Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng CNXH, Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm đến việc xây dựng con người, đặc biệt là việc rèn luyện phẩm chất
đạo đức. Trong đó, vai trị của đồn viên, thanh niên rất được coi trọng, bởi vì
thanh niên là tương lai của đất nước. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh
phần lớn là do các thanh niên. Nghị quyết Trung ương 4, khoá VII chỉ rõ: “Sự
nghiệp đổi mới có thành cơng hay khơng, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị
trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay khơng, cách mạng Việt Nam có
vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tuỳ thuộc vào
lực lượng thanh niên, vào việc rèn luyện, bồi dưỡng thế hệ thanh niên” [1; tr.
135]
Trong quá trình tồn cầu hóa hiện nay, có ý kiến cho rằng, đức là hàng
thứ yếu, không thể lấy cái đức ra để sống, để làm giàu cho bản thân, gia đình
và đất nước mà chỉ có tài mới giúp thành đạt, từ đó dẫn đến việc một số người,
trong đó có thanh niên có thái độ sống cực đoan, lệch lạc không phù hợp với
truyền thống tốt đẹp dân tộc. Một bộ phận thanh niên cịn ít quan tâm hoặc
ngại tham gia vào các tổ chức sinh hoạt đoàn thể chính trị, xã hội, chưa xác
định được lý tưởng sống đúng đắn, coi nhẹ những giá trị truyền thống nhân
văn của dân tộc, bị ảnh hưởng bởi lối sống ngoại lai, văn hoá phương Tây và
những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, dẫn đến các tệ nạn xã hội, đặc
biệt là ma tuý, mại dâm, lối sống thực dụng… diễn biến phức tạp, đang là vấn
đề “nóng” mà trong đó thanh thiếu niên vừa là đối tượng vừa là nạn nhân hiện
tượng này đã gây nhức nhối xã hội.
Trong bối cảnh trên, vấn đề quan trọng đặt ra là phải không ngừng tăng
cường công tác giáo dục phẩm chất đạo đức cho thanh niên, nhằm hình thành
một lớp thanh niên ưu tú, vững vàng về chính trị, kiên định con đường chủ
-1-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
nghĩa xã hội (CNXH), có lý tưởng sống cao đẹp, có văn hố, giàu lịng u
nước, tinh thần quốc tế chân chính, tự cường dân tộc,… tạo ra mơi trường
thuận lợi để phát triển toàn diện. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh
An Giang nói chung và Đồn Trường Đại học An Giang nói riêng đã có nhiều
hoạt động giáo dục sinh viên, học sinh giữ vững phong trào cách mạng của
Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Là một đoàn viên, thanh niên của
trường và là một giáo viên tương lai, tôi nghĩ bản thân không chỉ truyền đạt
cho học sinh về tri thức mà còn giáo dục, bồi dưỡng những chuẩn mực làm
người. Do đó, việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cho đúng đắn, phù hợp thì
thật cần thiết và cấp bách nhất là trong thời buổi hội nhập.
Chính vì vậy tơi quyết định chọn đề tài: “Công tác giáo dục phẩm
chất đạo đức cho đoàn viên, thanh niên của Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh Trường Đại học An Giang từ năm 2002 đến nay” làm khóa
luận tốt nghiệp của mình.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những chuẩn mực đạo đức cần thiết phải giáo dục cho đoàn
viên, thanh niên.
- Nghiên cứu, khảo sát các hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh Đồn Trường Đại học An Giang.
- Phân tích những nguyên nhân của những thành quả đạt được và
những hạn chế trong công tác giáo dục phẩm chất đạo đức cho đoàn viên,
thanh niên của Đoàn Trường Đại học An Giang, đồng thời khóa luận kiến nghị
một số giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho đoàn viên, thanh niên Trường
Đại học An Giang ngày càng tốt đẹp hơn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
-2-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
Nghiên cứu những chuẩn mực đạo đức phù hợp để giáo dục cho đoàn
viên, thanh niên và thực tiễn giáo dục phẩm chất đạo đức của Đoàn Trường
Đại học An Giang.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Khóa luận chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu về một số chuẩn mực đạo
đức của con người Việt Nam mới được Đảng Cộng sản Việt Nam và Đồn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xác định:
- Về lí luận: Vấn đề giáo dục phẩm chất đạo đức cho thanh niên được
nhiều khoa học nghiên cứu như Triết học về con người, Triết học về đạo đức
học, Tâm lí học giáo dục nhân cách, Giáo dục học, Xã hội học. Nhưng ở khóa
luận này, chúng tơi chỉ nghiên cứu vấn đề đặt ra ở góc độ khoa học Triết học
là chủ yếu.
- Về thực tiễn: đề tài khái quát và phân tích thực trạng giáo dục phẩm
chất đạo đức cho đoàn viên, thanh niên ở Trường Đại học An Giang từ năm
2002 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh:
ngun tắc khách quan, ngun tắc tồn diện, nguyên tắc thống nhất lý luậnthực tiễn, nguyên tắc lịch sử- lơgic…
- Phương pháp điều tra, phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thống kê, so sánh,…
5. Đóng góp của khóa luận:
- Điểm mới của khóa luận là góp phần nghiên cứu việc giáo dục phẩm
chất đạo đức cho đoàn viên, thanh niên ở Trường Đại học An Giang, qua đó
đề ra những định hướng mới giúp đoàn viên, thanh niên có nhận thức đúng
đắn hơn trong việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của mình.
-3-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
- Rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc giáo dục rèn luyện
phẩm chất đạo đức cho đoàn viên, thanh niên.
- Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy,
giáo dục nhằm giúp đoàn viên, thanh niên sống tốt, sống đẹp, sống phù hợp
với truyền thống đạo đức dân tộc trong thời đại hội nhập tồn cầu.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung khóa luận gồm 2 chương:
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ GIÁO DỤC
PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC
1. Vấn đề giáo dục đạo đức.
1.1. Bản chất đạo đức
1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam về giáo dục đạo đức cho đoàn viên, thanh niên.
2. Những phẩm chất đạo đức cần giáo dục cho đoàn viên, thanh niên
2.1. Những căn cứ xác định.
2.1.1. Nghị quyết Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM từ năm
2002 đến nay
2.1.2. Chương trình giảng dạy mơn Giáo dục Cơng dân ở các trường
THPT và THCS.
2.2. Nội dung cơ bản của các phẩm chất đạo đức cần giáo dục
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC GIÁO DỤC PHẨM CHẤT
ĐẠO ĐỨC CHO ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN CỦA TRƯỜNG
ĐẠI HỌC AN GIANG
1. Thực trạng về giáo dục đạo đức cho đoàn viên, thanh niên của Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Trường Đại học AG từ năm 2002 đến nay.
-4-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
1.1. Những thành quả đạt được.
1.2. Những hạn chế cần khắc phục
2. Nguyên nhân
3. Một số kiến nghị, giải pháp.
-5-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
CHƯƠNG I. QUAN ĐIỂM DUY VẬT LỊCH SỬ VÀ GIÁO DỤC
PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC
1. Phương pháp luận giáo dục đạo đức:
1.1. Bản chất đạo đức
1.1.1. Khái niệm đạo đức:
“Đạo đức” là một từ Hán Việt, “Đạo” là con đường để theo đó ta đi,
cũng có nghĩa là lẽ phải, là đạo lý theo đó ta hành động. “Đức” là tồn bộ
những hành vi đối nhân xử thế của con người, mà những phẩm chất của hành
vi đó tốt hay xấu là do con người có biết và có thực hiện được đạo lý hay
khơng. Đạo đức có gốc từ trong tiếng Hi Lạp cổ là Ethos, có nghĩa là truyền
thống, phong tục, đặc tính, loại hình tư tưởng. Khái niệm đạo đức thường
được dùng với hai ý nghĩa: trong đời sống hằng ngày và trong khoa học.
Đạo đức trong đời sống hằng ngày người ta thường dùng khái niệm đạo
đức theo nghĩa để nhận xét, đánh giá thái độ, hành vi của mọi người trong xã
hội như đối xử trong gia đình, quan hệ thầy trị, bạn bè; đánh giá của cộng
đồng về những chuẩn mực đạo đức xã hội. Ví dụ, một người biết kính trọng,
chăm sóc ơng bà, cha mẹ, nhường nhịn yêu thương anh chị em, … thì được
coi là người con sống hiếu thảo, là người có đạo đức; một học sinh biết vâng
lời thầy cơ giáo, luôn làm tốt những điều thầy cô giáo khuyên bảo, dạy dỗ thì
được gọi là trị ngoan,… nói chung, người ta dùng khái niệm đạo đức để tôn
vinh những người có trách nhiệm với cơng việc với tư cách là một công dân,
một thành viên trong cộng đồng xã hội, thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ
được giao phó, góp phần xây dựng cộng đồng, phát triển kinh tế xã hội, thiết
lập quan hệ hàng xóm, láng giềng tốt đẹp.
Ở góc độ khoa học các nhà đạo đức học phân tích khái niệm đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội đặc trưng của xã hội loài người, nó có tính lịch sử
xã hội, bị chế ước, chi phối bởi những điều kiện khách quan của kinh tế, xã
-6-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
hội, dân tộc, lịch sử. Trong lĩnh vực triết học người ta quan niệm, “Đạo đức là
quy tắc chung trong xã hội và hành vi của con người, quy định những nhiệm
vụ của người này đối với những người khác và đối với xã hội” [2; tr. 234].
Chủ nghĩa Mác-Lênin xây dựng quan điểm về đạo đức và những yêu cầu của
đạo đức không phải trên những định nghĩa chung, trừu tượng mà dựa trên
những điều kiện lịch sử cụ thể. Khơng có đạo đức nào ở ngồi xã hội lồi
người. Trong một xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp.
Theo Phạm Khắc Chương và Hà Nhật Thanh, “Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, những chuẩn mực xã hội, nhờ
đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích,
hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ với con người, giữa
cá nhân và xã hội…”[3; tr. 4]. Đối với kết quả nghiên cứu của chương trình
khoa học công nghệ cấp Nhà nước do GS. VS. Phạm Minh Hạc làm chủ
nhiệm, mã số KHXH-04, được trình bày trong tác phẩm “Về sự phát triển toàn
diện của con người thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” thì, “Đạo đức theo
nghĩa hẹp là luân lí, những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con người
với con người, với công việc, với bản thân kể cả thiên nhiên và môi trường
sống…”[4; tr 30]. Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với
phạm trù chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân
cách, phản ánh bộ mặt nhân cách đã được xã hội hóa. Đạo đức được biểu hiện
ở cuộc sống tinh thần lành mạnh, trong sáng, ở hành động, góp phần giải
quyết hợp lí, có hiệu quả những mâu thuẫn của cuộc sống.
1.1.2. Các quan điểm khác nhau về nguồn gốc, bản chất của đạo
đức
Quan điểm tôn giáo cho rằng, đạo đức có nguồn gốc từ tơn giáo. Vì
vậy, bản chất đạo đức là bản chất tôn giáo. Từ đó họ khẳng định, từ bỏ tơn
giáo là từ bỏ đạo đức. Đó là quan điểm sai lầm cả về phương diện logic cũng
như về lịch sử. Các lập luận như vậy là xa rời bản chất của đạo đức và biện hộ
cho sự hiện diện của tôn giáo, về mặt lịch sử, đạo đức xuất hiện trước tôn giáo.
-7-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
Tôn giáo bắt nguồn từ niềm tin vào Thượng đế còn đạo đức bắt nguồn từ niềm
tin con người. Nếu đạo đức khẳng định đời sống hiện thực, thì tơn giáo lại
hướng con người đến những lạc thú cá nhân ở thế giới bên kia. Do vậy, đạo
đức chân chính về bản chất xa lạ với tôn giáo, cho nên nó khơng thể ra đời từ
tơn giáo.
Chủ nghĩa Mác- Lênin quan niệm rằng, nguồn gốc của đạo đức là do
lao động sản xuất và cùng với lao động sản xuất là đời sống cộng đồng xã hội.
Trong lao động, chẳng những con người làm biến đổi thể chất của mình mà
cịn làm nảy sinh ý thức và ln ln thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của
con người. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Tồn
tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội cũng thay đổi theo. Sự nảy sinh, phát triển
và hồn thiện của đạo đức có nguồn gốc trong hoạt động vật chất của con
người, trong đó, lao động sản xuất đóng vai trị quyết định. Trong xã hội có
giai cấp nhất là xã hội có giai cấp đối kháng, mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội thường có mâu thuẫn là nhu cầu xã hội mà đạo đức phải tham gia, do vậy
xuất hiện nhu cầu đạo đức, ý thức đạo đức. Ý thức là sự phản ánh những nhu
cầu đạo đức của các giai cấp trong xã hội. Mỗi giai cấp có nhu cầu đạo đức
riêng. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang bản chất giai cấp. Bản chất giai
cấp được thể hiện ở chỗ nó thể hiện sự thống trị của giai cấp thống trị và giải
quyết mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội theo
quan điểm của giai cấp thống trị. Trong xã hội tư sản, đạo đức tư sản là đạo
đức thống trị. Thời đại ngày nay, những giai cấp đã suy tàn thì đạo đức của nó
cũng suy tàn theo. Ngược lại, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến đứng
trung tâm của thời đại, gánh trên vai mình sứ mệnh lịch sử lãnh đạo xã hội,
tiến lên giải phóng con người, giải phóng xã hội. Vì vậy, những quan điểm
đạo đức của nó là bước phát triển mới về chất của đạo đức nói chung, là giai
đoạn phát triển cao của đạo đức con người.
Từ những quan điểm trên ta thấy, đặc trưng của đạo đức là năng lực ý
thức và hành động tự nguyện, tự giác của con người vì cái thiện. Lẽ tất nhiên
-8-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
của sự tồn tại và phát triển xã hội loài người đòi hỏi sống trong cộng đồng
phải biết tuân thủ những nguyên tắc và chuẩn mực do xã hội đề ra để điều
chỉnh quan hệ của mình. Hoạt động đạo đức của con người là hoạt động bao
gồm ý thức và hành vi vì cái thiện, đồng thời hoạt động đạo đức là hoạt động
có tính tự nguyện, tự giác điều này được xem là một đặc trưng cho xã hội lồi
người.
Như vậy, mục đích cao cả nhất của con người và xã hội loài người là
được tự do và hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, con người phải không
ngừng phấn đấu một cách tự nguyện, tự giác vì lợi ích của người khác và vì lợi
ích của cộng đồng, xã hội. Mặt khác, hạnh phúc còn đòi hỏi có sự hài hồ giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Vì lẽ đó mà thước đo của đạo đức (tiêu
chuẩn giá trị của đạo đức) là tất cả những gì tích cực, phù hợp với lợi ích chân
chính của con người và của tiến bộ xã hội.
1. 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về
giáo dục đạo đức cho đoàn viên, thanh niên:
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ln ln quan tâm đến cơng việc giáo dục đạo đức thanh thiếu niên, coi
nhiệm vụ “bồi dưỡng, giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau là một nhiệm vụ
rất quan trọng và rất cần thiết”[5; tr. 498]. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định,
Đồn Thanh niên phải là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức, giáo
dục thanh niên trở thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp
đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
cộng sản ở Việt Nam. Đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, lâu dài của tồn
Đảng, tồn dân, đó cũng là trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của Đồn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Những lời dặn dò, dạy bảo quý báu của Bác, về
giáo dục thanh thiếu niên thể hiện sự vận dụng sáng tạo những quan điểm lớn
của công tác giáo dục, vận động thanh niên và công tác xây dựng Đảng của
Chủ nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, sẽ mãi soi đường cho
-9-
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
thanh niên của Đảng và của Nhà nước ta vững vàng bước vào thế kỷ XXI.
Ngày nay, trước yêu cầu mới và vận hội mới của Tổ quốc hết sức cấp bách,
của nhiệm vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, công tác
giáo dục thanh niên và xây dựng Đoàn vững mạnh lại càng đặt ra tầm quan
trọng đặc biệt đối với Đảng và Nhà nước ta trong việc hoạch định chiến lược
phát triển thanh niên và cơ chế quản lý Nhà nước về công tác thanh niên. Do
đó, việc nghiên cứu nhằm hệ thống hố tư tưởng, lý luận về công tác thanh
niên và xây dựng Đồn Thanh niên Cộng sản HCM sẽ có ý nghĩa to lớn vào
việc đổi mới công tác thanh niên trong thời kỳ mới của Đảng, để góp phần vào
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh. Từ buổi đầu thời kỳ tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã sớm khẳng
định rằng, muốn thức tỉnh dân tộc, trước hết phải thức tỉnh thanh niên. Đó là
tư tưởng chiến lược, nhạy cảm và sáng suốt của Người trong trong quá trình
hoạt động cách mạng ở Việt Nam, Bác Hồ luôn dành cho thế hệ trẻ lịng u
thương vơ hạn và sự ân cần chăm sóc đầy đủ. Những quan điểm của Bác về
việc xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh tuy cách đây mấy mươi năm, nhưng
vẫn mang tính thời sự và có giá trị rất cơ bản. Nó là bó đuốc soi đường, là kim
chỉ nam cho thanh niên ta vững bước đi lên trong cuộc sống và là cơ sở để
giúp cho cán bộ có ý thức bản lĩnh chính trị vững vàng để thực thi nhiệm vụ
cấp trên giao phó đặc biệt là trong công tác giáo dục thanh niên.
Ngày nay, khi đất nước bước vào thời kì mới, tiến lên CNH, HĐH vị trí
và vai trị của Đồn Thanh niên phải thích ứng với sự nghiệp phát triển của
thanh niên và vị thế của đất nước. Do đó, Đồn Thanh niên phải phát triển cao
hơn, mạnh hơn để tạo điều kiện tốt nhất giúp thanh niên chuẩn bị hành trang đi
vào thế kỷ XXI vững chắc. Điều đó có nghĩa là Đoàn Thanh niên phải chủ
động đề xuất, tham mưu cho Đảng về những chương trình, chính sách thanh
niên thích hợp và phải tổ chức thực hiện tốt đường lối, chính sách, đổi mới của
Đảng và Nhà nước ta, tăng cường công tác giáo dục đạo đức, bồi dưỡng vận
động thanh niên: xã hội hóa, tri thức hố và hiện đại hoá thế hệ trẻ cho phù
hợp với yêu cầu của thời đại thông tin đang đặt ra, để thanh niên có khả năng
- 10 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
chuyển hố kiến thức, liên thơng kỹ thuật, nhạy bén thông tin, bừng nở sáng
kiến; phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tự tơn dân tộc, có nghị lực và ý chí,
dám nghĩ dám làm trong học tập, trong lao động và trong phong trào lập thân
lập nghiệp, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiến bộ công nghệ vào việc phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước với một bản lĩnh thật vững vàng và lòng
quyết tâm cao. Muốn vậy chúng ta phải làm cho đoàn viên, thanh niên nhận
thức được:
Thứ nhất, phải làm cho đoàn viên thanh niên hiểu được đạo đức cách
mạng là cái gốc của con người. Trong nhiều bài huấn thị của Bác đều thể hiện
đạo đức là cái gốc làm người, nếu khơng có đạo đức thì tài cũng vơ dụng.
Người viết: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì
sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, khơng có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân
dân”[6; tr 32-33]. Trong đó, nội dung đạo đức mà Hồ Chí Minh nêu ra đó là
u nước, yêu lao động, yêu chủ nghĩa xã hội và quyết tâm thực hiện cho được
những nhiệm vụ có ích cho cách mạng, cho nhân dân. Người dạy rằng, “Có tài
mà khơng có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính giỏi nhưng lại đi đến
thụt két thì chẳng những khơng làm được gì ích lợi cho xã hội mà cịn có hại
cho xã hội nữa”[7; tr.74]
Thứ hai, vận mệnh, sự phát triển của dân tộc tuỳ thuộc vào sự giác ngộ
và trách nhiệm của thanh niên. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân
Pháp” xuất bản năm 1925 Người viết “Hỡi Đông Dương đáng thương hại!
Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người khơng sớm hồi
sinh”[8; tr.133], chính Bác Hồ đã nhìn thấy sức sống dân tộc đang tiềm ẩn bên
trong thế hệ thanh niên, dù thế hệ đó đang bị đầu độc, đang bị ru ngủ. “Đằng
sau sự phục tùng tiêu cực, Người Đơng Dương giấu một cái gì đang sơi sục,
đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến”[9; tr. 30]. Do
vậy, muốn hồi sinh dân tộc trước hết phải hồi sinh thanh niên.
- 11 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
Thứ ba, thanh niên phải không ngừng tự giác, tự rèn luyện, có lịng gan
dạ, sự sáng tạo, có ý chí hăng say ln có tinh thần vượt khó khăn, gian khổ
luôn gương mẫu trong mọi phong trào. Trước lúc đi xa Người căn dặn “Đoàn
viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong,
khơng ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng, Đồn cần phải chăm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành người kế thừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc quan trọng và cần thiết” [9; tr. 510]. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đánh giá rất cao vai trò của thanh niên, đồng thời Người cũng nhận thấy thanh
niên như là một chủ thể đang phát triển, đang dần dần hồn thiện mình. Người
viết “Ưu điểm của thanh niên là hăng hái, giàu tinh thần xung phong. Khuyết
điểm là ham chuộng hình thức, bệnh cá nhân, bệnh “anh hùng” [9; tr. 197]. Do
vậy, thanh niên muốn xứng đáng là người chủ tương lai của nước nhà thì một
yếu tố quan trọng là phải tự giác rèn luyện bản thân. Sự rèn luyện đó thể hiện
ở mọi phương diện: Rèn luyện đạo đức cách mạng; trau dồi và nâng cao trình
độ văn hố và nghiệp vụ chun mơn; rèn luyện ý chí và lịng dũng cảm; rèn
luyện thân thể.vv... Người còn nhấn mạnh, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải có con người xã hội chủ nghĩa, do vậy trước tiên, “thanh niên phải rèn
luyện và thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa”[9; tr. 305]. Người dùng nhiều
từ ngữ thuộc về những phẩm chất ý chí, để giáo dục đồn viên thanh niên như:
cả quyết, quyết đoán, nhẫn nại, hy sinh, dũng cảm, quyết chí, quyết tâm…
Người nêu những câu châm ngơn để dạy thanh niên “Ở đâu cần thanh niên có,
nơi nào khó có thanh niên” hay “Khơng có việc gì khó. Chỉ sợ lịng khơng
bền. Đào núi và lấp biển. Quyết chí ắt làm nên” [11; tr. 37].
Thứ tư, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là rất quan trọng và
cần thiết. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp lâu dài khó khăn và là trách
nhiệm của nhiều thế hệ. Vì vậy, vấn đề quan tâm, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ
chính là thực hiện theo quy luật khách quan nhằm đưa sự nghiệp cách mạng
của đất nước không ngừng phát triển. Người căn dặn thanh niên phải: Yêu Tổ
quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa học và yêu
- 12 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
kỷ luật. Nói như Xpi-kin nhà Triết học Liên Xơ cũ, một người mà khơng có
cái lõi đạo đức bên trong thì giống như con tàu chịng chành giữa biển cả
mênh mơng đầy sóng gió. Bác Hồ cũng từng dạy, “đạo đức cách mạng không
phải từ trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luện bền bĩ hằng ngày mà
phát triển, mà củng cố cũng như ngọc càng mài càng sáng,vàng càng luyện
càng trong” [9; tr. 293]
Vì vậy, việc giáo dục, bồi dưỡng cho một thế hệ là công việc hết sức
công phu và bền bỉ, Người quan niệm rằng, việc giáo dục, đào tạo và rèn luyện
cho thế hệ trẻ là sự nghiệp “trồng người” và Người nêu tư tưởng chiến lược:
“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Cơng tác
giáo dục phải tạo nên một thế hệ vừa giỏi chuyên môn, có trình độ cao, phù
hợp với sự phát triển của xã hội; đồng thời phải có phẩm chất đạo đức, phải
trở thành là lực lượng “vừa hồng, vừa chuyên”. Bằng niềm tin mãnh liệt, sức
mạnh và nghị lực của thanh niên, Hồ Chí Minh ln đề cao vai trị của thanh
niên Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trên cơ sở tư tưởng
của Người, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo, phát huy vai trò của thanh niên
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ
nghĩa.
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục đạo đức
Đảng ta đánh giá rất cao vai trò của thanh niên Việt Nam trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Ngày nay, trong cuộc đổi mới nói
chung và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói riêng, thanh niên có vị trí và vai
trị hết sức quan trọng, bởi lẽ thanh niên là nguồn nhân lực trẻ, chiếm trên 50%
lực lượng lao động của nước ta, là lớp trẻ khỏe, nhanh nhạy trước những biến
đổi của xã hội, có khả nǎng tiếp thu cái mới, lĩnh hội nhanh những kiến thức
khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến hiện đại, có khả nǎng vận dụng một
cách sáng tạo những tri thức và kỹ nǎng vào quá trình sản xuất, đáp ứng các
yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Theo “Kết quả điều tra lao động
và việc làm tồn quốc”: Việt Nam là một quốc gia có cơ cấu dân số trẻ, dân số
- 13 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
thanh niên (từ 16 đến 30 tuổi) trong những năm gần đây khoảng từ 22 đến
23,8 triệu người. Do tác động khơng nhỏ của q trình CNH, HĐH làm cho cơ
cấu thanh niên cũng có sự chuyển dịch từ nơng thôn đi làm ăn, sinh sống ở các
đô thị từ 24,1% năm 2000 lên 25,2% năm 2004 và dự đoán đến năm 2006 là
49,5%. Về tình hình tư tưởng, nhận thức và thái độ chính trị của thanh niên,
đánh giá chung theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 của Ban
chấp hành Trung ương Đồn khố VIII ngày 28/3/2004 khẳng định: Những
năm qua, tư tưởng, thái độ chính trị của thanh niên có những chuyển biến tích
cực. Đa số thanh niên tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào thành công của
công cuộc đổi mới, gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tinh thần xung phong tình
nguyện, tính tích cực trong cơng tác chính trị-xã hội của thanh niên được tiếp
thu khơi dậy và phát huy. Ý chí tự lực tự cường, khơng cam chịu đói nghèo lạc
hậu, nỗ lực vươn lên trong cuộc sống là xu hướng ngày càng được khẳng định
trong lớp trẻ. Đồn viên thanh niên ngày càng gắn bó hơn với tổ chức Đoàn.
Số thanh niên được kết nạp Đoàn, số đoàn viên ưu tú được kết nạp vào Đảng
ngày càng tăng. Mỗi năm, đã có hàng chục triệu lượt đoàn viên, thanh niên
hăng hái tham gia trong các phong trào thi đua; hàng triệu thanh niên được kết
nạp mới vào hàng ngũ của Đoàn.
Theo Việt báo “số đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng là 1.981.943
đoàn viên, trong đó được Đảng xem xét kết nạp 645.332 đồng chí, chiếm
53,26% tổng số đảng viên mới kết nạp. Riêng năm 2005, đã có 226.194 đồn
viên ưu tú được giới thiệu cho Đảng, trong đó 107.124 đồng chí được kết nạp
vào Đảng, tăng 12,66% so với năm 2004 và chiếm 63,51% trong tổng số đảng
viên kết nạp năm 2005 (đạt chỉ số cao nhất từ trước tới nay), trong đó, hàng
ngàn đồng chí đồn viên trẻ được kết nạp Đảng khi tuổi đời mới trịn 18”.
Điều đó đã góp phần tăng cường sinh lực trẻ cho Đảng; khẳng định xu hướng
tích cực chính trị - xã hội trong thanh niên; đồng thời cũng chính là thành quả
to lớn trong chiến lược phát triển nhân tố con người của Đảng và Nhà nước ta,
là hạnh phúc của các bậc làm cha, làm mẹ. Trước yêu cầu của thời kỳ hội nhập
- 14 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
quốc tế ngày càng sâu rộng và sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thanh
niên, địi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh
niên nhằm chăm lo, bồi dưỡng và phát huy cao nhất vai trị, sức mạnh của
thanh niên trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Xây dựng Đảng, xây dựng Đoàn trong mọi thời kỳ cách mạng luôn là
nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.
Thời kỳ CNH, HĐH đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và tuổi trẻ chúng ta những
nhiệm vụ nặng nề nhưng hết sức vẻ vang. Để thực hiện được thắng lợi sứ
mệnh lịch sử này, thế hệ trẻ phải đương đầu với mọi khó khăn, gian khổ,
đương đầu với mọi thách đố. “Sự nghiệp đổi mới có thành cơng hay khơng,
đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới
hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ
nghĩa hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc rèn
luyện, bồi dưỡng thế hệ thanh niên”.[1; tr.135]. Để thực hiện trách nhiệm vẻ
vang đó, Đồn Thanh niên phải được xây dựng và củng cố, Đảng phải tăng
cường và nâng cao vai trò lãnh đạo xã hội, trong đó có sự giáo dục, lãnh đạo
đồn viên, thanh niên của mình cho phù hợp với thời kỳ nhằm đáp ứng nhu
cầu phát triển của xã hội và sự trưởng thành của thanh niên. Lý tưởng cách
mạng của đoàn viên thanh niên là độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội đã trở
thành niềm tin, lẽ sống của nhiều thế hệ thanh niên cách mạng kế tiếp nhau
trên nửa thế kỷ qua. Con đường đi đến lý tưởng cao đẹp là con đường phải đổ
nhiều xương máu, mồ hôi, nhưng là con đường đầy vinh quang và sự tích anh
hùng. Chính vì vậy mới có được nhiều thắng lợi của cuộc cách mạng tháng
Tám thành công, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và đại thắng mùa xn
năm 1975. Con đường tiếp tục hơm nay cịn phải vượt qua nhiều thử thách vơ
cùng lớn lao, địi hỏi khơng ít những hành động dũng cảm anh hùng, những
chịu đựng hy sinh, gian khổ. Có giác ngộ lý tưởng cao đẹp sâu sắc, có niềm tin
cách mạng, đồn viên, thanh niên mới đảm đương đựơc sứ mệnh lịch sử của
mình, đưa lá cờ bách chiến, bách thắng của Đảng và của dân tộc ta đến thắng
lợi cuối cùng trong chặng đường CNH, HĐH đất nước. Để giác ngộ sâu sắc về
- 15 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
lý tưởng và niềm tin cách mạng, đoàn viên thanh niên trước hết cần được trang
bị kiến thức về thế giới quan duy vật và phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác- Lênin, về nhân sinh quan cách mạng và những hiểu biết đúng đắn về
CNH, HĐH đất nước theo chủ nghĩa xã hội, tự tin trong học tập, tu dưỡng rèn
luyện, trong q trình hình thành bản lĩnh chính trị cho đồn viên thanh niên.
Trong đó, xây dựng và phát triển bản lĩnh nhân cách cho đoàn viên thanh niên
là tập trung để nâng cao ý chí độc lập, tự chủ, lập thân, lập nghiệp, trong xử lý
đúng đắn các mối quan hệ hoạt động, giao tiếp và thực hiện nghĩa vụ được
giao một cách tốt nhất.
1.2.2.1 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của
thanh niên
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ CNH, HĐH sự nghiệp
đó đặt ra cho tồn Đảng, tồn dân và thanh niên những nhiệm vụ nặng nề
nhưng rất vẻ vang “sự nghiệp đổi mới có thành cơng hay khơng, đất nước
bước vào thế kỷ XXI có vị thế xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không,
chủ yếu là do lực lượng thanh niên ngày nay quyết định”[17; tr.135]. Nhưng
lực lượng thanh niên, sức mạnh của tuổi trẻ muốn được phát huy họ phải được
bồi dưỡng, đào tạo, phải được tổ chức, tập hợp, được Đảng quan tâm lãnh đạo
và Nhà nước quản lý, trong đó vai trị của Đoàn trong việc dẫn dắt giáo dục và
bảo vệ, tổ chức và rèn luyện thanh niên thông qua phong trào cách mạng là
nhân tố quyết định.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII về thanh niên trong thời kỳ mới đã khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới
có thành cơng hay khơng, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường
xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào
việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên; cơng tác thanh niên là vấn đề
sống cịn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng”[18, tr.12]. Nghị quyết lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
- 16 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
khóa X đã đề ra những quan điểm chỉ đạo đối với công tác thanh niên thời kỳ
CNH, HĐH đất nước:
Thứ nhất: Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai
của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chăm
lo, phát triển, thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn
định và phát triển vững bền của đất nước.
Thứ hai: Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp người “vừa
hồng vừa chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trị quan trọng của Đồn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình, nhà trường và xã hội.
Thứ ba: Sự nỗ lực học tập, rèn luyện và phấn đấu không ngừng của
thanh niên theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng để xây
dựng thế hệ thanh niên thời kỳ mới.
Từ những quan điểm chỉ đạo đó Đảng ta đã phát huy vai trị lãnh đạo
của mình cùng với tổ chức Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã đề ra
những chủ trương và biện pháp để phát huy được vai trò của thanh niên trong
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và bước đầu đã đạt đựoc một số kết quả đáng
ghi nhận.
1.2.2.2. Chủ trương của Đảng trong việc giáo dục đạo đức cho đoàn
viên, thanh niên
- Thứ nhất cần tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối
sống văn hóa, ý thức cơng dân để hình thành thế hệ thanh niên có phẩm
chất tốt đẹp, có khí phách và quyết tâm hành động thực hiện thành công sự
nghiệp CNH, HĐH. Lý tưởng cách mạng của thanh niên là độc lập tự do cho
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lý tưởng đó đã trở thành niềm tin, lẽ sống của
nhiều thế hệ thanh niên cách mạng kế tiếp nhau qua nhiều thế kỷ qua. Ngày
nay, vấn đề quan trọng và cần thiết trong cơng tác thanh niên chính là tăng
cường giáo dục, đào tạo thanh niên thành lớp người vừa “hồng” vừa “chuyên”,
- 17 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
nói cách khác là phải nâng cao chất lượng phong trào “rèn đức”, “luyện tài” để
góp phần hình thành đội ngũ đông đảo những người lao động trẻ - nguồn nhân
lực trẻ - đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ
mới để “sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ kính yêu hằng
mong muốn và tin tưởng.
Thứ hai là đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, tạo cơ hội cho mọi
thanh niên có cơ hội được học tập, khơng ngừng nâng cao trình độ, có tri thức
và kỹ năng, vươn lên ngang tầm với thanh niên các nước tiên tiến trên thế giới.
Giáo dục bồi dưỡng phẩm chất đạo đức là con đường ngắn nhất để đào tạo bồi
dưỡng thế hệ kế cận hùng hậu cho tương lai đất nước. Quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là rất quan trọng và cần
thiết”. Đảng ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu và mục tiêu chiến lược
cho sự phát triển kinh tế- xã hội.
Thứ ba: Nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu
nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên. Sau hơn 20 năm đổi mới và phát
triển đất nước, nhất là sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII), tình hình về thanh niên nói
chung và tình hình về chất lượng lao động, vấn đề việc làm, thu nhập và cải
thiện đời sống đã có những bước chuyển biến rất mạnh mẽ. “Một trong những
thành tựu của công cuộc đổi mới là đã xây dựng được thế hệ thanh niên thời
kỳ mới có đạo đức, nhân cách, có trí thức, sức khỏe, tư duy năng động và hành
động sáng tạo; … đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, phong phú, mơi
trường sống an tồn”[19; tr. 37]. Bên cạnh những mặt tích cực mà thanh niên
Việt Nam đã đạt được thì Hội nghị cũng đã đưa ra một số hạn chế của thanh
niên hiện nay đó là: “học vấn của một bộ phận thanh niên, nhất là thanh niên
nông thơn, thanh niên dân tộc thiểu số cịn thấp; nhiều thanh niên thiếu kiến
thức và kỹ năng trong hội nhập quốc tế. Tính độc lập, chủ động, sáng tạo,
năng lực thực hành sau đào tạo của thanh niên còn yếu, chưa đáp ứng u cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”[19, tr.38]
- 18 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
Trên cơ sở quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục bồi dưỡng nâng cao trình độ cho thanh niên. Đảng ta
đã chủ trương nâng cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu
nhập và cải thiện đời sống cho thanh niên nhằm khắc phục những hạn chế của
và phát huy vai trò, sức mạnh của thanh niên vào cơng cuộc xóa đói, giảm
nghèo và thúc đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2. Những phẩm chất đạo đức cần giáo dục cho đoàn viên, thanh
niên:
2.1. Những căn cứ xác định
2.1.1. Nghị quyết Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM từ
năm 2002 đến nay
Trong lịch sử Việt Nam, các thế hệ trẻ nước ta luôn nêu cao truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Qua các thời kỳ cách mạng, dưới ngọn cờ vẻ vang
của Đảng và Bác Hồ, lớp lớp thanh niên phát huy chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, viết nên những trang sử chói lọi trong các cuộc chiến đấu, giải phóng
dân tộc thống nhất đất nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN góp
phần tạo nên những trang sử vẻ vang vượt thời đại. Trong sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh CNH, HĐH tuổi trẻ hôm nay tiếp tục phát huy truyền thống anh
hùng, bất khuất của cha anh, thích ứng nhanh với tình hình và nhiệm vụ mới,
có ý chí vươn lên, chủ động lập thân, lập nghiệp và nâng cao tính tích cực
chính trị, xã hội, những phẩm chất của tuổi trẻ trong thời kỳ mới ở những nơi
khó khăn nhất, hăng hái đi vào thực tế cuộc sống để rèn luyện và trưởng
thành, qua đó một lớp thanh niên tiên tiến với nhiều tài năng trẻ xuất hiện
trong công cuộc đổi mới, góp phần làm rạng danh đất nước. Từ đó, vị trí, vai
trị của thanh niên trong xã hội khơng ngừng được khẳng định và nâng cao
thông qua việc thanh niên tham gia ngày càng nhiều và hiệu quả vào sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phịng, an ninh của đất nước. Cơng
việc đó là của toàn xã hội nhưng trước hết là của thanh niên. Với tinh thần ở
đâu cần thì thanh niên có, nơi nào khó thì có thanh niên. CNH, HĐH là cơ hội
- 19 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
để thanh niên rèn luyện cống hiến và trưởng thành, đồng thời cũng là thách
thức lớn đối với thanh niên. Vì thế, thanh niên cần phải có tri thức cao, tay
nghề giỏi, có đạo đức trong sáng, lối sống cao đẹp và sức khỏe tốt. Bác Hồ
kính yêu của chúng ta từng nói: “Thanh niên là người chủ tương lai của đất
nước, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh phần lớn là do thanh niên”[20;
tr.9]. Do đó, Bác Hồ và Đảng ta luôn chăm lo sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng lý
tưởng và giáo dục toàn diện đặc biệt là việc giáo dục đạo đức với các công tác
tuyên truyền, giáo dục Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được
triển khai và thực hiện có hiệu quả với nhiều hình thức và nội dung phong
phú, sáng tạo.
- Trước hết, Đoàn Thanh niên phải đặc biệt quan tâm giáo dục chính trị,
bồi dưỡng niềm tin, lý tưởng cách mạng cho thanh niên, bảo đảm sự vững
vàng, kiên định của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
trong hội nhập kinh tế và trong giao lưu văn hóa quốc tế. Ra sức xây dựng lối
sống và nếp sống văn hóa trong sạch, lành mạnh, gương mẫu, có kỷ luật, kỷ
cương, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng vị kỷ, coi
đồng tiền là trên hết, lấy hưởng thụ làm chính, thiếu trách nhiệm với gia đình,
xã hội cũng như các biểu hiện tiêu cực khác.
- Thứ hai, phát triển các phong trào Đoàn Thanh niên vừa phải xuất
phát từ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an ninh
quốc phịng của đất nước, vừa phải gắn với yêu cầu, lợi ích chính đáng và phù
hợp với đặc điểm, khả năng của thanh niên. Thanh niên phải vươn tới tầm cao,
ra sức học tập và góp phần xây dựng một “xã hội học tập”, tiến quân vào phát
triển khoa học, công nghệ, tiên phong trong các cuộc vận động”, “toàn dân
đoàn kết, xây dựng lối sống văn hóa”, “tồn dân thi đua làm kinh tế giỏi nhằm
làm giàu cho mình, cho cộng đồng cơ sở và cho đất nước”[21; tr.24]
- Thứ ba, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về phương thức giáo dục đối với
thanh niên trên cơ sở nguyên lý giáo dục khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận gắn với thực tiễn, "học" đi đôi với "hành".
- 20 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên cần gắn chặt với những
yêu cầu, đòi hỏi của xã hội và cụ thể hoá phù hợp với từng hồn cảnh, đối
tượng thanh niên. Mơi trường giáo dục hiệu quả nhất chính là đưa thanh niên
hồ mình vào các phong trào thi đua, phong trào hành động cách mạng (kể cả
khi thanh niên còn đang ngồi trên ghế nhà trường). Thông qua thực tiễn phong
trào để giáo dục và nâng cao giác ngộ lý tưởng cách mạng của tuổi trẻ.
- Thứ tư là, trong sự quan tâm của toàn Đảng và toàn xã hội, Đoàn
Thanh niên ý thức rất rõ những khó khăn, hạn chế và trách nhiệm trong xây
dựng tổ chức Đồn vững mạnh tồn diện về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ
sức đảm nhận tốt vai trò nòng cốt trong phong trào thanh niên và các hội của
thanh niên; xác định công tác giáo dục thanh niên là nhiệm vụ hàng đầu, là
chức năng chủ yếu của tổ chức Đồn trong đó nội dung giáo dục lý tưởng cách
mạng cho thanh niên là cốt lõi và xun suốt trong mọi hoạt động của mình.
Từ đó, các tổ chức thanh niên sẽ tiếp tục tìm tịi, đổi mới các phương thức,
hình thức, tăng cường các nội dung, biện pháp giáo dục đạo đức cho thanh
niên; lồng ghép nội dung giáo dục trong tất cả các mặt cơng tác, các hoạt động
khác của Đồn như đồn kết, tập hợp thanh niên, tổ chức các phong trào thi
đua, đảm nhận các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, thơng qua
đó để giáo dục và rèn luyện thanh niên; xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn, Hội
tạo nguồn phát triển đảng viên từ thanh niên; nâng cao năng lực tham mưu, đề
xuất với các cấp uỷ, chính quyền và phối hợp với các cấp, các ngành, đoàn
thể, các lực lượng xã hội để tăng cường cơng tác giáo dục thanh niên.
2.1.2. Chương trình giảng dạy môn Giáo dục Công dân ở các
trường THPT và THCS
Việc học tập môn Giáo dục Công dân (GDCD) ở các trường trung học
phổ thông (THPT) và trung học cơ sở (THCS) đã trang bị cho đoàn viên, học
sinh những hiểu biết ban đầu về thế giới quan duy vật và phương pháp luận
biện chứng, biết được những phạm trù cơ bản của đạo đức như chủ nghĩa yêu
nước, lòng nhân ái, hiếu học, cần cù… bên cạnh đó việc học tập GDCD sẽ
- 21 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
giúp cho học sinh hiểu được một cách sâu sắc những yêu cầu những đòi hỏi
của thanh niên hiện nay kết hợp với những chuẩn mực đạo đức mà học sinh đã
được học ở các lớp dưới được nâng lên thành những giá trị đạo đức, tư tưởng
chính trị, lối sống của con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH nhằm giải
quyết hợp lý, có hiệu quả các mối quan hệ xã hội một cách tốt nhất. Đồng thời,
việc học tập mơn GDCD ở nhà trường phổ thơng cịn giúp học sinh có nhận
thức rõ trách nhiệm của thanh niên đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN, trang bị cho học sinh phương pháp luận đúng đắn để
học sinh có đủ bản lĩnh, đủ năng lực chủ động và tự giác xác định và thực hiện
phương hướng phát triển của bản thân sau khi tốt nghiệp trung học phổ thơng
bằng các hình thức học nghề, học trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại
học… để tạo thuận lợi cho thanh niên có được những năng lực cơ bản của bản
thân, giao tiếp và ứng xử, tổ chức quản lý, hoạt động chính trị- xã hội, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh. Năm điều Bác Hồ dạy là sự thực hiện những nguyên
tắc đạo đức XHCN dưới một hình thức giản dị nhất và phù hợp nhất đối với
lứa tuổi thanh thiếu niên, trong hoàn cảnh cụ thể nước ta cũng như sự phát
triển nhanh của thời đại CNH, HĐH. Trong công tác giáo dục con người nói
chung và cơng tác giáo dục đồn viên, thanh niên nói riêng, để xây dựng cho
đồn viên thanh niên hiểu được những nguyên tắc đạo đức, cần chú ý bảo đảm
các yêu cầu sau:
- Thứ nhất, cần trang bị cho đồn viên thanh niên có những quan niệm
đạo đức đúng đắn, có kiến thức sâu rộng, có tình thương yêu con người, có
thái độ và hành động chân thực, kiên định vững vàng và khéo léo trong xử lý
mọi tình huống. Đó là cơ sở của những nền tảng để giúp cho con người có tinh
thần trách nhiệm trước bản thân, gia đình, tập thể và xã hội, từ đó giữ được
những ngun tắc sống đúng đắn. Nếu khơng có những mặt đạo đức cơ bản và
tối thiểu đó con người sẽ dễ bị tác động xấu của hoàn cảnh sống hoặc những
ham muốn bản năng dẫn đến những hành động mù quáng, làm liều gây những
hậu quả tai hại đối với bản thân và xã hội.
- 22 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
- Thứ hai, giáo dục tinh thần tự lực tự cường, phong cách làm việc của
người công dân dưới chế độ mới: có kỷ cương, nề nếp, tình thương và ý thức
trách nhiệm cao. Nguyên tắc này phù hợp với đạo lý làm người, đó cũng là
tiêu chí để xây dựng con người XHCN ở nước ta hiện nay.
- Thứ ba, cần kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, như
sự hèn nhát, thói bàng quang, vơ trách nhiệm, vụ lợi. Vì chủ nghĩa cơ hội là
chủ nghĩa cá nhân nên trong bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào người cơ hội cũng
sẵn sàng lấy lợi ích của người khác để bảo vệ lợi ích và quyền lợi của bản
thân. Họ rời bỏ trận địa, chạy sang hàng ngũ kẻ thù hoặc bàng quang trong đấu
tranh lẫn trách nhiệm, nịnh bợ kẻ có chức, có quyền… tất cả những hiện tượng
đó là sự biểu hiện của sự đánh mất những nguyên tắc đạo lý làm người.
- Thứ tư, cần phải chống những hiện tượng vô nguyên tắc đạo đức
trong sinh hoạt cũng như trong đời sống, thói tuỳ tiện, thiếu khoa học và
khơng có kế hoạch, thường để lại những hậu quả khó lường khơng những ảnh
hưởng đến bản thân mà cịn gia đình và xã hội.
Vì vậy, việc học tập tốt, rèn luyện tốt mơn GDCD các trường THPT và
THCS nhằm trang bị cho đoàn viên, thanh niên những chuẩn mực đạo đức cơ
bản là việc làm thật cần thiết và có ý nghĩa thiết thực nhất là trong giai đoạn
hiện nay.
2.2. Nội dung cơ bản của các phẩm chất đạo đức cần thiết
Từ những căn cứ xác định về phẩm chất đạo đức cần giáo dục cho đoàn viên,
thanh niên, ta thấy những nội dung cần để rèn luyện phẩm chất đạo đức con
người Việt Nam nói chung và đồn viên thanh niên nói riêng theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương V, khóa VIII về nhiệm vụ xây dựng con người Việt
Nam trong thời kì CNH, HĐH là: 1 –Lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc; 2- Ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng – nước; 3 –
Lịng nhân ái, khoan dung; 4 – Vì nghĩa; 5 – Cần Cù; 6 – Lạc quan; 7 – Hiếu
học.
- 23 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
2.2.1. Lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc
Có thể nói, lịng u nước, u q hương là “sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn
bộ lịch sử Việt Nam”[22; tr.114]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “
Dân tộc ta có lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của
dân tộc ta”[9; tr.117]. Lịch sử nghìn năm dựng nước và giữ nước, từ Văn
Lang, Âu Lạc đến nay, khơng ai có thể phủ nhận tình cảm yêu nước là một
tình cảm lớn nhất của dân tộc Việt Nam. Với dân tộc Việt Nam, Tổ quốc là
trên hết, là thiêng liêng nhất. Đặc biệt, tình cảm yêu nước đã nâng lên thành
chủ nghĩa yêu nước và trở thành thứ “vũ khí” bất khả chiến bại trước mọi kẻ
thù xâm lược. Nội dung đạo đức của lòng yêu nước thể hiện ở:
Thứ nhất, yêu nước là yêu nhân dân lao động. Đây là nguyên tắc địi
hỏi con người cần có lịng tự hào dân tộc, lịng u kính đối với nhân dân…
tạo thành ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước.
Thứ hai, yêu nước ngày nay gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội và dựa
trên cơ sở lập trường của giai cấp cơng nhân.
Có thể khẳng định rằng, trên thế giới chưa có nước nào bị xâm lược
nhiều lần bởi những nước lớn mạnh nhất thế giới qua các thời đại như Việt
Nam. Đó là các triều đại phong kiến hùng mạnh của Trung Quốc như: Tần,
Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh và các nước thực dân, phát-xít:
Pháp, Nhật, Mỹ. Nhưng chính chủ nghĩa yêu nước đã giúp nhân dân ta đấu
tranh giành lại độc lập cho dân tộc. Điều quan trọng đáng lưu ý nữa là lòng
yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam ln gắn liền với ý chí tự cường dân
tộc. Tinh thần ấy đã được hun đúc và thử thách trong khi đối mặt với những kẻ
thù tàn bạo nhất thế kỷ và cuối cùng nó được khằng định như một chân lý, tinh
thần yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường được thừa nhận như một giá trị cao
quý nhất của người Việt Nam.
2.2.2. Ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình –làng – nước
- 24 -
Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm
TƠN THỊ TÚ TRINH
Kết cấu cá nhân – gia đình – làng xã – nước là một kết cấu bền chặt của
xã hội Việt Nam. Đối với người Việt Nam, gia đình là nước thu nhỏ, nhưng
mở rộng gia đình là làng. Cho nên, “Làng cũng là mở rộng của huyết thống”
[23; tr.7]. Nhìn lại quá khứ, chúng ta thấy, lịch sử nước ta gắn liền với việc
đắp đê chống lũ, chống ngoại xâm. Chính trong điều kiện đó, nhân dân ta đồn
kết gắn bó với nhau và yêu thương cộng đồng, đất nước. Đây là hai yếu tố
được xem như sản phẩm “bẩm sinh” của tính cộng đồng và tính tự trị làng xã
Việt Nam. Chính vì vậy, có thể nói rằng, hoàn cảnh kinh tế, xã hội Việt Nam
đã sinh ra một “sản phẩm đặc thù” đáng q, đó là tính cộng đồng. Nhờ tính
cộng đồng, người Việt Nam ln sẵn sàng đoàn kết tương trợ giúp đỡ nhau,
coi mọi người trong cộng đồng như anh em một nhà; “Tay đứt ruột xót”, “chị
ngã em nâng”, “lá lành đùm lá rách”. Họ đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá
nhân, lợi ích của làng – nước lên trên lợi ích của gia đình. Họ thích sống, hoạt
động và cống hiến trong cộng đồng và muốn đặt mình trong quan hệ với gia
đình – làng xã – Tổ quốc. Ngày nay, ở những làng q tính cộng đồng, tình
làng nghĩa xóm vẫn duy trì bền chặt. Người ta chia sẻ nhau những niềm vui
trong lễ hội, tân gia, mừng thọ; người ta cũng chia sẻ nhau nhiều nỗi buồn bất
hạnh của cuộc đời như: ma tang, hỏa họan, bệnh tật… hay vừa qua, cả nước
cùng nhau ký hàng triệu chữ ký đòi Mỹ phải bồi thường những thiệt hại,
những mất mát cuộc đời của những nạn nhân bị nhiễm chất độc màu da cam
đã góp phần nào xoa dịu nổi đau khó có thể bù đắp được. Chính vì vậy, có thể
nói rằng, tính cộng đồng là một truyền thống quý báu, là nguồn sức mạnh nội
sinh của con người Việt Nam từ xa xưa cho đến ngày nay; “là cốt lõi của
những giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam” [24; tr.93]
2.2.3. Lòng nhân ái
Lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam có nguồn gốc sâu xa từ thời kỳ
công xã nguyên thủy, buổi đầu dựng nước. “Nhân ái” trong quan hệ gia đình
của người Việt Nam biểu hiện ở chỗ, cha mẹ lo cho con từ khi cịn nhỏ, con
cái có trách nhiệm lo cho cha mẹ khi cha mẹ già yếu, bệnh tật. Còn anh em
- 25 -