mặt vật chất, mà
sự dày công còn gắn với những giá trị tinh thần: dệt tặng cha mẹ, dệt tấm đắp
tặng chồng,... cũng nhƣ phát huy đƣợc truyền thống hiếu thuận, thủy chung của
ngƣời Việt. Đồng thời mối tấm thổ cẩm còn là sự phản ánh quan hệ giữa con
ngƣời với thiên nhiên ở cái mềm mại trong cách phối màu, vừa chứa đựng vẻ
hoang vu của rừng núi, lại vừa thể hiện sự sinh động của cuộc sống. Nghề ủ rƣợu
cần, một thức uống gắn bó từ lâu đời với ngƣời dân bản địa nơi đây, không còn
nằm trong khuôn khổ là một thức uống bình thƣờng, mà đã trở thành phƣơng
thức ứng xử văn hóa độc đáo đặc trƣng nhất của các dân tộc thiểu số Tây
Nguyên nói chung, dân tộc bản địa Lâm Đồng nói riêng (nhất là trong dịp lễ
hội). Rƣợu cần - một nghệ thuật ẩm thực đã trở thành yếu tố văn hóa đặc sắc
trong truyền thống văn hóa Lâm Đồng…
Có thể nói, nền nông nghiệp của các tộc ngƣời bản địa lâm Đồng là nền
nông nghiệp sơ khai, lệ thuộc vào thiên nhiên, lấy rừng và đất rừng làm đối

tƣợng khai thác để mƣu sinh. Trong sản xuất cái mà ngƣời dân các tộc ngƣời bản
địa ở Lâm Đồng thƣờng hƣớng nhƣ̃ng cố gắ ng của miǹ h vào là khâu kỹ thuâ ̣t
canh tác để giƣ̃ đô ̣ màu cho đấ t , hạn chế rửa trôi , giƣ̃ đô ̣ ẩ m cho đấ t , nhanh tái
sinh rƣ̀ng, khái thác những khác biệt của khí hậu địa phƣơng để phơi rẫy khi gặp
nắ ng và trỉa lúa khi trời mƣa, chứ họ không đi vào cải tiế n công cu ̣ sản xuấ t . Với
họ chiế c riu, xà gạc, cây cho ̣c lỗ, chiế c cuố c xới cỏ là những công cụ đã tồ n ta ̣i tƣ̀
bao đời nay, nên họ không quan tâm đến việc cải tiến nó. Phƣơng thức sinh hoạt
kinh tế truyền thống của các tộc ngƣời bản địa tuy có vai trò quan trọng trong
việc đảm bảo cho sự sinh tồn dù còn ở mức độ thấp, nhƣng nó phản ánh đúng
tính chất, trình độ thấp của lực lƣợng sản xuất.
Sống trong mối liên hệ mật thiết với môi trƣờng tự nhiên qua nhiều đời,
nhạy cảm với những thay đổi thời tiết hàng năm

, các tộc ngƣời bản địa Lâm

Đồng đã tích cóp đƣợc nhƣ̃ng tri thức về thiên nhiên tuy mới chỉ dừng lại dƣới
dạng kinh nghiệm dân gian , song nó có vai trò quan trọng đến sự ổn định cuộc
sống của họ và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở địa phƣơng. Đó là hệ

25


×