Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

quan diểm của nho giáo về đạo đức của người cầm quyền và ý nghĩa của nó trong công tác giáo dục đạo đức cán bộ công chức ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.43 KB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

VŨ VĂN LONG

QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC
CỦA NGƯỜI CẦM QUYỀN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

VŨ VĂN LONG

QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI
CẦM QUYỀN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG CÔNG
TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ NGA

HÀ NỘI - 2010




MỤC LỤC
Tr
ang
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

7

Chương 1: QUAN NIỆM CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO VỀ ĐẠO
ĐỨC NGƯỜI CẦM QUYỀN

7

1.1. Người cầm quyền phải lấy “Đạo đức” làm gốc.

7

1.2. Những chuẩn mực và yêu cầu đạo đức cơ bản của người cầm
quyền.

14

1.2.1. Người cầm quyền trước hết phải là người có “ Nhân, Lễ, Chính
danh”.


14

1.2.2 Người cầm quyền phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức (tu thân).

24

1.2.3. Người cầm quyền phải biết coi trọng dân, dưỡng dân, giáo hoá
dân.

27

Chương 2: NHO GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CẦM QUYỀN TRONG
NHO GIÁO ĐỐI VỚI TẦNG LỚP QUAN LẠI VÀ NHO SĨ
TRONG XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM.

36

2.1. Khái lược sự du nhập và phát triển Nho giáo ỏ Việt Nam .

36

2.1.1. Nho giáo thời kỳ Bắc thuộc.

36

2.1.2.Nho giáo thời kỳ độc lập..

38


2.2.Ảnh hưởng của quan niệm về đạo đức người cầm quyền trong
Nho giáo đối với tầng lớp quan lại và nho sĩ trong xã hội phong
kiến Việt Nam.

45

2.2.1. Đề cao vai trò của đạo đức và tu dưỡng đạo đức.

45

2.2.2. Đề cao các giá trị Trung-Hiếu, Nhân- Nghĩa

49

2.2.3. Các triều đại phong kiến đều đề cao vai trò của dân, thực thi

53


chính sách an dân.
Chương 3.KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ TÍCH CỰC
TRONG QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI
CẦM QUYỀN TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC HIỆN NAY

59

3.1. Cán bộ, công chức và sự cần thiết phải giáo dục đạo đức cho
đội ngũ cán bộ công chức trong giai đoạn hiện nay


59

3.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức, Đạo đức cán bộ, công chức

59

3.1.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho cán bộ, công
chức trong giai đoạn hiện nay.

63

3.2. Một số nguyên tắc và giải pháp cơ bản để kế thừa, phát huy
các giá trị tích cực trong quan niệm của Nho giáo về đạo đức người
cầm quyền trong công tác giáo dục đạo đức cán bộ, công chức hiện
nay.

69

3.2.1. Nguyên tắc kế thừa và phát huy các giá trị tích cực trong quan
niệm của Nho giáo về đạo đức người cầm quyền trong công tác giáo
dục đạo đức cán bộ, công chức hiện nay.

69

3.2.2 Một số giải pháp cơ bản để kế thừa, phát huy các giá trị trong
quan niệm của Nho giáo về đạo đức người cầm quyền trong công tác
giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.

83


KẾT LUẬN

97

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

99


BẢNG QUY ƯỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

TCN

: Trước công nguyên

SCN

: Sau công nguyên

PGS.TS

: Phó giáo sư. Tiến sỹ

TS

: Tiến sỹ

Nxb

: Nhà xuất bản



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, là phương thức đặc biệt
để nhận thức cuộc sống và điều chỉnh hành vi của con người. Đạo đức đã sớm
xuất hiện trong lịch sử xã hội, khẳng định vai trò to lớn trong việc đảm bảo sự
ổn định, phát triển của xã hội. Chính vì vậy việc xây dựng và giáo dục đạo
đức cho con người nói chung, của người cầm quyền nói riêng là vấn đề mà
mọi chế độ xã hội đều quan tâm.
Thực tế cho thấy, sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đất nước đang chuyển mình và đạt nhiều thành tựu to lớn. Góp
phần vào những thắng lợi ấy, phải kể đến ý nghĩa của việc xây dựng, rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức. Bởi lẽ
đây là những người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức, hướng dẫn nhân dân thực hiện
những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước. Tuy nhiên,
bên cạnh mặt tích cực thì với mặt trái của cơ chế thị trường, cùng với sự
chống phá của các thế lực thù địch và sự yếu kém trong công tác giáo dục tư
tưởng, lý luận, rèn luỵên đạo đức cách mạng, việc coi nhẹ tu dưỡng bản thân,
trong những năm vừa qua ở nước ta đã dẫn đến “tình trạng tham nhũng, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ
đảng viên là rất nghiêm trọng”. Đáng chú ý là sự suy thoái về phẩm chất này
trong đội ngũ cán bộ, công chức vẫn đang có chiều hướng gia tăng làm xói
mòn lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, của nhà
nước, ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc, tạo thành
nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta. Vì vậy, việc tăng cường giáo
dục, rèn luyện đạo đức lối sống cho đội ngũ cán bộ, công chức càng trở nên
đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay.

1



Nho giáo khởi nguồn từ Trung Quốc, được du nhập vào Việt Nam từ
thời Bắc thuộc, được “Việt Nam hóa” trong suốt chặng đường lịch sử, góp
phần đáng kể vào việc tạo dựng nền văn hiến Việt Nam. Nho giáo đã từng là
hệ tư tưởng thống trị trong kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống chính trị, văn hóa tinh thần, giúp cho giới cầm quyền Việt
Nam xây dựng một hệ thống hành chính và quản lý xã hội bao gồm những trí
thức được đào tạo công phu về kiến thức, về cách cư xử xã hội, về phẩm chất
của kẻ làm quan. Ngày nay, dù muốn hay không tư tưởng của Nho giáo vẫn
phần nào đang chi phối xã hội Việt Nam; con người Việt Nam dù tự giác hay
không tự giác vẫn còn dấu ấn của Nho giáo.
Đứng trên lập trường đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp với thực tiễn cách mạng ở nước ta. Việc nghiên
cứu tư tưởng đạo đức Nho giáo để nhìn nhận, đánh giá rõ hơn những yếu tố
không còn phù hợp, những phản giá trị cần gạt bỏ, đồng thời kế thừa những
tinh hoa của nó trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay dưới góc nhìn
của triết học có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn, vừa cấp
thiết trước mắt vừa cơ bản lâu dài. Do đó tôi chọn đề tài: “Quan niệm của
Nho giáo về đạo đức người cầm quyền và ý nghĩa của nó trong công tác
giáo dục đạo đức cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu:
Ở các nước phương Đông người ta đã bàn nhiều đến Nho giáo nhưng
đến ngày nay nhiều vấn đề của Nho giáo vẫn còn đang được đặt ra, đòi hỏi có
sự đi sâu tìm hiểu và khám phá. Nho giáo ngày càng thu hút sự quan tâm của
xã hội nhiều hơn không những ở các nước phương Đông mà còn ở các học giả
trên thế giới.
Ở Việt Nam từ trước tới nay các tác phẩm nghiên cứu về Nho giáo và
ảnh hưởng của nó ở Việt Nam được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu viết
với một số lượng đáng kể.


2


Trước hết phải kể đế cuốn “Khổng học đăng” của Phan Bội Châu và
“Nho giáo” của Trần Trọng Kim. Trong hai tác phẩm này, thông qua việc
trình bầy, phân tích một số phạm trù, nguyên lý cơ bản của Nho giáo trong
quá trình hình thành và phát triển của chúng. Hai ông đều nhìn nhận Nho giáo
không chỉ là học thuyết triết học mà còn là học thuyết chính trị - xã hội; học
thuyết đạo đức. Các ông đặc biệt đề cao những yếu tố, nhân tố tích cực của
Nho giáo, coi đạo đức Nho giáo có vai trò to lớn trong việc giáo dục, hoàn
thiện đạo đức con người và ổn định trật tự kỷ cương xã hội.
Các tác phẩm sau này như cuốn “Nho giáo xưa và nay” do giáo sư Vũ
Khiêu (chủ biên); cuốn“Nho giáo xưa và nay” của nhà nghiên cứu Quang
Đạm; cuốn “Đến hiện đại từ truyền thống” của cố giáo sư Trần Đình Hượu;
cuốn “Nho học và Nho học ở Việt Nam” của giáo sư Nguyễn Tài Thư; cuốn
“Bàn về đạo Nho” của Nguyễn Khắc Viện; cuốn “Nho giáo và phát triển ở
Việt Nam” do giáo sư Vũ Khiêu viết xuất bản năm 1997; PGS.TS. Nguyễn
Thị Nga và PGS.TS. Hồ Trọng Hoài với tác phẩm “Quan niệm của Nho giáo
về giáo dục con người”; Tác phẩm “Học thuyết chính trị - xã hội của Nho
giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Thanh Bình... Ở các
tác phẩm này các tác giả đã đứng trên lập trường duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử để phân tích các vấn đề của Nho giáo và chỉ ra những ảnh hưởng của
nó đối với xã hội Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại ở những góc độ
khác nhau.
Ngoài ra liên quan đến đề tài luận văn còn có nhiều luận án tiến sĩ, luận
văn thạc sĩ triết học, các bài viết trên các tạp chí gần đây bàn về Nho giáo và
ảnh hưởng của nó ở Việt Nam: “Phải chăng Nho học là động lực phát triển
kinh tế” của Phó giáo sư Hà Thúc Minh; bài “truyền thống Nho giáo và việc
xây dựng con người trong giai đoạn mới” của giáo sư Nguyễn Tài Thư; bài

“Từ quan niệm phẩm chất kẻ trị dân của Khổng Mạnh đến tư tưởng về đạo
đức người cán bộ cách mạng của Hồ Chí Minh” của PGS.TS Nguyễn Thị

3


Nga; “Thuyết Đức trị của Khổng Tử và ảnh hưởng của nó với phương thức
quản lý xã hội ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Quốc Đoàn; “ Đạo đức Nho
giáo với sự hình thành và phát triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” của
Nguyễn Thị Hồng Doan; “Đường lối đức trị của Nho giáo từ Khổng Tử đến
Mạnh Tử” của Nguyễn Kim Bình…
Qua các công trình nghiên cứu trên, các nhà khoa học đã có nhiều đóng
góp quí giá để khẳng định những giá trị truyền thống Nho giáo, ảnh hưởng
của nó ở Việt Nam, làm cơ sở cho các công trình nghiên cứu tiếp tục sau này
và cũng là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu của luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
* Mục đích:
Luận văn phân tích và làm sáng tỏ những quan niệm cơ bản của Nho
giáo về đạo đức người cầm quyền, từ đó chỉ ra một số nguyên tắc và giải pháp
cơ bản nhằm kế thừa phát huy các giá trị tích cực, hạn chế những tác động
tiêu cực trong quan niệm cơ bản của Nho giáo về đạo đức người cầm quyền
trong công tác giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện
nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu, làm rõ những quan điểm của Nho giáo về đạo đức người
cầm quyền.
- Nghiên cứu những tác động của quan niệm về đạo đức người cầm
quyền trong Nho giáo đối với tầng lớp quan lại và nho sĩ trong xã hội phong
kiến Việt Nam.
- Chỉ ra được các nguyên tắc và giải pháp chủ yếu cho việc kế thừa các

giá trị trong quan niệm của Nho giáo về đạo đức người cầm quyền trong công
tác giáo dục đạo đức cán bộ, công chức hiện nay.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các quan niệm cơ bản của Nho giáo về đạo đức
của bậc quân tử cầm quyền, tác động của nó đối với tầng lớp quan lại trong xã
hội phong kiến Việt Nam.
Ý nghĩa của quan niệm của Nho giáo về đạo đức người cầm quyền
trong công tác giáo dục đạo đức cán bộ, công chức hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Có thể nói Nho giáo là một học thuyết về đạo đức, đây là một vấn đề
lớn gồm nhiều giá trị trong các lĩnh vực khác nhau. Luận văn này chỉ đề cập
đến những quan niệm cơ bản về đạo đức người cầm quyền trong Nho giáo,
chủ yếu ở các nhà nho thời Tiên Tần và Hán nho.
Đội ngũ cán bộ, công chức được đề cập trong luận văn là những người
được xác định trong luật cán bộ - công chức đã được nhà nước ban hành.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những
quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam làm cơ sở lý luận.
Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch để
nghiên cứu học thuyết Nho giáo; tìm ra cái cốt lõi của nó trong quan niệm về
đạo đức người cầm quyền; tìm hiểu những vấn đề đang đặt ra trong nền kinh
tế thị trường, những tác động tích cực, tiêu cực của nó đối với đạo đức cán bộ,
công chức ở nước ta hiện nay.
Sử dụng phương pháp biện chứng duy vật; phương pháp lịch sử và
lôgic để tìm hiểu vai trò, ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử Việt Nam và

việc kế thừa, phát huy các giá trị của đạo đức Nho giáo trong việc giáo dục
đạo đức cán bộ, công chức hiện nay.
Ngoài ra việc thực hiện luận văn này còn được dựa trên nguyên tắc kết
hợp lý luận với thực tiễn…
5


6. Giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
* Giá trị khoa học:
Trước nay đã nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã viết về các vấn đề
Nho giáo như lịch sử phát triển, ảnh hưởng của Nho giáo đến kinh tế, văn hóa
xã hội, đạo đức truyền thống Việt Nam... Tuy nhiên chưa có công trình nào đề
cập một cách trực tiếp, cụ thể đến vấn đề đạo đức người cầm quyền và ý
nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức
trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu đã
đạt được, dưới góc độ triết học luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu vấn đề trên.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn đã chỉ ra một số giá trị trong quan niệm của Nho giáo về đạo
đức người cầm quyền mà chúng ta có thể kế thừa trong công tác giáo dục đạo
đức cho đội ngũ cán bộ, công chức; đề ra một số nguyên tắc, giải pháp cho sự
kế thừa đó.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định
chiến lược, kế hoach đào tạo, bồi dưỡng nâng cao đạo đức cách mạng cho đội
ngũ cán bộ, công chức hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
Luận văn bao gồm 3 chương 6 tiết:
Chương 1: Quan niệm cơ bản của Nho giáo về đạo đức người cầm
quyền.
Chương 2: Nho giáo ở Việt Nam và Ảnh hưởng của quan niệm về đạo

đức người cầm quyền trong Nho giáo đối với tầng lớp quan lại và Nho sĩ
trong xã hội phong kiến Việt Nam.
Chương 3: Kế thừa và phát huy các giá trị tích cực trong quan niệm
của Nho giáo về đạo đức người cầm quyền trong công tác giáo dục đạo đức
cán bộ công chức hiện nay.
6


Chương 1
QUAN NIỆM CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO
VỀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CẦM QUYỀN

1.1. Người cầm quyền phải lấy “Đạo đức” làm gốc
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức. Nho giáo ra đời chủ
yếu từ thực trạng hết sức rối loạn của xã hội Trung Quốc thời cổ đại. Mục
đích của những người sáng lập và phát triển Nho giáo là nhằm giải đáp vấn đề
và nhiệm vụ thực tiễn của xã hội Trung Quốc đặt ra lúc bấy giờ là sự cần thiết
phải khắc phục cái “thực trạng” đó, phải ổn định trật tự, kỷ cương xã hội, đưa
xã hội từ “loạn” tới “trị”. Với tư cách là một học thuyết chính trị - đạo đức,
Nho giáo đã đưa ra những quan niệm về thiện, ác, đạo làm người cùng những
chuẩn mực, những quy tắc ,quy phạm đạo đức để điều chỉnh, đánh giá hành vi
của con người trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá
nhân với gia đình, nước, thiên hạ. Hệ thống các phạm trù, nguyên lý, chuẩn
mực, nguyên tắc, quy phạm đạo đức ấy trong học thuyết Nho giáo không chỉ
phản ánh các quan hệ đạo đức mà còn phản ánh các quan hệ chính trị của xã
hội và con người. Do vậy, những phạm trù, nguyên lý, chuẩn mực, quy phạm
đạo đức còn là những phạm trù, nguyên lý, chuẩn mực chính trị, nhằm mục
đích chính trị.
Theo quan niệm của Khổng Tử “Đạo” chính là năm mối quan hệ xã
hội cơ bản của con người, được gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân:

vua - tôi, cha - con , chồng - vợ, anh - em, bạn - bè. Trong đó ba mối quan hệ
quan hệ đầu tiên vua - tôi, cha - con, chồng - vợ được coi là cơ bản nhất mà
sau này được Đổng Trọng Thư gọi là tam cương. Đó là sợi dây ràng buộc con
người từ trong quan hệ gia đình đến quan hệ xã hội: quân vi thần cương, phu
vi phụ cương, phụ vi tử cương (Vua là cương lĩnh của bề tôi, chồng là cương
lĩnh của vợ, cha là cương lĩnh của con).

7


“Đức” chính là phẩm chất quan trọng mà con người cần phải có để thực
hiện tốt năm mối quan hệ cơ bản nêu trên. Khổng tử nhấn mạnh đức cơ bản
của con người là là: Trí, Nhân, Dũng. Ông nói “Người có ba đức trí, nhân,
dũng là thiên hạ có đạo đức’’(Trí, nhân, dũng tam dã thiên hạ chi đạt đức dã)
[21, tr.127]. Mạnh Tử lại nêu lên tứ đức: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, ông cho rằng
bốn đức này khi sinh ra con người đã sẵn có và nó có nguồn gốc từ bốn đầu
mối là lòng trắc ẩn, lòng tu ố, lòng từ nhượng, lòng thị phi. Bốn đức ấy là biểu
hiện tính thiện của con người, trong đó lòng trắc ẩn (biết thương xót) là đầu
mối của đức nhân, lòng tu ố (biết thẹn, biết ghét) là đầu mối của đức nghĩa,
lòng từ nhượng (cung kính, khiêm nhường) là đầu mối của lễ, lòng thị phi
(biết phân biệt đúng, sai, phải, trái) là đầu mối của đức trí. Đến Đổng Trọng
Thư, ông nêu lên ngũ thường bao gồm năm chuẩn mực đạo đức: Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí, Tín. Tam cương kết hợp với ngũ thường được gọi tắt là đạo
“cương - thường”, hay mở rộng ra sự kết hợp ngũ luân với ngũ thường gọi là
luân thường. “Cương - thường” là nội dung cơ bản của trong đạo làm người
của Nho giáo. “Cương - thường” là nguyên tắc chi phối mọi hành động, suy
nghĩ của con người, góp phần điều chỉnh hành vi của con người, là nhân tố
quan trọng làm cho xã hội ổn định, trật tự, có trên có dưới. Nó là cơ sở bảo
đảm cho quyền thống trị của thiên tử.
Là hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến, mục đích của Nho giáo là

nhằm bảo vệ chế độ phong kiến tập quyền, cho nên Nho giáo quan tâm đặc
biệt đến đạo đức của người cầm quyền (vua và tầng lớp quý tộc, quan lại). Để
ổn định xã hội, Nho giáo khuyên các bậc cầm quyền theo đường lối đức trị.
Đó là đường lối trị nước, quản lý xã hội dựa trên những chuẩn mực đạo đức.
Đó là hệ thống những chuẩn mực, những nguyên tắc, quy phạm đạo đạo đức
để điều chỉnh hành vi của con người trong các mối quan hệ xã hội, nhằm đảm
bảo sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Đức trị phản ánh
nhu cầu lợi ích của giai cấp thống trị, được biểu hiện dưới hình thức những

8


quy định và những đánh giá trên cơ sở xác lập những giá trị luân lý, được mọi
người thừa nhận một cách tự giác. Nó được củng cố bằng những tấm gương
đạo đức, đặc biệt là đạo đức của những người cầm quyền.
Các nhà Nho từ Khổng Tử đều đặc biệt đề cao vai trò của đạo đức, coi
đạo đức là công cụ, là phương tiện chủ yếu nhất, hữu hiệu nhất để đạt được
những mục đích chính trị. Trong công việc chính trị, người cầm quyền phải
đặt đạo đức lên hàng đầu, lấy đạo đức làm gốc. Nho giáo khẳng định đạo đức
là gốc của con người, đặc biệt là các bậc quân tử cầm quyền.
Nói đến con người là nói đến đạo đức. Thiên “Học phi” - sách Luận
ngữ viết “Làm người có nết hiếu đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không
xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm
chú vào việc gốc. Gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu đễ là gốc của đức
nhân… [29, tr.26]. Khi quan niệm về chính trị Khổng tử khẳng định phải lấy
đạo Nhân làm gốc: lấy hiếu đễ, lễ nhạc làm cơ bản cho sự giáo hóa để gây
thành đạo nhân; lấy chính trị làm công dụng của đạo nhân mà thi thố ở đời.
Ông nói rằng: “Nhân đạo mẫn chính, địa đạo mẫn thụ. Phù chính giả giã, bồ
lư giã. Cố vi chính tại nhân, thủ nhân dĩ thân, tu thân dĩ đạo, tu đạo dĩ nhân”
(cái nhanh thành hiệu của của đạo người là việc chính trị, cái nhanh thành

hiệu của đạo đất là việc mọc của cây cối. Ấy việc chính trị cũng như cây lau
cây sậy. Cho nên làm chính trị cốt ở dùng người hiền; sửa mình, mà dùng
người hiền, lấy đạo mà sửa mình, lấy nhân mà sửa đạo) [26, tr.125]. Nghĩa là
việc chính trị cốt ở đạo nhân, lấy nhân mà sửa đạo, lấy đạo mà sửa mình. Có
sửa được mình cho ngay chính thì kẻ hiền tài mới theo mà giúp mình thì việc
chính trị rất có công hiệu, khác nào đốt đất thì cây cỏ mọc lên nhanh chóng
vậy. Đạo nhân vốn là cái gốc của việc chính trị cho nên bậc quân tử cần sửa
mình cho đến bậc nhân, để đem cái đạo của mình mà thi hành ra khắp thiên
hạ.

9


Trước thời Khổng tử đã xuất hiện khái niệm “quân tử”. Nhưng thời đó
nó trỏ cái địa vị trong xã hội chứ không trỏ cái cái phẩm tính của con người.
Người có phận cao (tối đại đa số ở trong giai cấp quý tộc) cai trị dân, có
“Đức” hay không đều gọi là quân tử. Đến thời mình, Khổng Tử đã đề ra
những tiêu chuẩn về tài đức, về tư cách phẩm chất để trở thành người quân tử
đáng được nắm quyền trị dân. Nhờ đó quân tử không còn thuần túy chỉ người
cầm quyền như trước nữa mà chỉ những người có “Đức” cai trị dân.
Khổng Tử nói nhiều đến “Đức” nhất là “Đức” của người cầm quyền.
Ông coi đạo đức là công cụ, phương tiện chủ yếu nhất của giai cấp phong
kiến trong việc cai trị và quản lý xã hội. Khổng Tử cho rằng đạo đức, lễ giáo
có vai trò quyết định trong viêc duy trì địa vị, quyền lợi của giai cấp thống trị,
trong việc củng cố, duy trì chế độ phong kiến, trong việc cai trị xã hội. Trong
sách Luận ngữ, Khổng Tử nói: “Muốn dẫn dắt dân chúng, nhà cầm quyền
phải dùng đức hạnh; muốn trị dân phải dùng lễ tiết” [9, tr.15]. Ông luôn
khẳng định đạo đức rằng là biện pháp hiệu quả nhất trong việc thu phục nhân
tâm. Trong thiên Vi chính, sách Luận ngữ, ông nói: “Như ai thi hành việc
chính trị, cầm quyền cai trị nước nhà mà biết đem cái đức của mình bổ hóa ra,

thì mọi người đều phục tùng theo. Tỷ như ngôi sao bắc đẩu ở một chỗ mà các
ngôi sao khác chầu quanh mình” [26, tr.133]. Hay trong thiên Nhan uyên,
sách Luận ngữ có ghi chép: khi Quý Khang tử một quyền thần nước Lỗ hỏi
ông về chính trị: có nên giết kẻ vô đạo để cho người khác trở thành lương
thiện không, thì ông trả lời: “Trị dân cần gì phải giết người... Đức hạnh của
người quân tử “người trị dân tốt” như gió, mà đức của dân như cỏ, gió thổi thì
cỏ tất rạp xuống” (Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo. Thảo
thương chi phong tất yển) [26, tr.133]. Như vậy, nếu người trên mà có đức thì
cảm hóa dân rất dễ, vì dân có sẵn lòng phục, trọng, noi gương người trên mà
có đức. Khổng tử tin rằng: “Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt
để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn.

10


Dùng đạo đức để dẫn dắt dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân
biết hổ thẹn mà lại theo con đường chính” [26, tr.134].
Trong sách Mạnh tử, Mạnh tử cũng cho rằng người quân tử bao giờ
cũng phải lấy đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí làm tông chỉ của mình. Ông nói:
“Đất rộng, dân nhiều, đó là sự muốn của người quân tử, nhưng chưa phải là
cái vui của người quân tử. Đứng đầu trong thiên hạ, định được hòa bình cho
dân bốn bể, đó là cái vui của người quân tử, nhưng chưa phải là cái mà người
quân tử cho là bản tính của mình…Cái mà người quân tử cho là bản tính của
mình là nhân, nghĩa, lễ, trí, căn bản ở trong tâm người ta” [26, tr.199]. Người
quân tử lấy nhân nghĩa làm bản tính của mình, thì trong việc chính trị cũng
phải lấy nhân nghĩa làm gốc. Cho nên khi ông sang nước Lương, vua Huệ
vương hỏi ông: “Ông có điều gì làm lợi cho nước Lương không”. Ông gạt đi
và nói: “Vương hà tất viết lợi. Diệc hữu nhân nghĩa nhi dỹ hỹ” (Vua hà tất
phải nói lợi. Chỉ có nhân nghĩa mà thôi) [26, tr.202]. Nếu ông vua nói rằng
làm thế nào có lợi cho nước ta, quan đại phu nói rằng: làm thế nào có lợi cho

nhà ta, kẻ sĩ và kẻ thứ dân nói rằng: làm thế nào cho lợi thân ta; kẻ trên, người
dưới ai nấy đều tranh nhau việc lợi thì nguy vậy. Ý của Mạnh tử muốn nói
rằng nếu người ta ai cũng nghĩ đế điều lợi mà quên cả nhân nghĩa, thì thành ra
người ở đời cứ đắm say vào chỗ lợi lộc cho riêng mình, rồi chỉ tìm cách mà
phá hoại lẫn nhau. Từ dó mà sinh ra biến loạn, chiến tranh, làm cho thiên hạ
lầm than, rút cục lại cái tự tư tự lợi ấy chính là cái hại chứ không phải cái thật
lợi. Nhân nghĩa không nói đến lợi, nhưng kỳ thực lại là cái lợi rất to vì người
trong thiên hạ ai cũng đem lòng lo cho cái lợi chung của toàn thể trước cái lợi
riêng của mình, nên trên dưới hòa thuận, thiên hạ thái bình. Cái lợi chung ấy
mới thật là lợi. Người muốn làm vương cả thiên hạ thì phải: “Phát chính, thi
nhân, sử thiên hạ sĩ giả giai lục lập ư vương chi triều, canh giả giai dục canh
ư vương chi dã; thương cổ giai dục tàng ư vương chi thị, hành lữ giai dục
xuất ư vương chi đồ” (Phát cái chính trị ra, thi hành điều nhân, khiến kẻ ra

11


làm quan ở trong thiên hạ ai cũng muốn đứng trong triều nhà vua; kẻ cầy
ruộng ai cũng muốn cày trên đất nhà vua, kẻ buôn bán ai cũng muốn đến chợ
nhà vua, người đi đường ai cũng muốn đi đường nhà vua. Được như thế ai
chống lại được mình nữa) [26, tr.207-208].
Như vậy, người cầm quyền nếu thực hành đạo nhân, thi hành đường lối
“Nhân chính” sẽ giữ yên được bốn bể, bảo tồn được xã tắc, ngôi vị của con
cháu được duy trì. Ngược lại nếu thi hành đường lối bất nhân, tàn bạo với dân
thì nhà vua sẽ bị thất bại, đất nước sẽ bị diệt vong. Bởi “Người làm vua chúa
phải lấy cái đức mà hóa thiên hạ, như vậy thì tất là thiên hạ phải tôn phải quý.
Nếu người nào mà giữ ngôi quân mà lại chỉ biết có quyền lợi của mình và làm
những điều dâm tàn bạo ngược, không phải là là bậc nhân quân nữa”.“Vậy
nên ai biết lấy nhân nghĩa mà trị thiên hạ là yên, lấy tàn bạo mà trị thiên hạ là
nguy”. Mạnh tử còn tuyệt đối hóa vai trò của đường lối Đức trị (mà còn gọi là

Nhân trị, Vương đạo) coi việc cai trị bằng đạo đức là vô địch: “Đối với người
nhân dẫu kẻ địch có đông cũng chẳng làm gì được mình. Này nếu một vị quốc
quân thích làm nhân chính, trong thiên hạ chẳng ai địch nổi” [8, tr.17]. Quan
niệm của ông thật rõ ràng: “Người ưa điều thiện thì dư sức cai trị thiên hạ …
nếu nhà cầm quyền ưa điều thiện, ắt người trong bốn biển sẽ khinh thường
đường xa muôn dặm mà đến với mình, để mách bảo điều thiện với mình” [8,
tr.209]. Người nhân là người vô địch trong thiên hạ bởi vì: điều nhân thắng
điều bất nhân, cũng như nước thắng lửa.
Ngoài ra Nho giáo còn khẳng định đạo đức và việc thi hành đạo đức
còn là biện pháp tốt nhất để loại trừ tình trạng phi nhân, phi đạo đức trong xã
hội, là phương tiện để duy trì trật tự kỷ cương và sự ổn định xã hội. Theo các
nhà Nho, để thiết lập và duy trì trật tự, kỷ cương và sự ổn định của gia đình
cũng như của xã hội thì cần phải thực hành các biện pháp mang nội dung đạo
đức. Tức là người cầm quyền phải lấy các chuần mực đạo đức nhân, lễ, nghĩa,
trí, tín mà bổ hoá ra toàn xã hội, phải làm cho những chuẩn mực đạo đức ấy

12


trở thành những nguyên tắc, những quy phạm chi phối mọi hành vi của con
người, mọi mối quan hệ từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Có như vậy, theo
Nho giáo, mỗi người mới có đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; mới bảo tồn
được tính thiện, trừ bỏ được tính ác và “gia mới tề; quốc mới trị; thiên hạ mới
bình”. Nhưng để đạt được mục đích cuối cùng này, các nhà Nho đều khẳng
định rằng điều quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định là mọi người trong thiên
hạ, đặc biệt là người cầm quyền đều phải tận tâm tu dưỡng đạo đức (tu thân):
“Từ bậc thiên tử cho đến kẻ thứ dân, tất cả đều lấy việc sửa mình làm gốc”
[53, tr.36]. Người cầm quyền còn phải là tấm gương đạo đức cho dân, để dân
noi theo. Khổng Tử đã khuyên rằng: người cai trị phải dùng đức để trị dân
chứ không nên dùng chính hình. Mạnh Tử cũng cho rằng: nhà vua cần phải

thực hiện Vương đạo (đạo đức của nhà vua), bởi theo ông nếu dùng sức thì sẽ
mau thắng mà không bền. Chỉ có dùng đạo đức để trị dân thì dân mới có sự
mến phục ở trong lòng. Nhà cầm quyền phải biết khoan, tín, mẫn, huệ, bởi chỉ
có lòng khoan dung thì mới được lòng trăm họ. Song muốn trị dân bằng đức
(Đức trị) muốn thu phục nhân tâm thì tự nhà cầm quyền phải đặt nhiệm vụ
cho mình là làm gương cho dân; trước hết phải tự mình tu dưỡng, có như vậy
dân mới tuân theo phép tắc, mới tự giác theo mình và nền cai trị mới được giữ
vững. Khổng tử: “Người trên chuộng lễ thì dân chẳng ai dám bất kính. Người
trên chuộng nghĩa, thì dân chẳng ai dám bất phục. Người trên chuộng chữ tín,
thì dân chẳng ai dám không thật lòng. Được như vậy dân ở bốn phương sẽ địu
con theo mà theo về” [53, tr.444] còn: “tự mình mà không đúng đắn, thì dẫu
ra lệnh dân cũng không theo” [53, tr.444]. Như vậy, theo Nho giáo, người cai
trị phải biết sửa mình, tu đức, làm gương thì mới dễ cai trị dân. Nếu nhà cầm
quyền nhân nghĩa, không tham lam, không có thói hư tật xấu thì tự dân sẽ bị
cảm hóa mà noi theo, kỷ cương xã hội được duy trì, trật tự xã hội được ổn
định. Việc tu dưỡng đạo đức là cả một quá trình lâu dài với một nỗ lực bền bỉ.
Nhà cầm quyền phải tu dưỡng đạo đức ở mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh:

13


“Người quân tử chẳng bao giờ rời bỏ điều nhân, dù chỉ trong khoảng thời gian
một bữa ăn, dẫu trong lúc cơn vội vàng hay trong lúc nghiêng ngả chao đảo,
người ấy cũng ở với điều nhân” [9, tr.53]. Không chỉ vậy bên cạnh việc tu
đức, làm gương trong việc thi hành cái đức của mình, người cầm quyền còn
đem cái đức đó mà giáo hóa mọi người, bổ hóa khắp thiên hạ.
Nói tóm lại, trong quan niệm về chính trị Nho giáo đã đề cao đến mức
tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức, của đường lối Đức trị, trong việc khôi phục,
duy trì trật tự, kỷ cương, ổn định xã hội, trong việc tạo lập và hoàn thiện nhân
cách con người. Đây là quan điểm đúng đắn nhằm khắc phục tình trạng rối

loạn của xã hội lúc bấy giờ; tuy nhiên nó cũng tạo ra sự phiến diện trong cách
nhìn nhận, đánh giá con người và cũng chính vì vậy mà Nho giáo cũng chỉ tạo
ra những con người phiến diện chứ không phải là con người toàn diện, đủ
năng lực để thực hiện vai trò của mình trong xã hội, loại trừ tình trạng rối loạn
của xã hội, đưa xã hội đến thái bình thịnh trị như mong muốn của các nhà
Nho. Người cầm quyền có đạo đức, con người lý tưởng trong quan niệm của
Nho giáo thực chất cũng chỉ là những con người cần có của chế độ phong
kiến, nhằm phục vụ những lợi ích của giai cấp thống trị mà thôi.
1.2. Những chuẩn mực và yêu cầu đạo đức cơ bản của người cầm quyền
1.2.1. Người cầm quyền trước hết phải là người có “Nhân,lễ, chính danh”
Nhân, Lễ và Chính danh là những phạm trù trung tâm và cơ bản nhất
trong quan niệm về đạo đức của người cầm quyền, trong tư tưởng đức trị nói
riêng, trong học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo nói chung. Chúng
thống nhất với nhau. Trong đó Nhân là nội dung, là hạt nhân của Lễ; Lễ là
hình thức thể hiện của Nhân và trên bình diện chính trị sự thống nhất của
Nhân và Lễ là Chính danh.
Nhân là phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo “cương
thường”. Tất cả các phạm trù đạo đức khác đều xoay quanh phạm trù trung
tâm này. Từ “đức nhân” mà phát ra các đức khác, và các đức khác lại quy tụ

14


về với “đức nhân”, là biểu hiện của “đức nhân”. Trong tác phẩm luận ngữ,
Khổng tử đã nhiều lần nhắc đến chứ Nhân. Ông luôn mong ước các bậc cai trị
cầm quyền nói riêng và con người sống trong xã hội nói chung rèn luyện, tu
dưỡng để đạt được đức nhân và ứng dụng đức này trên thực tế. Nội dung của
“đức nhân” đã được Khổng tử thể hiện trong những lần tiếp xúc với học trò và
nó mang nhiều nội dung khác nhau. Song nhìn chung “đức nhân” có những
nội dung cơ bản sau:

Trước hết, “nhân” có nghĩa là yêu người. Đối với Khổng tử, người nào
có lòng yêu thương người thì người đó có đức Nhân và ngược lại, nếu thiếu
tình yêu thương con người sẽ là kẻ bất nhân. Khi “Phàn trì hỏi về người nhân,
Khổng tử nói: (đó là người biết) yêu người (Phàn trì vấn nhân, Tử viết: “ái
nhân”) [21, tr.493]. “Yêu người” là sự thể hiện bản chất người trong việc thực
hiện bổn phận xã hội. Ở đây, Khổng tử đã tách mình khỏi địa vị một nhà tư
tưởng của giai cấp thống trị khi lấy việc “yêu người” làm tiêu chuẩn đầu tiên
của đạo làm người. Trong khi giai cấp quý tộc đương thời thì hô hào vì quyền
lợi của dòng dõi mình, chỉ biết đến chữ “thân”, Thì Khổng tử đã chủ trương
yêu rộng mọi người (“phiếm ái chúng”) và gần gũi với người nhân (“thân
nhân”).
Để yêu rộng mọi người - thực hành điều nhân, theo Khổng tử phải lấy
“khắc kỷ phục lễ” làm tiền đề. “Nhân” đối với bản thân mình là phải luôn tu
sửa, dẹp bỏ tư dục để lương tâm luôn trong sáng, thấy lợi phải nghĩ đến nghĩa,
thấy nguy không tiếc tính mạng. Khổng tử cho rằng, người biết chiến thắng tư
dục mà trở về đúng với lễ, với đạo lý là nhân. Một ngày khắc kỷ trở về lễ thì
thiên hạ sẽ khen đức nhân của mình. Làm điều nhân là do mình chứ đâu phải
do người.
“Nhân” đối với người thì phải cư sử khiêm cung, kính cẩn, thành thực,
khoan hoà, cần mẫn, làm ân huệ. Trong “Nhân” còn bao hàm cả trung, thứ.
Bàn về chữ “trung”, Khổng tử giải thích: “Người nhân là người mình muốn

15


lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp
người thành đạt” (phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt
nhân) [21, tr.340]. Trung là suy từ bản thân mình ra, với nội dung này đức
trung do Khổng tử nêu ra có ý nghĩa tích cực. Còn về chữ “thứ”, ông viết:
“điều gì mình không muốn chớ thi hành cho người khác” (kỉ sở bất dục vật thi

ư nhân) [21, tr.473]. Như vậy, cũng tương tự như “trung”, “thứ” có nghĩa là
từ lòng mình mà suy ra lòng người, bởi lẽ mình muốn cái gì thì người khác
cũng muốn cái đó và ngược lại. Cho nên, Khổng tử mới khuyên rằng, nên làm
cho người những cái mình muốn và đừng làm cho người những cái mà mà
mình không muốn. “Trung”, “thứ” chính là đạo làm người. Không phải ngẫu
nhiên mà học trò của Khổng tử là Tăng tử đã khẳng định: “Đạo của thầy chỉ
tóm tắt ỏ một điều trung thứ mà thôi” (Tăng tử viết: “phu tử chi đạo, trung
thứ dĩ hĩ”) [21, tr.277]. Những nội dung cơ bản về chữ “Nhân” như trên chứa
đựng những ý nghĩa sâu sắc về đạo làm người, là cơ sở của đạo làm người,
đồng thời còn là mục đích mà con người cần đạt được, là biểu hiện nhân cách
của con người.
Nhưng đối với Khổng tử, điều quan trọng nhất trong tư tưởng về
“nhân” là biểu hiện về mặt chính trị của nó. Đạo của người quân tử - bậc cai
trị, cầm quyền chính là “nhân”. “Nhân’ là chuẩn mực đạo đức cao quý nhất
nên người quân tử luôn lo lắng, bực tức đến nỗi quên ăn khi chưa hiểu được,
vui mà quên cả lo buồn, quên cả tuổi tác khi đã hiểu thấu đạt được nó. Khi đó,
họ dốc lòng tin theo đạo, và nếu có phải chết mà làm cho đạo Nhân được hay
thì cũng là việc nên làm.
Theo các nhà Nho, nhân cách lý tưởng - bậc quân tử cầm quyền phải là
sự thống nhất và bổ sung lẫn nhau của “ngũ đức”: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Như thế “Nhân” đồng nghĩa với người có mọi đức tính tốt, “Nhân” có thể
hiểu là “toàn đức”.

16


Nhân gắn liền với “Nghĩa”. “Nghĩa” vừa là một biểu hiện của đức
Nhân, vừa là một trong năm chuẩn mực của ngũ thường. Khổng tử ít bàn đến
“đức nghĩa” nhưng hành động của ông luôn theo nghĩa. “Đức nghĩa” đến
Mạnh tử mới được nhấn mạnh, ông đã xếp “nghĩa” ở vị trí thứ hai sau đức

nhân. Đổng Trọng Thư đặt nghĩa ở vị trí thứ ba. Nghĩa tức là nên làm, là lẽ
đương nhiên. Khổng tử cho rằng, người ta hành động phải dựa vào nghĩa,
phải vì nghĩa, có nghĩa là điều gì nên làm thì làm, điều không nên làm thì
không làm. Trong những trường hợp cụ thể, ông đặt nghĩa đối lập với lợi, ông
nhấn mạnh nghĩa, coi thường lợi “người quân tử rành về điều nghĩa, kẻ tiểu
nhân rành về điều lợi” (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi) [21, tr.278].
Khi giải quyết mối quan hệ giữa nghĩa và lợi ở Nho giáo mang tính lý tưởng
phi thực tế, điều này khác biệt căn bản so với học thuyết của Mặc gia, Mặc
gia nhấn mạnh lợi: "Kiêm tương ái, giao tương lợi” (cùng yêu nhau, cùng có
lợi).
Theo Khổng tử, con người muốn thực hiện lễ, nghĩa thì phải có lòng
dũng cảm, phải giám hi sinh: “Thấy việc nghĩa mà không làm, chẳng dũng
cảm vậy” (Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã) (Luận ngữ, Vi chính 24). Với ông,
“dũng” cũng là biểu hiện của đức nhân, nhờ có dũng mà nhân mới được thực
hiện. Tuy vậy người có dũng và người có nhân cũng khác nhau: “người nhân
ắt có dũng cảm” (nhân giả tất nhữu dũng), nhưng “người dũng không chắc đã
có lòng nhân” (dũng giả bất tất hữu nhân) [21, tr.526]. Ở Khổng tử, hành
động theo nghĩa thực chất là hành động theo nhân, nhân là chuẩn mực cao
nhất. Nói cách khác, trong “đức nhân” của Khổng tử có bao hàm “đức nghĩa”.
Một biểu hiện quan trọng nữa của đức nhân đó là Trí: trí tuệ, sự hiểu
biết, phân biệt được đúng sai, phải trái. Theo Khổng tử, người có nhân phải có
trí, vì có sáng suốt mới biết cách giúp người mà không hại cho người, cho
mình. Có trí mới biết yêu người đáng yêu, ghét người đáng ghét, mới biết đề
bạt người chính trực, gạt bỏ người không ngay thẳng. Trong tác phẩm Luận

17


ngữ ông nhấn mạnh “người có trí có lợi cho đức nhân” (Trí giả lợi nhân) [21,
tr.266], rằng người nhân không phải người ngu, đã là người nhân phải có trí.

Trí là một điều kiện để Nhân có một cơ sở hợp lý về nhận thức và Dũng
không trở thành mù quáng. Trí - nhân - dũng là ba đức gắn bó chặt chẽ với
nhau, bổ xung, hỗ trợ cho nhau. Trong đó “đức nhân” là cốt lõi, là bản chất.
Trí và dũng là biểu hiện cụ thể của nhân, là cơ sở để cho nhân được thực hiện.
Nhân để rèn luyện tình cảm, trí để rèn luyện trí tuệ, dũng để rèn luyện nghị
lực. Người quân tử, bậc cai trị cầm quyền theo Khổng tử phải hội đủ cả ba
đức trên.
Tuy nhiên, Khổng tử cũng cho rằng người có trí chưa chắc đã phải là
người nhân. Để có trí, Nho giáo khuyên con người cần phải học tập. Mạnh tử
khẳng định: “Học chẳng chán là trí, dạy dỗ không mỏi là nhân” (Công Tôn
Sửu, Chương Cú Thượng, sách Mạnh Tử), học để cố gắng hoàn thiện sự hiểu
biết và nhân cách của mình. Khổng tử thì phê phán những người không có
tinh thần học hỏi, ông yêu cầu phải phân biệt rõ “biết” và “không biết”, rằng:
“Việc gì mình biết, nhận là biết; việc gì mình chẳng biết, nhận là chẳng biết.
Như vậy mới là biết” (tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri. Thị tri dã) [23, tr.111112]. Mục đích chủ yếu của giáo dục Nho giáo là đào tạo cho xã hội một lớp
người hiểu biết đạo lý (hiểu biết các quy phạm về “đạo”, “đức” của Nho
giáo). Do vậy, Trí theo Khổng tử và các môn đệ của ông chỉ gói gọn trong sự
hiểu biết sách vở của Nho giáo và nhiệm vụ căn bản nhất của người học là
làm thế nào để nhớ, thuộc lời dậy của cổ nhân. Trí không phải là những tri
thức phản ánh thực tại khách quan của tự nhiên, xã hội để từ đó chỉ đạo hành
động của con người. Trí của Nho giáo là những tri thức giáo điều, sách vở,
đây là một hạn chế của Nho giáo.
Đức Tín cũng là một biểu hiện của nhân và là đức tính thứ năm trong
ngũ thường. Tín ở đây có nghĩa là lời nói và việc làm phải thống nhất với
nhau. Tín còn là lòng tin của con người với nhau, tín góp phần củng cố lòng

18


tin cậy giữa ngươi với người. Đức tín được xếp thứ năm trong đạo đức Nho

giáo, nó là hệ quả của bốn đức trên, có nhân, lễ, nghĩa, trí mới gây được lòng
tin, mới thực hiện được chữ Tín. Người không có chữ tín là người mất hết đức
nhân, lễ, nghĩa, trí, là người bỏ đi.
Nội dung của chữ Tín là phải có lòng tin tuyệt đối vào chính đạo, vào
đạo lý của thánh hiền, vào mối quan hệ của ngũ luân. Khổng tử khi nói về chữ
tín, thì cho rằng: “Nhân vô tín tắc phản” (Người không có chữ tín tất dễ phản)
(Luận ngữ - Nhân hoá 4) hay “Nhân vô tín bất lập” (Người không có tín
nhiệm thì đừng đề cử) (Luận ngữ - Vi chính 7). Muốn thực hiện chữ tín, phải
giữ đúng lễ, chính danh, đủ lợi. Đúng lễ là đủ hiểu biết để thực hiện điều nhân
nghĩa. Chính danh là quan hệ đối sử đúng phận vị. Đủ lợi là lợi phải hợp nhân
nghĩa, lợi phải chia sẻ, cùng hưởng...
Chữ tín đối với bậc cai trị cầm quyền thì càng đặc biệt quan trọng bởi
họ là những người có nghĩa vụ: cai trị dân, giáo hoá dân, cảm hoá dân để cho
dân tin phục. “Dân vô tín bất lập” - dân không có lòng tin thì không có chính
quyền nào có thể đứng vững được lâu dài. Theo Khổng tử phép giữ nước có
ba yếu tố: thực túc, binh cường, dân tín. Nếu cần thiếu thực túc, chưa đủ hoặc
tạm hoãn binh cường, còn dân tín thì tuyệt đối phải giữ lấy. Bởi vì lòng tin là
sức mạnh, lòng tin bắt nguồn từ chính đạo. Chiến lược, sách lược giữ nước
hợp khả năng thực tế, hợp lòng dân, được dân tin sẽ chuyển hoá tạo nên sức
mạnh chiến thắng.
Muốn được dân tin thì người cầm quyền phải thành thực, muốn cho
người khác tin mình thì phải thận trọng trong lời nói, lời nói phải hợp với
hành động. Khổng tử cho rằng đức tín và hành động luôn đi liền với nhau, lời
nói trung thực đáng tin, hành vi phải thân thiết, kính cẩn, như vậy đi đến nước
Man, nước Mạnh cũng trót lọt. Ông nói: “Người quân tử ăn chẳng cầu no, ở
chẳng cầu tiện nghi, làm việc siêng năng mà thân trọng trong lời nói, tìm đến
người đạo đức để sửa mình; như thế là khá ham học vậy” (Quân tử thực vô

19



cầu bão, cư vô cầu an, mẫn ư sự nhi thận ư ngôn, tựu hữu đạo nhi chính yên,
khả vị học dã dĩ) [21, tr.209]. Còn lời nói không trung thực, hành vi không
thân thiết, kính cẩn thì ở trong làng, trong châu của mình cũng không làm sao
trót lọt được. Tư tưởng “dân tín” của Nho giáo không chỉ có ý nghĩa trong
lịch sử, mà cò có ý nghĩa đối với đương đại. Thực tế lịch sử đã chứng minh
rằng, các triều đại bị sụp đổ là do mất lòng dân, không được dân ủng hộ.
Nói tóm lại, ở Nho giáo Nhân chính là đạo lý làm người. Với Khổng
tử, “nhân” vừa là thương người (ái nhân), vừa phải giúp đỡ mọi người (cứu
nhân). Theo ông, cứu nhân là quan trọng hơn cả. Vì vậy một người dù quán
triệt nhiều tiêu chuẩn đạo đức Nho giáo, nhưng nếu không đảm bảo được hai
mặt ái nhân và cứu nhân thì cũng chưa được coi là người có nhân. Mặc dù có
tư tưởng sâu sắc về đức nhân, song ở Khổng tử và các nhà Nho sau này đều
có những hạn chế. Đó là tư tưởng phân biệt giai cấp, coi nhân là tiêu chuẩn để
phân biệt người quân tử với kẻ tiểu nhân “Người quân tử có khi mắc phải điều
bất nhân chăng? Chưa hề có kẻ tiểu nhân làm điều nhân bao giờ” (Quân tử
nhi bất nhân giả, hữu hĩ phù? Vị hữu tiểu nhân nhi nhân giả dã) [21, tr.528].
Theo Khổng tử, thi hành điều nhân phải biết phân biệt thân, sơ, trên, dưới. Sự
phân biệt đối sử như vậy cũng là một đặc điểm trong tư tưởng Nho giáo nói
chung.
Đến đời Hán, nhân được xem là cái gốc của sự sinh hoá trong trời đất,
thế gian nhờ đó mà đứng, vạn vật nhờ đó mà sinh thành, là cái thiên lý chí
công. Lúc này “đức nhân”: đã khoác lên mình cái vỏ bọc tôn giáo, ở mức độ
nhất định nó mang yếu tố thần bí. Nếu ở Khổng tử, đức nhân mang tính phức
tạp, rất khó thực hiện, thì quan niệm về đức nhân của Hán nho lại càng mang
tính ảo tưởng hơn.
Phạm trù đạo đức thứ hai của Nho giáo là Lễ.
Ở Nho giáo Lễ không chỉ là một phạm trù đạo đức, một chuẩn mực đạo
đức mà nó còn mang ý nghĩa (là phạm trù) chính trị. Ở phương diện này lễ


20


×