Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Công tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cảnh sát phòng cháy, chữa cháy ở Việt Nam hiện nay : Luận văn ThS. Triết học: 60 22 85

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
___________     ____________

NGUYỄN NGỌC QUỲNH

CÔNG TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
CẢNH SÁT PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội – 2011


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại khoa Triết học, trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, dưới sự hướng dẫn khoa
học của PGS.TS Phan Thanh Khôi.
Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đối với các thầy, cô khoa
Triết học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia
Hà Nội; đến gia đình và đồng nghiệp và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, khích
lệ trong suốt q trình học tập, hoàn thanh luận văn này; đặc biệt bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Phan Thanh Khơi đã tận tình
hướng dẫn, động viên tơi trong quá trình thực hiện luận văn này.

Hà Nội, ngày

tháng 4 năm 2011

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Nguyễn Ngọc Quỳnh


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phan Thanh Khôi. Các số liệu và kết quả
trong luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng và chưa từng cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.

Hà Nội, ngày tháng 4 năm 2011
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Ngọc Quỳnh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CAND : Công an nhân dân
CNH, HĐH : Cơng nghiệp hố, hiện đại hố
GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo
NNL : Nguồn nhân lực
PCCC : Phòng cháy chữa cháy
NCKH : Nghiên cứu khoa học
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
KTTT : Kinh tế thị trường
UBND : Ủy ban nhân dân
NQTW : Nghị quyết Trung ương
ILO : Tổ chức Lao động quốc tế
Nxb : Nhà xuất bản



MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TẦM QUAN TRỌNG VÀ VAI TRỊ CỦA CƠNG
TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CẢNH
SÁT PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
..................................................................................................................... 7
1.1. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy . 7
1.1.1. Các khái niệm cơ bản và các quy định về tổ chức của nguồn nhân
lực cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy ..................................................... 7
1.1.2. Những nhiệm vụ cơ bản góp phần phát triển đất nƣớc của nguồn
nhân lực cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy ........................................... 19
1.2. Vai trị của cơng tác giáo dục và đào tạo đối với nguồn nhân lực cảnh
sát Phòng cháy, chữa cháy ....................................................................... 32
1.2.1. Quan niệm về công tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực ..... 32
1.2.2. Cơng tác giáo dục và đào tạo có vai trị quan trọng đối với số
lƣợng, chất lƣợng nguồn nhân lực cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy.... 40
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ............................................................................ 50

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CẢNH SÁT PHÒNG CHÁY,
CHỮA CHÁY Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................... 51
2.1. Thực trạng của công tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cảnh sát
Phòng cháy, chữa cháy ở Việt Nam hiện nay .......................................... 51
2.1.1. Thành tựu và nguyên nhân của công tác GD&ĐT NNL cảnh sát
PCCC .................................................................................................. 52



2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế của công tác giáo dục và đào tạo
nguồn nhân lực cảnh sát Phòng cháy chữa cháy ................................. 77
2.2. Phƣơng hƣớng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục và đào tạo nguồn lực cảnh sát phòng cháy, chữa cháy ở
Việt Nam hiện nay .................................................................................... 84
2.2.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục và đào tạo
nguồn nhân lực cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy đến năm 2015 và tầm
nhìn 2020 ............................................................................................. 84
2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
và đào tạo nguồn nhân lực cảnh sát Phòng cháy chữa cháy ................ 87
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .......................................................................... 105
KẾT LUẬN .............................................................................................. 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................108
PHỤ LỤC....................................................................................................112


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, tiến hành CNH, HĐH
đất nước đã và đang là con đường tất yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội của
nhiều quốc gia trên thế giới. Để thực hiện mục đích đó phải huy động mọi
nguồn lực cần thiết (trong nước và ngồi nước), bao gồm: nguồn nhân lực,
nguồn lực tài chính, nguồn lực công nghệ, nguồn lực tài nguyên, các ưu thế và
lợi thế về vị trí địa lý, thể chế chính trị…vào những q trình trên. Tuy nhiên,
trong các nguồn lực đó, nguồn nhân lực (nguồn lực con người) là yếu tố quan
trọng nhất, quyết định các nguồn lực khác.
Ở Việt Nam hiện nay, phát triển kinh tế thị trường, tăng cường hội nhập
quốc tế và đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao
đối với công tác GD&ĐT NNL, đặc biệt là NNL cảnh sát PCCC . Cùng với quá

trình phát triển, những ảnh hưởng sâu sắc của kinh tế thị trường đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ngày càng đậm nét, đồng thời với những biến đổi
của khí hậu ngày càng phức tạp, từ đó nguy cơ gây cháy, nổ cũng không
ngừng gia tăng và tác động trực tiếp đến nền kinh tế và ổn định xã hội của
nước ta. Vậy để, phát triển kinh tế - xã hội hiệu quả, bền vững và đúng định
hướng XHCN thì việc nâng cao vai trị của cơng tác GD&ĐT NNL cảnh sát
PCCC đã và đang là vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Từ thực tế cho thấy, trong những năm qua và hiện nay Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đã quan tâm đến công tác GD&ĐT NNL cảnh sát PCCC nên
đã tăng cả về số lượng, chất lượng và có sự biến đổi mạnh về cơ cấu tổ chức
và quy mô lực lượng..v.v…Tuy vậy, với yêu cầu ngày càng cao của công
Theo Quyết định số 586/QĐ-BCA, ngày 23/2/2010 của Bộ trưởng Bộ Công an Về việc đổi tên lực lượng
cảnh sát PCCC thành lực lượng cảnh sát PCCC và cứu nạn, cứu hộ: Ở Trung ương có Cục cảnh sát PCCC
[ký hiệu C66] và ở địa phương có Sở cảnh sát PCCC thành phố Hồ Chí Minh và 62 Phịng cảnh sát PCCC
thuộc Cơng an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [ký hiệu PC66].

1


cuộc phát triển kinh tế - xã hội và quá trình hội nhập quốc tế thì cơng tác
GD&ĐT NNL cảnh sát PCCC còn nhiều bất cập như: chất lượng còn chưa
đáp ứng được so với những đòi hỏi của phát triển kinh tế – xã hội; số lượng
cịn ít; cơ cấu còn chưa cân đối giữa các ngành đào giữa các vùng, miền; cơ
chế, chính sách sử dụng, sắp xếp, bố trí NNL này cịn chưa phù hợp, chưa
thoả đáng; việc đầu tư kinh phí để xây dựng NNL cảnh sát PCCC còn thấp,
chưa tương xứng với vai trò và vị thế của NNL này…. Chính vì vậy, việc
nâng cao vai trị cơng tác GD&ĐT NNL cảnh sát PCCC đang đặt ra là hết sức
quan trọng và cần thiết.
Để thực hiện mục đích trên, có nhiều con đường, cách thức và biện
pháp khác nhau đã được áp dụng nhưng trong đó, cơng tác GD&ĐT NNL

cảnh sát PCCC được coi là hoạt động chủ yếu, quyết định.
Từ những lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Công tác
giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cảnh sát phòng cháy, chữa cháy ở Việt
Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm qua, vấn đề nguồn lực nói chung, nguồn nhân lực và nguồn
nhân lực cảnh sát PCCC nói riêng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu bàn đến và dưới các khía cạnh khác nhau. Cụ thể là:
2.1. Nghiên cứu về lý luận và thực tiễn nguồn nhân lực ở Việt Nam
Nghiên cứu lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp, chiến lược….để
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phù hợp với những đòi hỏi của thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã thu hút được nhiều sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học ở các cấp, các ngành khác nhau, trong đó nổi lên có một
số đề tài sau: Từ năm 1991 đến năm 1995, đề tài khoa học cấp nhà nước KX07 “Con ngƣời Việt Nam – mục tiêu và động lực phát triển kinh tế - xã hội”
do GS.TS Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm; từ năm 2001 đến 2005 thực hiện
chương trình KX.05 “Phát triển văn hố, con ngƣời và nguồn nhân lực trong

2


thời kỳ CNH, HĐH” do GS.TS Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm, trong đó có
một số đề tài nhánh sau: KX 05-01 “Cơ sở phƣơng pháp luận của việc nghiên
cứu và phát triển văn hoá, con ngƣời và nguồn nhân lực trong điều kiện
KTTT, tồn cầu hố và hội nhập quốc tế” do PGS.TS Hồ Sĩ Quý chủ trì; KX
05-11 “Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nânng cao hiệu quả quản lý và sử
dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH” do PSG.TS Phạm Thành Nghị chủ
trì. Ngồi ra cịn có nhiều đề tài cấp bộ như: “Các chính sách khuyến khích
đào tạo lao động cho khu vực cơng nghệ cao và các ngành kinh tế mũi nhọn”
do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (chủ trì) và Viện Khoa học Lao động
và các vấn đề xã hội là đơn vị thực hiện. Đề cập đến các vấn đề này cịn có

luận án sau: “Sử dụng NNL trong q trình CNH, HĐH ở nƣớc ta” của TS
Trần Kim Hải; “Phát triển NNL phục vụ CNH, HĐH” của TS Nguyễn
Thanh; “Phát triển NNL thông qua GD&ĐT: kinh nghiệm Đông Á” của TS
Lê Thị Ái Lâm…Xung quanh vấn đề này đã thu hút hàng trăm bài báo, báo
cáo khoa học đề cập đến vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau của các nhà
khoa học trong cả nước như: Nguyễn Duy Quý, Lê Hữu Tầng, Nguyễn Trọng
Chuẩn, Nguyễn Ngọc Long, Phan Thanh Khơi, Đặng Hữu Tồn, Phạm Văn
Đức, Đồn Văn Khái, …
2.2. Nghiên cứu về lý luận và thực tiễn nguồn nhân lực cảnh sát phòng
cháy, chữa cháy ở Việt Nam
Trong những năm vừa qua, lĩnh vực PCCC nói chung, cơng tác
GD&ĐT NNL cảnh sát PCCC nói riêng đã được nhiều tác giả, nhiều nhà
khoa học quan tâm, nghiên cứu và đề cập trong các cơng trình khoa học khác
nhau, dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng được đánh giá cao cả về lý luận
và thực tiễn thì có các cơng trình khoa học sau: Đề tài khoa học cấp bộ “Một
số giải pháp nâng cao nâng cao hiệu quả hoạt động PCCC trong các cơ sở
sản xuất công nghiệp ở nƣớc ta hiện nay” do TS Nguyễn Ngọc Sơn làm chủ
nhiệm; đề tài khoa học cấp bộ “Những giải pháp đảm bảo chất lƣợng đào tạo

3


đại học PCCC” do Th.s Vũ Văn Bình làm chủ nhiệm; đề tài khoa học cấp bộ
“Những cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định nhu cầu nhân lực và tổ chức
đào tạo cán bộ PCCC cho các ngành, đoàn thể và các tổ chức kinh tế - xã
hội” do TS Đào Quốc Hợp làm chủ nhiệm. Cũng vấn đề này có một số luận
án và đề tài cấp cơ sở nổi lên như: Luận án “Dịch vụ PCCC – một loại hàng
hóa cơng cộng trong nền KTTT hiện nay ở nƣớc ta” của TS Nguyễn Quang
Thứ; đề tài cấp cơ sở “Dịch vụ PCCC trong nền KTTT và yêu cầu đối với việc
đào tạo NNL làm công tác PCCC ở nƣớc ta từ nay đến năm 2020” do TS

Nguyễn Quang Thứ làm chủ nhiệm. Ngồi ra cịn có rất nhiều bài báo, báo
cáo khoa học chuyên đề nghiên cứu về vấn đề này như: “Đổi mới công tác
đào tạo, NCKH trong lĩnh vực PCCC đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ
CNH, HĐH đất nƣớc” của Lê Thế Tiệm (Thứ trưởng Bộ Cơng an. Tạp chí
Khoa học và Giáo dục PCCC, số 3, tháng 1/2009, tr. 6-8); “Tăng cƣờng hợp
tác quốc tế trên lĩnh vực PCCC trong tình hình mới” của Trần Đại Quang
(Thứ trưởng Bộ Cơng an. Tạp chí PCCC, số 7, tháng 2/2010, tr.6-7); “Thực
trạng và các giải pháp tăng cƣờng sự gắn kết NCKH, đào tạo và thực tiễn
chiến đấu của lực lƣợng” của Đỗ Ngọc Cẩn (Tạp chí PCCC, số 7, tháng
2/2010, tr.8-9); “Một số suy nghĩ về xây dựng lực lƣợng cảnh sát PCCC đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới” Nguyễn Mạnh Hà (Tạp chí khoa
học và giáo dục PCCC, số 5, tháng 9/2009, tr. 14-15; Nâng cao chất lƣợng
đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới” của Đặng Văn Hiếu
(Thứ trưởng Bộ Cơng an, tạp chí PCCC số 01/2010, tr.8-9)…
Kế thừa các kết quả nghiên cứu trên, nhưng tác giả tập trung đi sâu vào
phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn cơng tác GD&ĐT NNL cảnh sát
PCCC, từ đó đề xuất các phương hướng và giải pháp để xây dựng NNL cảnh
sát PCCC đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước. Kết quả của luận văn góp
phần làm hồn chỉnh hơn cho các hoạt động của lĩnh vực PCCC, đặc biệt là
việc bổ sung lực lượng cảnh sát PCCC trong giai đoạn hiện nay. Đây là một
đề tài không trùng lặp với các cơng trình đã được cơng bố.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ các vấn đề lý luận về NNL, GD&ĐT NNL, thực trạng
công tác GD&ĐT NNL cảnh sát PCCC ở nước ta, luận văn đề xuất những
phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác GD&ĐT NNL

cảnh sát PCCC đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
3.2. Nhiệm vụ:
Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận về nguồn lực, nguồn nhân lực,
nguồn nhân lực cảnh sát PCCC; phân tích một số hoạt động của cảnh sát
PCCC ở nước ta hiện nay, làm rõ được vai trò quan trọng của công tác
GD&ĐT đối việc phát triển NNL cảnh sát PCCC trong giai đoạn hiện nay của
đất nước.
Thứ hai, nghiên cứu và đánh giá thực trạng của công tác GD&ĐT
nguồn nhân lực cảnh sát PCCC ở nước ta những năm qua.
Thứ ba, nghiên cứu xây dựng phương hướng và đề xuất một số giải
pháp nâng cao hiệu quả của công tác GD&ĐT NNL cảnh sát từ năm 2015 tầm
nhìn 2020.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: công tác GD&ĐT NNL cảnh sát PCCC
4.2. Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu và làm rõ vai trò quan trọng của
cơng tác GD&ĐT NNL cảnh sát PCCC trong q trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Tuy nhiên tập trung khảo sát vấn đề GD&ĐT NNL cảnh sát
PCCC từ năm 1999 đến năm 2010 tại Trường Đại học PCCC, Sở cảnh sát
PCCC thành phố Hồ Chí Minh và các Phịng cảnh sát PCCC thuộc Cơng an
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

5


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: được thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nhà nước ta.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: quá trình thực hiện tác giả đã sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích và tổng hợp, tổng kết thực
tiễn, đối chiếu và so sánh, lịch sử và lơgíc, thống kê, điều tra, khảo sát, hệ

thống hóa..v.v..
6. Đóng góp mới về mặt khoa học
Thứ nhất, đã làm rõ được khái niệm NNL cảnh sát PCCC và tầm quan
trọng của NNL cảnh sát PCCC đối với quá trình phát triển của đất nước.
Thứ hai, khảo sát, phân tích vai trị và đề xuất được một số giải pháp để
nâng cao hiệu quả công tác GD&ĐT NNL cảnh sát PCCC từ 2010 đến 2020.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Những kết quả đạt được góp phần làm cơ sở khoa học cho việc hoạch
định các phương hướng, chiến lược, chính sách để nâng cao hiệu quả công tác
GD&ĐT NNL cảnh sát PCCC trong nền KTTT định hướng XHCN và hội
nhập kinh tế quốc tế ở nước ta. Đồng thời, được dùng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền về PCCC các chuyên đề liên
quan đến vấn đề NNL cảnh sát PCCC trong quá trình hội nhập ở nước ta.
8. Kết cấu
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
Mục lục, luận văn chia ra thành 2 chương (4 tiết)
Chương 1: Tầm quan trọng và vai trị của cơng tác giáo dục và đào tạo
nguồn nhân lực cảnh sát phòng cháy, chữa cháy ở Việt Nam hiện nay
Chương 2: Thực trạng, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cảnh sát phòng cháy, chữa cháy
ở Việt Nam hiện nay

6


Chƣơng 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ VAI TRỊ CỦA CƠNG TÁC GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CẢNH SÁT PHÒNG CHÁY,
CHỮA CHÁY Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Tầm quan trọng của nguồn nhân lực cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy

1.1.1. Các khái niệm cơ bản và các quy định về tổ chức của nguồn
nhân lực cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy
Phát triển con người vừa là động lực vừa là mục tiêu cao nhất trong tiến
trình phát triển của mỗi quốc gia và nó đã trở thành xu hướng chung của
nhiều nước trên thế giới. Thực chất của việc phát triển NNL là q trình làm
cho con người thích ứng được với các yêu cầu mới của xã hội, nâng cao hiệu
quả công việc, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, chức năng của mình... Xét đến
cùng, để phát triển NNL có hiệu quả, phục vụ tốt cho q trình phát triển đất
nước thì sự nghiệp này cần được đưa vào trong chiến lược phát triển kinh tếxã hội; hơn nữa, phải đặt ở vị trí trung tâm của mọi chiến lược chung của đất
nước. Đối với Việt Nam, trên cơ sở nhận thức sâu sắc vị trí, vai trị và ý nghĩa
quan trọng của công tác xây dựng NNL trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước, trong đó ngồi việc phát triển mạnh NNL của lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh thì hoạt động phát triển NNL tham gia vào quá trình gìn giữ, bảo
vệ con người và thành quả cho q trình lao động đó cũng đang được đặt ra
và cần phải đổi mới, mà lực lượng cảnh sát PCCC là một bộ phận quan trọng,
đặc thù trong lực lượng này [25, 47].
Để nhìn nhận và khẳng định tầm quan trọng, vai trị và vị trí của NNL
cảnh sát PCCC trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cũng như việc giữ
vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an toàn cháy, nổ và bảo
vệ tính mạng và tài sản của nhân dân,...chúng ta phải có những nhận thức
chung về nguồn lực, NNL và NNL cảnh sát PCCC.

7


1.1.1.1. Khái niệm nguồn lực, nguồn nhân lực, nguồn nhân lực cảnh sát
Phòng cháy, chữa cháy
- Khái niệm nguồn lực: cho đến nay các cơng trình nghiên cứu, các bài
viết về nguồn lực rất phong phú, dưới nhiều hình thức và quan điểm khác
nhau. Qua tìm hiểu nguồn lực có thể được hiểu dưới dạng tổng quát như sau:

nguồn lực là toàn bộ các yếu tố vật chất lẫn tinh thần đã, đang và sẽ tạo ra sức
mạnh cho sự phát triển và trong những điều kiện thích hợp nó sẽ thúc đẩy quá
trình cải biến xã hội của một quốc gia dân tộc. Hơn nữa, nguồn lực có phạm
vi bao quát rộng, hàm chứa không chỉ những yếu tố mới dưới dạng sức mạnh
tiềm năng; khơng chỉ nói lên sức mạnh mà còn chỉ ra nơi bắt đầu, nơi phát
sinh hoặc nơi cung cấp sức mạnh; phản ánh không chỉ số lượng mà còn cả
chất lượng các yếu tố, đồng thời nói lên sự biến đổi khơng ngừng của các yếu
tố đó [26, 60]. Đồng thời, nguồn lực được hiểu “là tổng thể vị trí địa lý, các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn nhân lực,
đường lối chính sách, vốn và thị trường...ở cả trong nước và nước ngồi có
thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế của một lãnh thổ
nhất định”. Theo quan điểm của các nhà biên soạn Giáo trình chủ nghĩa xã
hội khoa học, do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì cho rằng: nguồn lực “là hệ
thống các nhân tố mà mỗi nhân tố đó có vai trị riêng nhưng có mối quan hệ
với nhau tạo nên sự phát triển của sự vật, hiện tượng nào đó” [9, 271]...
Việc phân loại nguồn lực tuỳ thuộc vào cách xác định các tiêu chí và
xem xét chúng trong mối quan hệ xác định: theo quan hệ chủ thể, khách thể
thì có nguồn lực chủ quan (con người) và nguồn lực khách quan (tài nguyên
thiên nhiên, vị trí địa lý, vốn trong nước và nước ngồi...); theo quan hệ bên
trong (nội lực) bao gồm con người, vốn trong nước, cơ sở vật chất-kỹ thuật,
tài nguyên thiên nhiên, vị trí điạ lý...) - bên ngồi (ngoại lực) có vốn, kinh
nghiệm quản lý, tài nguyên thiên nhiên, con người, công nghệ, thị trường....

8


Từ những nhìn nhận đó, nguồn lực được hiểu “là toàn bộ các yếu tố vật
chất lẫn tinh thần đã, đang sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong
những điều kiện thích hợp thúc đẩy q trình cải biến xã hội của một quốc
gia, dân tộc”

Như vậy, các tiêu chí để xem xét đánh giá về nguồn lực rất phong phú
và đa dạng, các nguồn lực cũng rất phong phú, trong đó nguồn nhân lực được
coi là nguồn lực quan trọng nhất và có tác động đến nhiều nguồn lực khác.
- Khái niệm nguồn nhân lực:
Khái niệm NNL được sử dụng vào những năm 60 của thế kỷ XX ở
nhiều nước phương Tây và một số nước châu Á và giờ đây nó được sử dụng
rộng rãi trên thế giới. Ở Việt Nam, khái niệm này bắt đầu được sử dụng
khoảng thập niên 90 của thế kỷ XX, tuy nhiên, đến nay vấn đề NNL đã được
nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau và cơ
bản chưa hoàn toàn thống nhất. Vấn đề NNL được phát biểu dưới hai khía
cạnh sau:
Nghiên cứu nguồn nhân lực dƣới góc độ là yếu tố có vai trị quan trọng
tham gia vào q trình thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
Để phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia phải dựa trên nhiều
nguồn lực: nguồn lực con người, nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính, vị
trí địa lý, tài ngun thiên nhiên…trong các nguồn lực đó thì nguồn nhân lực
là yếu tố quan trọng nhất và nó tạo ra động lực cho sự phát triển nói chung
cho sự phát triển của các nguồn lực khác. Bởi vì, vị trí địa lý, tài nguyên thiên
nhiên là những nguồn lực tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển
của đất nước. Nhưng thực tế lại cho thấy chúng lại phụ thuộc vào khả năng
khai thác của con người. Ở một số nước, điều kiện tự nhiên rất thuận lợi và là
nhân tố làm cho đất nước giàu mạnh; nhưng ở một số nước khác, với điều
kiện tự nhiên cũng tương tự, hoặc còn thuận lợi hơn mà đất nước đó ngày
càng kiệt quệ, nghèo nàn và tài nguyên ngày càng cạn kiệt. Nguyên nhân của

9


tình trạng đó là do việc phát huy chưa tốt nguồn lực con người. Mặt khác, tiền
tệ cũng là nhân tố quan trọng cho bất cứ sự phát triển của một quốc gia nào.

Nhưng như C.Mác đã khẳng định tiền chỉ trở thành tư bản thông qua sức lao
động của cơng nhân.
Khẳng định NNL có vị trí quan trọng đối với q trình phát triển kinh
tế - xã hội cịn có các quan điểm sau:
Theo nghĩa rộng, NNL được hiểu là nguồn lực con ngƣời (Human
resources) của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận của các
nguồn lực có khả năng huy động, quản lý để tham gia vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Theo quan niệm của liên hợp quốc, cho rằng NNL là tất cả
những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con ngƣời có quan hệ tới sự phát
triển của đất nƣớc; Theo GS.TSKH Phạm Minh Hạc khẳng định, NNL là
tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là
người lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia
một cơng việc lao động nào đó, tức là người lao động có kỹ năng (khả năng
nói chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH, HĐH” [19, 269]. Theo PGS.TS Dương Văn Thịnh
cho rằng: “NNL là tổng thể những yếu tố quy định sức mạnh của con người
trong quá trình con người họat động cải tạo tự nhiên và xã hội, là tổng thể số
lượng dân, chất lượng con người, cơ cấu kết hợp con người, tính tổ chức kỷ
luật của con người, truyền thống văn hóa, gia đình và hệ thống giáo dục mà
con người có thể vận dụng vào trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội”[45,
40]. Cũng theo nghĩa này, các tác giả của chương trình khoa học – cơng nghệ
cấp nhà nước: “Con người Việt Nam – mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội” (Mã số KX 07) đã định nghĩa: “NNL được hiểu là số dân và
chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ,
năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc”[17, 19]. Đối với một
số nhà khoa học của trường Đại học Kinh tế quốc dân khẳng định NNL thông

10



qua GD&ĐT là: “Hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động có thể
thực hiện có hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình; là hoạt động học
tập để chuẩn bị cho con người bước vào một nghề nghiệp hoặc chuyển sang
một nghề mới thích hợp hơn trong tương lai; là hoạt động học tập vượt qua
khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ
những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai của tổ chức
hoặc phát triển khả năng nghề nghiệp của họ”[18, 47].
Qua các quan niệm trên thấy rằng, dù là có điều kiện tự nhiên, vị trí địa
lý thuận lợi, vốn, khoa học kỹ thuật....Nhưng nếu không biết phát huy tốt các
khả năng của con người trong quá trình lao động thì những lợi thế trên cũng
chỉ là ở dạng tiềm năng, nó chỉ có vai trị quan trọng khi chúng ta gắn nó với
các hoạt động thực tiễn của xã hội.
Theo nghĩa hẹp, NNL được hiểu như là nguồn lao động hay nguồn
nhân lực xã hội, lực lượng lao động. Đó là một bộ phận dân số trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động. Theo cách đánh giá này có một số quan niệm
cơ bản sau: đầu tiên, giáo trình Kinh tế lao động của Trường Đại học Kinh tế
quốc dân cho rằng, NNL đó chính là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội,
bao gồm toàn bộ dân cƣ có cơ thể phát triển bình thƣờng; hay là tổng hợp cá
nhân những con người cụ thể tham gia vào q trình lao động, là tồn bộ các
yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Một số
quan điểm khác lại cho rằng, với tƣ cách là yếu tố của sự phát triển kinh tế xã hội, là khả năng lao động của xã hội NNL bao gồm nhóm dân cƣ trong độ
tuổi lao động có khả năng lao động...
Nghiên cứu nguồn nhân lực trên hai bình diện số lƣợng, chất lƣợng
Về số lượng nguồn nhân lực, được xác định dựa trên các yếu tố sau:
quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, giới tính và sự phân bố theo khu vực, ngành và
vùng lãnh thổ của dân số. Ở nước ta, số lượng nguồn nhân lực được xác định
bao gồm tổng số người trong độ tuổi lao động (Nam: 15 đến 60; Nữ: 15 đến

11



55), người lao động phải ít nhất đủ 15 tuổi và được hưởng chế độ hưu trí hàng
năm khi có đủ điều kiện về tuổi đời (Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi) và thời
gian đóng bảo hiểm xã hội (20 năm trở lên). Đây là lực lượng lao động tiềm
năng của nền kinh tế - xã hội [19, 19].
Về chất lượng, nguồn nhân lực là tổng thể những nét đặc trưng phản
ánh bản chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động lao động sản xuất
và phát triển con người trong xã hội. Do vậy chất lượng nguồn nhân lực bao
gồm: Tình trạng sức khoẻ, trình độ văn hố, trình độ chun mơn và năng lực
phẩm chất… Chất lượng nguồn nhân lực liên quan trực tiếp đến nhiều vấn đề
như: đảm bảo dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và đào tạo, lao động,
việc làm gắn với tiến bộ khoa học kỹ thuật, trả công lao động và các mối quan
hệ xã hội khác. Như GS.TS Hồng Ngọc Hịa khẳng định: “Chất lượng NNL
là năng lực, trình độ về thể lực, trí lực, tinh thần, thái độ, tác phong và đạo
đức của các thành viên hợp thành NNL” [21, 35]
Bên cạnh những khái niệm về NNL trên, cịn có một số khái niệm liên quan
đến NNL như: nhân lực, sức lao động, nguồn lao động, lực lƣợng lao động.
Nhân lực là nguồn lực về con người, con người là nhân tố trung tâm và
là mục đích của nền sản xuất xã hội. Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí
lực của con người, nó phản ánh khả năng lao động của con người và là điều
kiện tiên quyết của mọi quá trình lao động xã hội. Quá trình vận động, phát
triển của xã hội, địi hỏi sức lao động ngày càng phải có chất lượng cao hơn.
Điều này đã được C.Mác khẳng định “sức lao động hay năng lực lao động là
toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một
con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó”[27, 217-218]. Nguồn lao động được hiểu là toàn
bộ dân số trong độ tuổi lao động trừ đi những người trong độ tuổi này hoàn
toàn mất khả năng lao động. Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu tại Tổng
cục Thống kê lại cho rằng: nguồn lao động là những người trong độ tuổi lao


12


động có khả năng lao động và những người ngồi tuổi lao động đang làm việc
trong các ngành kinh tế quốc dân. Còn đối với lực lƣợng lao động là khái
niệm hẹp hơn so với nguồn lao động. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO),
lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có
tham gia lao động và những người khơng có việc làm đang tích cực tìm kiếm
việc làm.
Tóm lại, nguồn nhân lực là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất và tinh
thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội…tạo thành năng lực của
con ngƣời, của cộng đồng ngƣời có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc và trong những hoạt động xã hội khác.
- Khái niệm nguồn nhân lực cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy
Cũng như các NNL khác, cảnh sát PCCC là một bộ phận của NNL nói
chung trong xã hội và ngày càng có những đóng góp rất to lớn cho quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là lực lượng thuộc Bộ Công an và
đảm nhiệm những nhiệm vụ rất đặc thù như: tham mưu đề xuất với cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các quy định
pháp luật về PCCC; tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, huấn luyện, bồi
dưỡng nghiệp vụ, kiến thức về PCCC; hướng dẫn xây dựng phong trào quần
chúng tham gia hoạt động PCCC; thực hiện các biện pháp PCCC kịp thời khi
có cháy xảy ra; xây dựng lực lượng PCCC; trang bị và quản lý phương tiện
PCCC; tổ chức nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong
lĩnh vực PCCC; kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về phòng
PCCC; tham gia cứu nạn, cứu hộ trên biển, sông nội địa và đường bộ trên
phạm vi cả nước (khi có yêu cầu)....
Hơn nữa, lực lượng cảnh sát PCCC cịn có vai trị quan trọng trong quá
trình xây dựng và phát triển của đất nước. Thực hiện tốt nhiệm vụ của mình
cảnh sát PCCC sẽ góp phần khơng nhỏ vào sự thành cơng của quá trình phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời lực lượng cảnh sát PCCC còn

13


đảm nhiệm một số nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, giữ gìn trật tự an tồn
xã hội và bảo vệ các thành quả lao động của xã hội. Lực lượng cảnh sát PCCC
còn là lực lượng chuyên trách về cơng tác PCCC cơng việc này địi hỏi q
trình tuyển dụng và đào tạo phải rất khoa học, bài bản. Vì vậy, những người
tham gia học tập ngành này được tuyển lựa rất khắt khe (kĩ lưỡng) và phải
đảm bảo có sức khỏe tốt, có phẩm chất đạo đức trong sạch, chấp hành tốt chủ
trương, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước và chính
sách của địa phương....NNL này được đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện tại
Trường Đại học PCCC, Sở cảnh sát PCCC thành phố Hồ Chí Minh và các
Phịng cảnh sát PCCC các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với nhiều hệ
đào tạo, bồi dưỡng và chuyên ngành khác nhau.
Từ những quan điểm trên, NNL cảnh sát PCCC có thể được hiểu như
sau: NNL cảnh sát PCCC là những ngƣời Công an nhân dân, hoạt động trên
cơ sở kiến thức chuyên sâu về ngành PCCC, giữ vững an ninh quốc gia, trật
tự an tồn xã hội; có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức tốt, tin tƣởng
tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc; là lực lƣợng
có vai trị, vị trí quan trọng đối với quá trình phát triển của đất nƣớc.
1.1.1.2. Các quy định về tổ chức bộ máy của cảnh sát Phòng cháy,
chữa cháy
Ở Việt Nam cảnh sát PCCC là một lực lượng thuộc Bộ Công an quản lý,
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của mình theo đúng quy định
của pháp luật hiện hành. Cũng như các cơ quan, tổ chức khác thuộc quản lý của
Nhà nước, “bộ máy” của lực lượng cảnh sát PCCC cũng được xây dựng trên cơ
sở Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Theo nghị quyết của Quốc Hội số 27/2001/QH10, ngày 29/6/2001 và

Lệnh số 08/2001/L-CTN ngày 12 tháng 7 năm 2001 của Chủ tịch nước của nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về việc cơng bố “Luật Phịng cháy và
chữa cháy” đã quy định: Lực lượng Phòng cháy và chữa cháy bao gồm: Lực

14


lƣợng cảnh sát PCCC; lực lượng PCCC cơ sở; lực lượng dân phòng và lực
lượng PCCC chuyên ngành.
Cảnh sát PCCC là đơn vị thuộc lực lượng CAND, trong đó ở Trung
ương có 2 đơn vị, đó là Cục cảnh sát PCCC thuộc Tổng cục Cảnh sát và
Trường Đại học PCCC chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng cục Xây dựng lực
lượng CAND.
Ở cấp tỉnh, Sở cảnh sát PCCC thành phố Hồ Chí Minh là một đơn vị độc
lập, được thí điểm thành lập theo Quyết định số 719/QĐ-TTg, ngày 15/5/2006
của Thủ tướng Chính phủ, trực thuộc Bộ Cơng an và có quan hệ cơng tác với
Tổng cục Cảnh sát; Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND và Cục cảnh sát
PCCC theo quy chế riêng của Bộ Công an. Hiện nay ở nước ta có 62 Phịng cảnh
sát PCCC thuộc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Dưới các
Phòng cảnh sát PCCC thuộc Sở và Phòng cảnh sát PCCC thuộc Công an địa
phương, là các đội Nghiệp vụ và các đội chữa cháy Chuyên nghiệp được bố trí ở
trung tâm tỉnh lỵ và ở những khu vực, địa bàn trọng điểm về PCCC.
Ở cấp huyện, thực hiện chủ trương của Bộ Công an về việc phân công
và phân cấp nhiệm vụ PCCC cho Công an cấp huyện, hiện nay đã bố trí một
số cán bộ được đào tạo nghiệp vụ PCCC về công tác tại huyện. Tuy nhiên,
vấn đề này mới chỉ thực hiện được ở một số địa bàn trọng điểm và những cán
bộ đó thuộc đội cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội, nên trong thực
tế công tác phải đảm nhiệm về chun mơn PCCC cịn ít, phải kiêm nhiệm
thêm nhiều cơng việc về Quản lý hành chính, giữ vững tật tự an toàn xã hội.
Hiện nay biên chế toàn bộ lực lượng tính đến tháng 10 năm 2009 hiện

có khoảng 10.399 người. Số lượng cán bộ chiến sĩ trực tiếp làm công tác chữa
cháy là 8.857 người, chiếm trên 85,1% quân số của tồn lực lượng, trong đó,
chiến sĩ nghĩa vụ là 2.269 người chiếm 25,6% tổng số cán bộ chiến sĩ trực tiếp
làm công tác chữa cháy; lái xe, tầu chữa cháy hiện có 845 người chiến 9,5%;
chiến sĩ chữa cháy chuyên nghiệp là 5.503 người chiếm 62,1%; số thợ máy

15


hiện có 31 người chiếm 0,35% và có khoảng trên 200 người cán bộ chiến sĩ làm
công tác cứu nạn, cứu hộ, chiếm khoảng 2%. Cịn 1.542 người là cơng nhân viên
cơng an và hợp đồng có thời hạn, số lao động này chiếm khoảng 14,8%. (Điều
này được thể hiện tại phụ lục 1 – trang 112)
- Tổ chức bộ máy hiện tại của Cục cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy
Tính đến năm 2005, Cục cảnh sát PCCC có 7 đầu mối (đơn vị) cấp
phòng và tương đương. Ngày 23/02/2010, Bộ Cơng an có Quyết định số
586/QĐ-BCA Quy định về tổ chức bộ máy của Cục cảnh sát PCCC. Theo đó,
được bổ sung thêm 2 phịng mới, như vậy, đầu mối cấp phịng và tương
đương là 9, đó là: Phịng Tham mưu; Phòng Thanh tra, kiểm tra PCCC;
Phòng Thẩm duyệt về PCCC; Phịng Cơng tác chữa cháy; Phịng Hậu cần;
Phịng Tuyên truyền và Xây dựng phong trào quần chúng PCCC; Phòng
Hướng dẫn điều tra - Xử lý về cháy, nổ; Phịng Hướng dẫn chỉ đạo cơng tác
cứu nạn, cứu hộ và Trung tâm Nghiên cứu khoa học và tư vấn, chuyển giao
công nghệ PCCC. Tổng quân số của Cục cảnh sát PCCC có khoảng 108
người, trong đó, lãnh đạo Cục có 4 người; lãnh đạo cấp phịng và tương đương
có 22 người; có 86,1% cán bộ đạt trình độ đại học trở lên, trong đó có 6 tiến sỹ,
6 thạc sỹ, 81 đại học, cao đẳng. Trình độ chính trị cao cấp 11 người, trung cấp
79 người. Ngồi ra cịn có 3 nhân viên hợp đồng. (Thể hiện rõ ở sơ đồ tổ chức
bộ máy của Cục cảnh sát PCCC tại phụ lục 2 – trang 113)
- Tổ chức bộ máy của Trƣờng Đại học Phòng cháy, chữa cháy

Theo Quyết định số 2009/2006/QĐ-BCA ngày 25/12/2006 của Bộ
trưởng Bộ Công an, tổ chức bộ máy của Trường Đại học PCCC hiện có 17
đầu mối gồm: Bộ mơn Mác-Lênin và khoa học Xã hội nhân văn; Bộ môn
Khoa học cơ bản và Ngoại ngữ; Bộ môn Pháp luật, Nghiệp vụ Công an; Bộ
môn Quân sự, võ thuật và thể dục thể thao; Khoa Tự động và phương tiện kỹ
thuật PCCC; Khoa Phòng cháy; Khoa Chữa cháy; Phòng Quản lý đào tạo;
Phòng Quản lý khoa học và thơng tin, tư liệu; Phịng Hành chính tổng hợp;

16


Phòng Quản lý và giáo dục học viên; Phòng Xây dựng lực lượng; Phòng Hậu
cần; Phòng Quản lý nhà ăn; Trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ
thuật PCCC và đào tạo lái xe chữa cháy; Tạp chí Khoa học PCCC và Ban
Quản lý dự án. Vừa qua, Bộ Cơng an có Quyết định thành lập thêm 04 đơn vị
mới là: Phòng Quản lý khoa học và Đào tạo sau đại học (tiền thân là phòng
Quản lý khoa học và thông tin, tư liệu); Khoa Cứu nạn, cứu hộ (tách ra từ
khoa Chữa cháy); Trung tâm Thông tin khoa học và tư liệu giáo khoa (tách từ
phòng Quản lý khoa học và thông tin, tư liệu) và Trung tâm Dạy nghề và đào
tạo lái xe PCCC, nâng tổng số lên 21 đầu mối.
Biên chế hiện có khoảng 233 (10/2010) người, trong đó: Ban Giám
hiệu có 05 người, Trưởng, Phó Khoa, Phịng, Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm bộ
mơn, Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm có 51 người; giảng viên 105 người;
cán bộ khác 76 người. Có 83,69% cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng trở
lên, trong đó: 01 phó giáo sư, 18 tiến sỹ, 58 thạc sỹ, 141 đại học, cao đẳng; có
72,96% cán bộ có trình độ chính trị trung cấp trở lên, trong đó: cao cấp 58,
trung cấp 132. (Xem cụ thể tại phụ lục 3 – trang 114)
- Tổ chức bộ máy của Sở cảnh sát Phịng cháy, chữa cháy thành phố
Hồ Chí Minh
Theo Quyết định số 719/2006 ngày 15/5/2006 của Thủ tướng Chính

phủ về việc Sở cảnh sát PCCC thành phố Hồ Chí Minh và Quyết định số
1562/2006/QĐ-BCA(X13) ngày 13/9/2006 của Bộ trưởng Bộ Công an, tổ
chức bộ máy của Sở cảnh sát PCCC thành phố Hồ Chí Minh gồm có 09 đơn
vị nghiệp vụ cấp phịng (Phịng Tham mưu trong đó có Trung tâm thơng tin
chỉ huy; Phịng Hướng dẫn, chỉ đạo về phòng cháy; Phòng Hướng dẫn, chỉ
đạo về chữa cháy; Thanh tra Sở; Phịng Chính trị; Phịng Hậu cần và trang bị
kỹ thuật; Trung tâm đào tạo và huấn luyện PCCC; Phịng Cảnh sát PCCC trên
sơng) và các Phịng cảnh sát PCCC ở quận, huyện. (Hiện có 15 phịng. Cụ thể
xem tại phụ lục 4 – trang 115)

17


Tổng biên chế khoảng 1.954 người, trong đó Ban Giám đốc Sở 4
người; lãnh đạo cấp phòng thuộc Sở 65 người; lãnh đạo cấp đội 112 người;
chiến sĩ nghĩa vụ là 587 người; chữa cháy chuyên nghiệp là 1.008 người,
trong đó có 85 là cán bộ tiểu đội; lái xe, lái tầu chữa cháy là 93 người.
- Tổ chức, biên chế hiện tại của các Phòng cảnh sát Phòng cháy, chữa
cháy thuộc Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng
Các Phòng cảnh sát PCCC (trừ các phòng thuộc Sở cảnh sát PCCC
thành phố Hồ Chí Minh) thuộc Cơng an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương là đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước về PCCC ở cấp tỉnh.
Theo Quyết định số 3716/2008/QĐ-X11 ngày 03/9/2008 của Tổng cục Xây
dựng lực lượng CAND. Tổ chức bộ máy của Phịng cảnh sát PCCC thuộc
Cơng an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 03 đội nghiệp vụ (Đội
Tham mưu tổng hợp; Đội Hướng dẫn và Kiểm tra an toàn PCCC; Đội Hậu
cần và Quản lý phương tiện PCCC) và các Đội chữa cháy chuyên nghiệp.
Theo thống kê của Cục Cảnh sát PCCC, tổng quân số của các đơn vị
cảnh sát PCCC địa phương là 6.903 người, trong đó, cán bộ lãnh đạo cấp
phịng có 275 người, chiếm 3,9%; cán bộ lãnh đạo cấp đội có 705 người,

chiếm 10,2%. Chiến sĩ chữa cháy chuyên nghiệp có 4.495 người, chiếm
65,1%; chiến sĩ nghĩa vụ có 1.682 người, chiếm 24,1%; lái xe, tàu chữa cháy
có 752 người, chiếm 10,8%; thợ máy có 31 người, chiếm 0,17% và hơn 1.000
cơng nhân viên, hợp đồng, tạm tuyển có người[3,17].
Hiện nay, cả nước có 151 đội cảnh sát PCCC, trong đó có 63 đội chữa
cháy trung tâm, 80 đội khu vực và 8 đội tàu chữa cháy. 51/63 địa phương chỉ
có từ 01 đến 04 đội chữa cháy. Trong 5 năm, từ 2001 đến 2006, trung bình
mỗi năm cả nước ta chỉ phát triển thêm được 5 đến 7 đội chữa cháy khu vực.
Do số lượng đội cảnh sát PCCC còn quá mỏng so với địa bàn cần bảo vệ, nên
ở các thành phố lớn, mỗi đội phải quản lý khu vực với diện tích từ cách chỗ
đơn vị đóng qn hàng trăm km2, trong khi theo tiêu chuẩn Việt Nam quy

18


định bán kính phục vụ có hiệu quả của các đội chữa cháy trung tâm là 05 km,
các đội khu vực là 03 km. Đặc biệt, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Bình Dương...có đội khu vực phải bảo vệ an toàn PCCC cho
khoảng 1.700 cơ sở. Vì vậy, việc xây dựng thêm các đội cảnh sát PCCC khu
vực trong tương lai là rất cần thiết và cần triển khai nhanh chóng.
- Tổ chức bộ máy của lực lƣợng cảnh sát Phịng cháy, chữa cháy tại
Cơng an cấp Huyện
Trên cả nước hiện nay, mới có 10 tỉnh, thành phố đã bố trí được cán bộ
làm cơng tác PCCC tại Công an cấp huyện, với số lượng gần 600 đồng chí,
trong đó có 98 người chun trách và 466 người kiêm nhiệm. Có 38 địa
phương đã tiến hành phân công, phân cấp cho công an cấp Huyện thực hiện
quản lý hoạt động PCCC. Do chưa có mơ hình tổ chức đội cảnh sát PCCC ở
Công an cấp Huyện, số cán bộ được điều về đây là trực thuộc quân số của đội
cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội, nên việc thực hiện nhiệm vụ
PCCC khơng được chun sâu, bị động, nhiều nơi cịn bỏ trống địa bàn.

1.1.2. Những nhiệm vụ cơ bản góp phần phát triển đất nước của
nguồn nhân lực cảnh sát Phòng cháy, chữa cháy
1.1.2.1. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, huấn luyện, bồi
dƣỡng nghiệp vụ, kiến thức về phòng cháy cho nhân dân
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, huấn luyện, bồi dưỡng
nghiệp vụ về phòng cháy đã được tiến hành từ rất sớm, thường xuyên và ngay
cả trong hồn cảnh đất nước vẫn đang cịn chiến tranh. Điều này được thể
hiện rất rõ qua nhiều quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Trong thư gửi cán bộ chiến sĩ Đội PCCC Công an Hà Nội ngày 03
tháng 8 năm 1966 Người viết: “Các đồng chí phải thƣờng xuyên hƣớng dẫn
và bồi dƣỡng nghiệp vụ cho lực lƣợng dân phòng ngày càng tiến bộ để họ trở
thành ngƣời giúp việc thật đắc lực cho các đồng chí” [38, 211].
Trong những năm vừa qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
Bộ Công an công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật, huấn luyện, bồi

19


×