Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Sự hình thành và phát triển của mỹ học Mácxít ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.58 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------***------

LÊ THỊ NGỌC TRANG

S H NH THÀNH VÀ PH T TRIỂN
CỦA M HỌC M C

T

VI T NAM HI N NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------***------

LÊ THỊ NGỌC TRANG

S H NH THÀNH VÀ PH T TRIỂN
CỦA M HỌC M C

T

VI T NAM HI N NAY



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS Đỗ Văn Khang

Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của Tôi, các số liệu
trong Luận văn là hoàn toàn trung thực, khách quan, khoa học, nội dung Luận
văn không trùng lặp với những công trình nghiên cứu trước đó.
Các số liệu, kết quả do trực tiếp tác giả thu thập, thống kê và xử lý. Các
nguồn dữ liệu khác được tác giả sử dụng trong luận văn đều có ghi nguồn
trích dẫn và xuất xứ.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2015
Tác giả Luận văn

Lê Thị Ngọc Trang


MỤC LỤC
M ĐẦU........................................................................................................................ 3
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu ..................................................................... 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn .......................................................................... 6

7. Kết cấu........................................................................................................... 6
NỘI DUNG .................................................................................................................... 7
Chương 1: TIỀN ĐỀ CHO S RA ĐỜI M HỌC
1.1. Tư tư ng

học truyền thống

VI T NAM .................. 7

phương Đ ng và

Vi t Na ...... 7

1.1.1. Thời kỳ văn minh từ đồ đồng sang đồ sắt ........................................ 7
1.1.2. Văn hóa th m m từ lập nước tới trước thời Lý 1010 ................... 8
1.1.3. M học n trong nghệ thuật ........................................................... 10
1.2. Tư tư ng

học Phương T y trước Mác: ...................................... 25

1.2.1. Khuynh hướng coi đối tượng của m học là cái đẹp tuyệt đối tồn tại
trong thế giới ý niệm Platôn, Hêghen .................................................... 25
1.2.2. Khuynh hướng coi đối tượng của m học là cái đẹp tiến tới sự hài
h a giữa hoạt động và hình thức Arixtốt ............................................... 31
1.2.3. Khuynh hướng coi đối tượng của m học là cái đẹp vô tư, không vụ
lợi Kant .................................................................................................. 35
1.2.4. Khuynh hướng coi đối tượng của m học là cái đẹp lý tưởng hình
thành trong cuộc sống của con người Tsécnưsépski ............................. 41
Chương 2: S
T

C

H NH THÀNH VÀ PH T TRIỂN CỦA M

HỌC M C

VI T NAM : NH NG KHU NH H ỚNG VÀ NH NG VẤN ĐỀ
ẢN .......................................................................................................................45

2.1. Nh ng huynh hướng cơ ản của

học Mác t

Vi t Na ...... 45

2.1.1. Khuynh hướng coi m học là khoa học nghiên cứu đời sống th m m 46
1


2.1.2. Khuynh hướng coi m học là khoa học nghiên cứu sự vận động của
các quan hệ th m m . ............................................................................... 49
2.1.3. Khuynh hướng coi m học là cái th m m . ................................... 52
2.1.4. Khuynh hướng coi m học là cái Đẹp............................................ 54
2.1.5. Các khuynh hướng nghiên cứu m học gắn với tính chất phát triển
của lịch sử dân tộc .................................................................................... 63
2.2. Nh ng vấn đề cơ ản của

học Mác

2.3. Phương hướng và triển vọng của

2.4. Đóng góp của

t

Vi t Na : ................. 69

học Mác t

Vi t Na ....... 71

học Vi t Na : ....................................................... 77

KẾT LUẬN .................................................................................................................85
DANH MỤC TÀI LI U THAM KHẢO ..............................................................87

2


M

ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử hình thành và phát triển của m học là một quá trình lâu dài
và phức tạp. M học hình thành cùng với sự ra đời và phát triển của x hội
loài người.
M học với tính cách là hình thái ý thức x hội đặc thù đ xuất hiện từ
thời kỳ thượng cổ. Thời kỳ, mà lịch sử tư tưởng của nhân loại về cơ bản là
những ý niệm sơ khai về chu n mực đạo đức và tín ngư ng, đồng thời c ng
xuất hiện các chu n mực về cái Đẹp cách ta 3000 năm. Các nhà m học lấy di

vật văn hóa ở Hang ChauVét làm chu n cho sự xuất hiện Đời sống Th m m .
Trước khi trở thành một khoa học độc lập, các tư tưởng m học của
loài người đ xuất hiện từ rất sớm trong các nền văn hóa Đông – Tây cổ đại.
Nếu không kể đến các tư tưởng th m m được dân gian hóa mà ch kể đến
những tư tưởng có ý nghĩa lý luận thì các quan điểm th m m ra đời từ thời
văn – sử – triết bất phân.
Có thể nói, M học là một bộ phận của triết học gắn liền với quá trình
hình thành và phát triển của triết học từ thời kỳ cổ đại. Đến thế kỷ XVIII, m
học tách khỏi triết học và trở thành một khoa học độc lập.
Thuật ngữ “M học” đ có nguồn gốc trong ngôn ngữ Hy Lạp, xuất
phát từ chữ “aisthetikos” - có nghĩa là “cảm giác”, là “tính nhạy cảm”. Thực
ra “aisthetikos” có hai nghĩa: thứ nhất, thường được giải thích là nhận thức
cảm tính; thứ hai c ng được giải thích là nhận thức cảm tính, nhưng là nhận
thức cảm tính của sự xúc động rung động cảm xúc
Baumgacten c ng xuất phát từ chữ “aisthetikos” để tạo ra thuật ngữ “
Aesthetics” có nghĩa là “học thuyết về cảm giác”. Ông cho rằng, m học là
một khoa học có nhiệm vụ nghiên cứu những đặc điểm của con đường nhận
thức thế giới bằng cảm xúc, để phân biệt với các hình thái khác của hoạt động
nhận thức như triết học.
3


Có thể nói, thành tựu lớn nhất của m học từ thời kỳ cổ đại đến nay, đó
là hệ thống quan điểm của m học Mácxít. Hệ thống m học này là sự kế thừa
những thành tựu của h u hết các quan điểm của m học thời kỳ trước đó. M
học thời kỳ này đ giải thích quá trình phát triển x hội trên lập trường duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, đ phát hiện một cách toàn diện các mối
quan hệ th m m với các mối quan hệ x hội khác. Đó là mối quan hệ liên tục
giữa hiện tượng và bản chất, giữa lịch sử tự nhiên và lịch sử x hội.
Ở Việt Nam, m học c ng ra đời từ rất sớm gắn liền với thời kỳ dựng

nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên, m học thời kỳ này chưa có hệ thống
quan điểm mà ch là n dưới hình thức của văn học nghệ thuật. M học thật sự
là khoa học triết học ch được nghiên cứu từ cuối những năm 50 của thế kỷ
XX. Các nhà m học Việt Nam c ng chủ yếu tiếp thu những thành tựu của m
học Mác – Lênin trong nghiên cứu m học của Nga, Pháp và Trung Quốc.
Để làm sáng r những thành tựu của m học Mácxít ở Việt Nam, tôi đ
chọn cho mình đề tài : “Sự hình thành và phát triển của m học Mác xít ở
Việt Nam hiện nay” làm tên đề tài luận văn thạc s của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay đ có rất nhiều những cuốn sách và công trình nghiên
cứu về m học nói chung như:
LQ TSKH Đỗ Văn Khang: Lịch sử m học, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1984.
LQ TSKH Đỗ Văn Khang và Đỗ Huy: M học Mác – Lênin, Nxb Đại
học, 1985.
LQ TSKH Đỗ Văn Khang: M học đại cương, Nxb Giáo dục, 1997.
LQ TSKH Đỗ Văn Khang: Nghệ thuật học, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2000.
GS, TS Đỗ Huy, Nguyễn Chương Nhiếp: Tìm hiểu tư tưởng văn hoá
th m m và nghệ thuật của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, 2000
4


Đỗ Huy, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Ngọc Long: Giáo trình M học
Mác Lênin, Khoa Triết học. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000
Đỗ Huy, V Trọng Dung: Giáo trình M học Mác Lênin, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2001
Đỗ Huy: M học khoa học về các quan hệ th m m ,Nxb Khoa học X
hội, Hà Nội, 2001
LQ TSKH Đỗ Văn Khang, Đỗ Thị Minh Thảo: Lịch sử m học (trọn

bộ , Nxb Giáo dục, 2010.
LQ TSKH Đỗ Văn Khang chủ biên; M học Mác – Lênin, Nxb. Đại
học Sư phạm, Hà Nội, 2004.
Các công trình trên đ trình bày khá r những vấn đề cơ bản của m
học. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay chưa có một tài liệu nào nghiên cứu k
về sự hình thành và phát triển của m học Mácxít ở Việt Nam.
Chính vì vậy, trong khuôn khổ của luận văn này đ giải quyết vấn đề sự
hình thành và phát triển của m học Mácxít ở Việt Nam hiện nay”. Hy vọng
rằng kết quả của luận văn này sẽ bước đ u làm sáng tỏ về vấn đề nghiên cứu
sự hình thành và phát triển của m học Mácxít ở Việt Nam về phương diện
m học Mác xít c ng như phương diện lịch sử m học nói chung.
3. Mục đ ch và nhi

vụ nghiên cứu

Mục đích: Phân tích và trình bày một số quan niệm của các nhà m học
trước Mác và các nhà m học mácxit về sự hình thành và phát triển của m
học để qua đó, góp ph n tìm ra quan niệm nào là có cơ sở khoa học nhất để
tiếp tục phát triển m học Mácxít ở Việt Nam trong tình hình mới.
Nhiệm vụ:
Tìm hiểu tiền đề cho sự ra đời của m học ở Việt Nam
Tìm hiểu sự hình thành và phát triển của m học Mácxít ở Việt Nam
hiện nay

5


4. Phạ

vi, đối tượng nghiên cứu


Đối tượng:
Vấn đề hình thành và phát triển của m học Mácxít ở Việt Nam: thành
tựu và triển vọng.
Phạm vi:
Nghiên cứu các khuynh hướng của các nhà m học trước Mác, các nhà
m học Mácxit và những nhà m học Việt Nam về sự hình thành và phát triển
của m học Mácxít ở Việt Nam để khẳng định tính khoa học của quan niệm
khoa học của các vấn đề m học.
5. Cơ s lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về sự hình thành của
khoa học nói chung để xác định sự hình thành và phát triển của m học Mác
xít ở Việt Nam nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là phương pháp đồng đại và lịch đại kết hợp
với phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp quy nạp - diễn dịch…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Góp ph n làm cơ sở cho việc nghiên cứu m học ở Việt Nam nói
chung, c ng như nghiên cứu sự hình thành và phát triển của m học Mác
xít ở Việt Nam nói riêng thêm khoa học.
7. Kết cấu
Khóa luận gồm 2 chương, 6 tiết được trình bày cụ thể như sau:

6


NỘI DUNG
Chương 1:

TIỀN ĐỀ CHO S
1.1. Tư tư ng

RA ĐỜI M HỌC

học truyền thống

VI T NAM

phương Đ ng và

Vi t Na

1.1.1. Thời kỳ văn minh từ đồ đồng sang đồ sắt
Từ thời đại đồ đá tiến lên thời đại kim khí - thời đại đồ đồng và đồ sắt là một chuyển biến lớn lao của lịch sử nhân loại. Đó là thời kỳ k thuật luyện
kim, thời kỳ xuất hiện những nền văn minh và nhà nước đ u tiên, và c ng là
thời kỳ mở đ u sự nghiệp dựng nước của dân tộc.
Trên l nh thổ Việt Nam, nền văn minh sớm nhất là nền văn minh sông
Hồng gắn liền với nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, với quá trình hình thành
nước Văn Lang đời Hùng Vương và nước Âu Lạc đời An Dương Vưong
Di tích văn hóa Đông Sơn phân bố rộng khắp miền Bắc Việt Nam trên
lưu vực sông Hồng, sông M , sông Lam. Văn hóa Đông Sơn tồn tại trong
khoảng 7-8 thế kỷ trước công nguyên đến 1-2 thế kỷ sau công nguyên, thuộc
thời kỳ thịnh đạt của đồ đồng và sơ kỳ đồ sắt. Đó là sự hội tụ của nhiều chặng
đường dẫn đến Đông Sơn.
Trên lưu vực sông Hồng, khảo cổ học đ xác lập được một phổ hệ gồm
3 giai đoạn: Trước Đông Sơn diễn ra trong thiên kỷ 1 trước công nguyên:
Giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên thuộc sơ kỳ đồng thau.
Giai đoạn văn hóa Đồng Đậu thuộc trung kỳ đồng thau.
Giai đoạn văn hóa G Mun thuộc hậu kỳ đồng thau.

Đến văn hóa Đông Sơn thì các loại hình địa phương vẫn tồn tại nhưng
tính thống nhất văn hóa trở nên bao trùm và chi phối. Dù thuộc di tích nào, ở
địa phương nào, văn hóa Đông Sơn vẫn mang những đặc trưng chung biểu
thị trong các loại hình di vật văn hóa gồm công cụ rìu, cuốc, x ng, lư i
cày... v khi rìu chiến, dao găm, m i giáo, m i tên... , đồ dùng và trang sức

7


thạp, thổ, v ng tay, khuyên tai... trong k thuật chế tác và trong nghệ thuật
trang trí.. Văn hóa Đông Sơn vừa có cội rễ bản địa, vừa qua giao lưu và hội
nhập, tiếp thụ một số ảnh hưởng văn hóa bên ngoài từ phương Bắc và từ
phương Nam.
Quá trình thống nhất văn hóa Đông Sơn c ng là quá trình liên kết các
nhóm cư dân Việt cổ - người Lạc Việt và người Âu Việt - thành một cộng
đồng quốc gia với một hình thái nhà nước sơ khai. Đó là nước Văn Lang đời
Hùng Vương và tiếp theo là nước Âu Lạc đời An Dương Vương.
Nước Văn Lang và Âu Lạc ra đời trên một nền tảng kinh tế đ phát
triển, chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước đạt đến trình độ dùng lư i cày
bằng đồng thau và sức kéo của trâu, b . Chăn nuôi có chó, lợn, gà, vịt, trâu,
b , voi. Nghề thủ công có đúc đồng, luyện sắt, làm đồ gốm, đan lát , mộc, dệt,
sơn... Nhà cửa, trang phục, nhiều phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa c n
được ghi lại bằng hình ảnh trên các di vật Đông Sơn, nhất là trên trống đồng.
Tiếp nối nước Văn Lang, nước Âu Lạc ra đời vào nửa sau thế kỷ III trước
công nguyên, c n để lại dấu tích của kinh đô Cổ Loa Đông Anh - Hà Nội
1.1.2. Văn hóa th m m từ lập nước tới trước thời Lý(1010)
Giai đoạn trước cổ điển được đánh dấu bắt đ u từ thời đại nguyên thủy,
sau đó là thời đại dựng nước và được kết thúc là thời kỳ Bắc thuộc. Thời Âu
Lạc, người Việt đ đạt đến trình độ tương đối cao về canh tác, họ đ biết sử
dụng hệ thống thủy lợi. Công cụ đồ sắt đ xuất hiện vào cuối thời Hùng

Vương. Có thể nói, người Việt đ đạt đến sự ngang bằng về trình độ sản xuất
so với k đô hộ, và điều này khiến cho sự phát triển về văn hóa trở nên nổi bật.
Bởi vì, đây là thời kỳ văn hóa nguyên khai của các dân tộc, tất cả những thành
tựu văn hóa bản địa đều nảy sinh trên cơ sở văn minh bản địa – chứa đựng đặc
tính tộc người riêng biệt được hình thành trong những điều kiện sống tự nhiên
đặc thù. Tuy nhiên, văn minh phương Bắc đạt đến sự phân chia đẳng cấp trong
x hội phát triển hơn văn minh Lạc Việt ở trình độ của quan hệ sản xuất. Sự tác

8


động có ý nghĩa của thiết chế bộ máy đô hộ phương Bắc làm thay đổi x hội
Việt chủ yếu là ở quan hệ sản xuất chứ không phải sự thay đổi ở lực lượng sản
xuất. Trong thời kỳ Bắc thuộc, mặc dù k đô hộ dùng nhiều chính sách và thủ
đoạn thâm độc để đồng hóa dân tộc nhằm Hán hóa Việt tộc và nền văn hóa
Việt song nhân dân ta vẫn bảo tồn và không ngừng phát triển nền văn hóa bản
địa, nội sinh đ được tích l y qua hàng ngàn năm lịch sử trước đó. Bởi vậy,
mặc dù chữ Hán và tiếng Hán được du nhập ồ ạt vào Việt Nam nhưng không
thể tiêu diệt được tiếng nói của dân tộc, nhân dân ta vẫn sống theo cách sống
riêng của mình theo cuộc sống và tâm hồn Việt Nam.
Những phong tục, tập quán tốt đẹp của thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc vẫn
được gìn giữ như tục nhuộm răng, ăn tr u, đấu vật, chọi trâu, đá c u, đánh đu,
ném c n… Trong các lễ hội ngàn năm như hội làng, hội mùa xuân, mặc dù có
những biến đổi ít nhiều trong các nghi lễ nhưng tính chất căn bản của nó vốn
có từ thời Văn Lang, Âu Lạc vẫn được bảo lưu.
Trong các gia đình người Việt từ xa xưa đ định hình một quan hệ ứng
xử đẹp đẽ như thờ cúng tổ tiên, kính trọng ông bà, cha mẹ, anh em thuận h a
và nhường nhịn nhau. Nho Hán và văn hóa Hán truyền bá vào Việt Nam
nhưng vẫn không thể làm thay đổi truyền thống văn hóa đó của dân tộc. người
Việt vẫn từ chối tư tưởng gia trưởng nặng nề, xem khinh phụ nữ của người

Hán. Nhìn chung, dưới thời Bắc thuộc, chữ Hán và Nho giáo cùng với toàn bộ
hệ tư tưởng phong kiến Trung Hoa không xâm nhập và không ảnh hưởng
nhiều đến các làng xóm người Việt cổ.
Trong cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp để bảo vệ di sản văn hóa truyền
thống thời Bắc thuộc, nhân dân ta đ biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa
của văn hóa ngoại nhập phù hợp với đặc tính, tâm hồn Việt Nam để làm
phong phú thêm văn hóa truyền thống. Điều này được thể hiện ở chỗ trong
hơn một nghìn năm đô hộ, tiếng nói của dân tộc Việt Nam đ trải qua một quá
trình đơn âm tiết hóa và thanh điệu hóa. Bởi vậy, bên cạnh những âm tiết
thu n Việt c n có nhiều âm tiết Hán - Việt.
9


Trên cơ sở ý thức dân tộc và tinh th n tự cường nhưng không bảo thủ,
đóng kín, nhân dân ta đ biết kết hợp giữa truyền thống và cách tân cho phù
hợp với hoàn cảnh lịch sử, đ tiếp thu một số cái hay, cái đẹp của văn hóa
ngoại nhập. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc, có ý thức, có sự dung hợp. Điều
này được thể hiện ở nhiều lĩnh vực như từ tập quán gi gạo bằng tay đ
chuyển sang lối gi gạo bằng cối đạp từ đ u Công nguyên; từ tập tục ở nhà
sàn, d n d n người Việt chuyển sang ở nhà nền đất nện; trong trang phục, y
phục, nghệ thuật c ng phong phú, đa dạng và phát triển cao hơn trên cái căn
bản của nền văn hóa cổ truyền.
Nhìn chung, những thay đổi trên đây về tư tưởng văn hóa c ng đ dẫn
đến sự biến đổi trong tâm lý cộng đồng. Trong x hội Việt cổ, phương thức tư
duy mới ch dừng lại ở tính biểu tượng được thể hiện qua tín ngư ng dân
gian, các truyện th n thoại, tuy c n chất phác nhưng đ vươn tới kiểu nhận
thức hướng tới tính chất “v trụ luận”. Khoảng thế kỷ I trước Công nguyên,
Phật giáo từ Ấn Độ đ ảnh hưởng vào nước ta. Thời kỳ Bắc thuộc là thời kỳ
Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo trở thành hệ tư tưởng dẫn dắt văn hóa Đại Việt
phát triển rực r .

1.1.3. M học n trong nghệ thuật
Nhìn chung, ở thời kỳ trước cổ điển, nền văn hóa nước ta phát triển khá
rực r đặc biệt là ở thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân ta không những gìn giữ được
nền văn hóa bản địa truyền thống mà c n biết tiếp thu một cách có chọn lọc
những tư tưởng tinh hoa của các dân tộc khác để làm phong phú cho nền văn
hóa của mình. Tuy nhiên, ở thời kỳ này vẫn chưa xuất hiện những tư tưởng về
m học mà m học được n trong nghệ thuật, cụ thể là nghệ thuật đồ đồng mà
chủ yếu là trống đồng và trong văn học dân gian.
a) Nghệ thuật đồ đồng ti u i u là trống đồng
Dân cư thời kì này đ đạt đến một trình độ th m m , tư duy trừu tượng
khá cao, điều này được thể hiện rất r ở trong nghệ thuật đồ đồng mà tiêu biểu
là trống đồng.
10


Trong cuộc sống, con người thời kỳ này rất thích cái đẹp và luôn hướng
đẹp. Từ đồ trang sức, công cụ lao động và đồ dùng trong sinh hoạt c ng như
các v khí đều hết sức phong phú, nhiều hình, nhiều v .
Nghệ thuật Đông Sơn trở thành đ nh cao của nghệ thuật tạo hình thời
kỳ này. Nghệ thuật đó vừa phản ánh cuộc sống thường nhật của cư dân Việt
cổ vừa thể hiện mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh. Những
đường nét có tính ước lệ, cách điệu và một bố cục cân xứng, hài h a trong
nghệ thuật Đông Sơn đ thể hiện điều đó.
Nghệ thuật âm nhạc thời kỳ này rất phát triển, nhạc cụ gồm nhiều loại
mà tiêu biểu nhất là trống đồng. Kết cấu của trống đồng gồm có ph n tang
phình ra, ph n thân và chân trống loe ra giúp cho hình dáng trống đẹp mà có
sức cộng hưởng làm cho âm thanh vang xa. Cư dân bấy giờ biết sử dụng
nhiều nhạc cụ phối hợp trong các lễ hội. Trên Thạp đồng Đào Thịnh có cảnh
sử dụng dàn trống đồng từ 2 đến 4 chiếc, dàn cồng từ 6 đến 8 chiếc và một
tốp người vừa múa, vừa sử dụng những nhạc khí khác nhau như chuông,

khèn, sênh. Trên trống đồng có hình ảnh người nhảy múa hóa trang và múa v
trang. Đặc biệt, trống đồng Đông Sơn có cấu tạo hết sức hài h a, cân xứng.
Mặt trống tr n, giữa có ngôi sao nhiều cánh. Trên mặt trống có nhiều hình
người hóa trang lông chim đang nhảy múa, hát, thổi khèn và các cảnh sinh
hoạt khác như gi gạo, đua thuyền hoặc trang trí hình các con vật như hươu,
nai… Những hình trên mặt trống đồng thể hiện một không khí sôi động, hồ
hởi trong sinh hoạt của người Việt cổ. Đó là sự phản ánh khá trung thực cuộc
sống văn hóa hàng ngày của cư dân lúc bấy giờ.
Văn hóa th m m Đông Sơn c n gọi là văn minh Sông Hồng, có những
thành tựu nổi bật là đ thu thập được 52 trống đồng c lớn, có cái đường kính
to g n một mét. Trong cuốn: Những trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Việt
Nam (do Viện Bảo tàng lịch sử xuất bản năm 1975 thì không có nước nào có
số trống đồng Đông Sơn nhiều như vậy, kể cả Trung Quốc.

11


Theo Lư ng quốc Tiến sĩ Khoa học Đỗ Văn Khang, tư duy th m m
đọc qua hình tượng trên các trống đồng Đông Sơn và Thạp đồng Đào Thịnh
chứng tỏ người Việt xưa đ có quan niệm:
1 Thiên – Nhân – Địa đồng nhất. Nghĩa là họ tìm được mối quan hệ
hữu cơ giữa Trời – Đất và Con người.
2 Họ đ coi con người là trung tâm.
3 Đ đi g n tới triết lý Phồn thực (thể hiện qua quan niệm: rất lo sợ
khoảng trống trong hình tượng th m m .
4 Họ đ có tư duy ước lệ và tượng trưng trong nghệ thuật đạo tác đồ đồng.
Trống đồng được sử dụng phổ biến với tư cách nhạc khí quan trọng
trong các buổi tế lễ, hội hè, ca múa…Ngoài ra, nó c n được sử dụng làm hiệu
lệnh trong chiến đấu, trong giữ gìn an ninh hoặc làm đồ tùy táng.
Tóm lại, trống đồng với những nét đặc sắc nói trên, là một sản ph m

của lao động, một tác ph m nghệ thuật tiêu biểu cho trí tuệ, tài năng sáng tạo
của cư dân Văn Lang – Âu Lạc và là một mặt biểu hiện r nét, tập trung của
nền văn minh Việt cổ.
b) Văn học dân gian
Nếu như nghệ thuật của con người Việt Nam giai đoạn trước cổ điển
thể hiện qua nghệ thuật đồ đồng là chủ yếu thì chúng ta không thể không kể
đến nghệ thuật văn học dân gian. Mặc dù thư tịch về văn học dân gian thời kỳ
này không có nhiều tuy nhiên, những truyền thuyết về thời kỳ này hiện nay
c n lưu hành trong dân gian thì lại khá phong phú.
Loại hình văn học dân gian ra đời sớm nhất ở nước ta là th n thoại
- u n tho i
Huyền thoại là thể loại cổ nhất
- Sử thi
Hệ thống th n thoại Lạc Việt biểu hiện dưới hình thức sử thi ngày nay
vẫn c n được lưu giữ khá nhiều. Từ những ngôi nhà sàn mái cong, những con
thuyền chở được hàng chục người và có vọng lâu, hình những người hóa trang
12


lông chim, c m v khí nhảy múa được khắc ở trên đồ đồng Đông Sơn đ chứng
tỏ rằng việc diễn xướng sử thi của con người Lạc Việt là rất phong phú.
Người Lạc Việt diễn xướng sử thi không phải ch để phản ánh những
chiến thắng của mình đối với thiên nhiên và k thù ngoại xâm mà c n là để
sống m nh liệt hơn những chiến thắng ấy. Họ diễn sử thi là để phản ánh thực
tiễn sản xuất, chiến đấu và là để diễn tập kĩ năng, kĩ thuật, rèn luyện ý chí và
sự d ng cảm. Điều này chứng tỏ rằng trong x hội Lạc Việt xưa kia không
phải người ta ch xem, ch nghe và ch diễn xướng sử thi mà trước hết và chủ
yếu là người ta “sống sử thi”
- Cổ tích
Đây là loại hình phát triển mạnh mẽ từ khi trong x hội có sự phân chia

giai cấp. Nội dung của các tác ph m là những vấn đề liên quan đến những mâu
thuẫn trong gia đình, đến số mệnh của đứa tr mồ côi, đứa con riêng trong gia
đình hay đứa em út… Phản ánh những mâu thuẫn và lý giải chúng theo quan
điểm của nhân dân lúc bấy giờ là nhiệm vụ chính của truyện cổ tích.
c) Mỹ học cổ đi n c a dân t c được hình thành với 5 ph m trù Đ o –
Tâm – Chí – Mỹ - Văn.
- Phạ

tr “Đạo” của phương Đông là một phạm trù có độ đa dạng về

phương diện triết học, phương diện đạo đức và văn học với tư cách là một
khoa học.
Về phương diện triết học, L o Tử coi đạo là nguyên lý tối thượng. Đạo
không sinh, không diệt, không tăng, không giảm. Tuy nhiên, Đạo c ng rất khó
nắm bắt vì nó thể hiện dưới hai dạng Vô và Hữu.
Về mặt đạo đức, Khổng Tử coi Đạo là “lẽ trời” quy định các mối quan
hệ của con người. Đạo Khổng đề cao phép đối nhân xử thế theo 5 nguyên tắc
thể hiện qua năm chữ : “Nhân, Nghĩa , Lễ, Trí, Tín” và xây dựng thành lý
tưởng chính trị của nhà Nho: “Tu than, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

13


Về phương diện văn học, khái niệm Đạo gắn bó với các quan niệm “
Văn dĩ minh Đạo” , “Văn dĩ quán Đạo” và “Văn dĩ tải đạo”.
Có thể nói mối quan hệ giao lưu văn hóa và văn học giữa Việt Nam và
Trung Hoa rất chặt chẽ. Văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn của nền văn
hóa Trung Hoa tuy nhiên trong quan niệm của ông cha ta thời kỳ này về bản
chất của văn học và nghệ thuật nhìn từ góc độ Đạo c ng mang bản sắc riêng.
Quan niệm về Đạo của ông cha ta được thể hiện r nhất ở mặt bản thể

luận. Điều này thể hiện bắt đ u từ thời đại văn minh đồ đồng ở nước ta.
Trong văn hóa bản địa người Việt thời kỳ Đông Sơn, ta bắt gặp quan
niệm Đạo Trời đ u tiên được thể hiện qua ngôn ngữ hình ảnh có trước chữ
viết – ngôn ngữ chưa thành văn trên trống đồng. Điều này thể hiện r nhất
trên trống đồng Ngọc L (loại trống Hêgơ 1 . Mặt trống không chờm quá tang
trống, ngôi sao tượng trưng cho mặt trời, ở giữa thường có 12 hoặc 14 cánh.
Quanh tia mặt trời trống thường có khối lượng cóc (ở đây chính là mối quan
hệ giữa đất và trời với câu dân gian: con cóc là cậu ông trời . Trung tâm của
mặt trống là hình mặt trời có mười bốn tia sáng lớn, quanh mặt trời là ba t ng
thiên thể đang chuyển vận. Tiếp sau ba t ng thiên thể là hình con người với ba
hình thái hoạt động chính là lao động, chiến đấu và sinh hoạt văn hóa, nghệ
thuật. Sau người là vật. Có vật dưới đất và vật trên trời (hươu và chim .
Như vậy, khái niệm Đạo ở đây được coi như bản chất của sự vật, mọi
sự vật đều bị Đạo chi phối (tất cả đều quay ngược chiều kim đồng hồ, quay từ
Đông sang Tây theo hướng đi của mặt trời và sự quy định của Đạo là vừa r
ràng, vừa huyền bí. R ràng thể hiện ở tính tất yếu của trật tự trên dưới
(Thiên- Địa- Nhân , của trật tự vận động (Đông sang Tây . C n huyền bí là ở
những chuyển động tr n và xoáy như Ôn Như H u đ khái quát về con tạo
xoay v n trong hai câu thơ:
Cái quay búng s n trên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm

14


Nói về bản thể của Đạo, tiến sĩ Tr n Danh Lâm trong lời tựa về bộ Vân
đài lo i ng của Lê Quý Đôn viết : Trong khoảng trời đất, vốn s n có đạo lý.
Đạo lý ấy bao la vô cùng. Bản thể của nó rất tinh vi. Công dụng của nó rất r
rệt. Ch có những bậc thánh nhân quân tử mới có thể hội tụ đ y đủ rồi phát
triển thêm bằng lời nói trên sách vở. Tinh th n giữ lại ở đó, không phải là câu

chuyện c u thả vậy”.
Bên cạnh sự chú ý trực tiếp đến tính bản thể của Đạo cha ông ta c n
phân ra thành ba phương diện biểu hiện của Đạo đó là Đạo Trời, Đạo Người,
Đạo Đất. Từ đó mới sinh ra Văn Trời, Văn Người, Văn Đất.
Với cách hiểu này, Văn c ng là một bản thể, c ng là Quy luật, là đạo
Trời nhưng là Đạo Trời được hiểu qua cái Đẹp. Đây chính là một cách hiểu
tinh tế trong mối quan hệ Văn và Đạo của cha ông ta.
Lê Quý Đôn là người thể hiện r nhất quan niệm này về Văn . Ông đ
từng viết: “Mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú là văn của b u trời; khí hậu ở
trong nước, ở ngoài nước tuy khác nhau nhưng thứ xá, triền độ, thuận nghịch,
chậm chóng, nào có cái gì là chẳng có phép thường quy luật . Núi, sông, cây
cỏ là Văn của đất, hình dung chủng loại đây tuy có khác nhau , nhưng mạch
lạc, nguyên thủy, cao thấp, tốt xấu nào có cái gì chẳng có phép thường. Lễ
nhạc, pháp độ là Văn của Người, sự theo c , đổi mới của người đời xưa, đời
nay; sự hiếu thượng trong nước hay ngoài nước tuy không giống nhaum
nhưng tùy thời lập ra chính giáo, thông biến cho kịp với ý muốn của dân,
c ng là một mà thôi”. [28;166]
Ông cha ta đ không hoàn toàn tách rời Đạo và Văn nhưng coi Văn bắt
nguồn từ Đạo. Điều này thể hiện r nhất trong, quan điểm của Nguyễn Văn
Siêu, ông viết: “Vì Văn và Đạo tuy có tên khác nhau, nhưng nội dung của nó
thì bắt nguồn từ Đạo. Song, thế nào gọi là Đạo Đó là cái Tâm ta s n có. Văn
chương ắt lưu giữ ở tâm này. Điều huấn về “lời đạt” tiên nho Đông Pha đ
từng bàn tới. Nhưng Định (tên thật là Nguyễn Văn Siêu tôi lại cho “đạt” là

15


cái “có gốc”. Ví dụ như nước vậy. Nước ở biển khơi tuy g đảo chắn ở phía
trước, nhưng d ng sông rối loạn. Ao, vịnh rất xa , nhưng nguồn mạch thường
thong. Được thế là vì biển chứa chất sâu dày vậy. Tĩnh thì thể hiện ở thân,

động thì tham cứu nó ở sự. Nó là cái mà ta nắm bắt được, để làm trọn vẹn cho
“cái vốn có” của mình. Sau đó, tiếp xúc với sự vật thì nó bật ra. Không một
lời nào là không thong suốt ở nơi tâm, thì sao thong suốt ở nơi tay và miệng.
Có thể hiểu Đạo là tâm hồn, tình cảm của con người, cái gốc của “ nhân tâm
thế đạo” không có đâu là không có Đạo: “Cái diệu trong chế tác tác tỏ ra ở
điển lễ, hiến chương; cái hay trong tâm thuật, ngụ vào văn, trong văn chương,
sách vở. Cho nên xem đến tư văn thì biết được Đạo trời”.[28;167]
Nhìn chung, các nhà Nho xưa khi c m bút luôn chú ý tìm hiểu nội dung
của Đạo được thể hiện như thế nào trong cuộc sống và nó có sức mạnh thế
nào đối với con người và cuộc đời.
Như vậy, Đạo không ch là cái quy luật hoàn toàn khách quan, mà c n
phụ thuộc vào cả quy luật chủ quan, vấn đề là phải biết thời, thế, nhân tâm thì
việc hành Đạo của Người mới kết hợp với Đạo của Trời mới thành văn được.
Vì vậy, các nhà văn khi c m bút là phải dựa vào Đạo Trời, Đạo Đất, Đạo
Người. Không có Đạo, nhà văn sẽ lạc vào c i Vô Đạo.
- Phạ

tr T

và Ch

Người xưa cho rằng, Tâm là nơi sâu thẳm của Văn. Nói về mối quan hệ
nà giữa Tâm và Chí, Nguyễn B nh Khiêm có viết: “Ôi, nói đến Tâm là nói về
chỗ mà Chí đạt tới vậy, mà thơ lại là để nói đến Chí” (trong tập Am Bạch
Vân . Tuy nhiên, Chí ở mỗi người trước thời cuộc lại khác nhau, có người chí
để ở đạo đức, có người chí dồn vào công danh, có người chí để ở sự nhàn dật.
Nho gia thì cho rằng “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” , Tâm được thể hiện qua
chữ Trung và “tấm l ng từ thiện” .[28;168]
Có thể thấy điều này được biểu hiện r nhất là ở quan niệm và hành
động của Nguyễn B nh Khiêm. Ông khi từ quan về làng đ cùng học tr của


16


mình và các bậc kỳ l o trong làng dựng Quán Trung Tân để làm nơi dừng
chân cho người qua đường. Khi có người hỏi vì sao ông lại đặt quán tên như
vậy ông đ trả lời rằng “Trung, nghĩa là đứng giữa, không nghiêng lệch, giữ
được điều thiện là Trung, không giữ được điều thiện thời không phải là Trung
vậy; Tân có nghĩa là bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đáng
đậu là bến mê vậy. Quán ta đặt tên Trung Tân chính là nghĩa ấy. Như trung
với vua, hiếu với cha mẹ, thuận giữa anh em, h a giữa vợ chồng, tín giữa bạn
bè, đó là Trung vậy. Thấy của phi nghĩa đừng có l ng tham, vui làm điều
thiện, lại có độ với mọi người, đó là Trung vậy. Trung ở chỗ nào tức là điều
chí thiện ở chỗ đó. Nếu mọi người biết lấy Trung làm bến chính, giữ được
đúng mức, thì mọi công việc trong thiên hạ cứ do đó mà thi thố ra đi đến chỗ
tận thiện, như vậy thì công đức tốt đẹp đến nhường nào”.[28;168]
Có thể nói, các nhà văn xưa coi Tâm là chỗ “tận thiện”, là “công đức
tốt đẹp”. Và cho rằng, muốn có “công đức tốt đẹp” thì làm văn phải có Tâm
sáng. Mà Tâm là đạo, Đạo là cái mà Tâm có. Tâm là cái thăng tr m khi tốt,
khi xấu nên luôn phải được giữ gìn. Muốn giữ được cái Tâm, Nguyễn B nh
Khiêm đ nói rất r trong quan niệm của mình rằng, sự giữ gìn Tâm sáng của
người quân tử trước hết là ở chỗ chọn nơi đứng và “lấy điều thiện, chí thiện
làm tiêu chu n tuyệt đối”. Như vậy, Tâm có thể coi là cái cốt l i, Chí là cái “
phát khởi” từ tâm ra hành động, Chí gắn với sự lập thân. Điều này được Lê
Quý Đôn viết: “Đại để tinh hoa phát tiết ra ngoài, là do ở trong chứa nhiều
h a thuận. Cho nên, người có đức biết ăn nói, người có hạnh tất có học: như
con phượng thì có cánh, sắc lông rực r , con báo thì lông trơn mượt. Trang
sức ở ngoài với chứa đựng bên trong vẫn là một”.[28;169]
Có thể nói về mối quan hệ giữa Chí và Văn đ được ông cha ta hiểu rất
sâu sắc, thể hiện quan niệm biện chứng giữa nội dung và hình thức. Không

thể coi Văn ch là hình thức của Chí. Và Chí của k sĩ c ng có những cấp độ
khác nhau. Tâm và Chí đều phải lấy đức làm nền. Chí gắn với Tâm và thống

17


nhất ở chỗ: Tâm là tấm l ng bên trong, Chí là nơi Tâm hướng đến. Tâm là
nguồn. Chí là xung lực của Tâm.
- Phạ

tr cái M

Nói về cái M , Hoàng Đức Lương (đậu Hoàng Giáp năm Hồng Đức
thứ chín, 1468 cho rằng, văn thơ là “sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp”. Ông viết: “
Đối với văn, thơ, cổ nhân ví như gỏi nem, ví như gấm vóc; gỏi nem là vị rất
ngon trên đời, phàm người có miệng, có mắt, ai c ng quý trọng mà không vứt
bỏ, khinh thường. Đến như văn, thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị
ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt t m thường mà xem, miệng t m
thường mà nếm được. Ch có thi nhân là có thể xem mà biết được sắc đẹp,
nếm mà biết được vị ngon ấy mà thôi”.[28;172]
Đề cao cái đẹp trong Văn, cha ông ta đ tiến bước xa, khi cho rằng cái
đẹp trong Văn khác với cái đẹp thông thường ở chỗ, cái đẹp trong Văn phải là
cái đẹp đạt tới mức điêu luyện, cái đẹp “diễn đạt tình cảm đến tột mức và thu
lượm được mọi cảnh hay việc lạ”.
Phan Huy Chú (1782- 1840 trong lời nhận xét về trước tác của Lê
Quý Đôn , đ coi cái M là một tiêu chí cơ bản để đánh giá tác ph m Văn
chương. Để phân biệt văn chương với trước thuật, ông viết: “Việc trước
thuật của Lê Công như sông dài bề rộng, tràn đ y, tít tắp, không nơi nào
không đến, thế mà sự kỳ diệu của những lời ngâm, vịnh của ông lại như con
chim (ríu rít mùa xuân, hoa (tươi nở đúng kỳ; âm điệu hay, phong cách

thanh tao đâu phải là nhờ đẽo gọt c u kỳ mà có thể có được. Có lẽ vì vốn
học của ông thì phong phú, tài năng của ông lại đ y đủ, do đó mới ó thể vừa
hoàn thành xuất sắc công việc của nhà học giả, lại vừa kiêm luôn được cái
việc người xưa cho là khó chăng Tôi xưa kia từng được đọc các bộ sách
trước thuật của ông, rồi sau lại tìm được thấy mấy tập thơ, tập văn của ông.
Đọc xong than rằng “cái nguồn cảm hứng rộng lớn, sâu thẳm này, thực là
g n đây hiếm người có được”.[28;172]

18


Có thể nói, theo quan niệm của các nhà văn, nhà thơ xưa thì cái M làm
nên điều huyền diệu của văn chương là vì nó có cái th n rộng đến ngàn xưa,
ngụ ý sâu xa ngoài cảnh vật. Nhưng điều huyền diệu kia lại không phải là
mông lung hư ảo, mơ hồ, không sao l n ra được. Ngược lại trong cái mông
lung huyền diệu của Văn luôn luôn có mối ràng buộc đặc biệt từ “tâm pháp”
và “ngôn pháp”. Nói về điều này, Ngô Thì Nhậm (1746-1803, đậu tiến sĩ năm
1776 cho rằng: “Đến như phép, luật của thơ, lại là một điều huyền bí, thánh
nhân không truyền lại, ta ch có thể hiểu bằng “th n”, không thể hiểu được
bằng “trí” được. Sao vậy Vì ở trong l ng là chí, phát ra lời là thơ. Lời phát ra
nếu không có phép tắc, tức l ng mình c ng không có phép tắc. Những lời đẹp
đẽ văn hoa, những câu lạnh lùng, đau xót, cảm xúc đến đâu phát ra đến đấy,
những người biết làm thơ đều làm được cả, mà phép tắc chưa kể đến. Phép tắc
là cái gì để làm khuôn khổ cho sự vận dụng của l ng. H y xem các thơ chính
phong, chính nh trong Kinh Thi, lời có phép tắc nên vui mà không đắm đuối,
thương mà không đau xót, nêu lên cái tình vui, thương; đó là ngôn pháp của
thánh nhân, tâm pháp của người c ng không ngoài điều đó. Suy rộng ra đến
việc tu, tề, trị, bình c ng đều có phép tắc cả. Công dụng của thơ rộng lớn lắm
thay”.[28;173]
Như vậy, nếu theo cách phân tích hiện đại về mối quan hệ giữa nội

dung và hình thức, chúng ta thấy nói đến M , các nhà văn đều nghiêng về cái
“ngôn pháp” tức là hình thức của nội dung. Song cha ông ta không tách rời
hình thức của nội dung, mà đ tiến tới coi hình thức là “hình thức của nội
dung và nội dung được thể hiện qua hình thức”.
Không dừng lại quan niệm cho rẳng nội dung và hình thức là thống
nhất của :Đạo, Tâm, Chí với M là một, cha ông ta trong quan niệm của mình
c n nói đến sư tổ hợp riêng của cái M . Khi bàn về bộ sách Ngô gia văn phái
(gồm 60 quyển , Phan Huy ch (1650-1722 viết: “Trên đời, những người
rong ruổi trong rừng văn, c m bút viết lên văn không phải là ít, nhưng nói về
việc tâm tư linh hoạt, cốt cách cao kỳ, hơn hẳn người thường, tất phải ý khí
19


như vàng ngọc, thanh điệu như nhạc ca, sóng từ kết lại, phát ra thành văn, mới
xứng đáng là danh gia”. Theo đó, quan niệm của ông về cái M là cái làm nên
bởi nhiều thành tố nhưng thành tố nào c ng phải đạt tới chỗ cái gì c ng phải
hơn người: “tâm tư linh hoạt”, “cốt cách cao kỳ”, “ý khí như vàng ngọc”, “
thanh điệu như nhạc ca”…
Trong khi quan niệm coi M là cái đẹp, mà cái đẹp tột mức, điêu luyện;
cái đẹp này phải được kết hợp tinh vi trong hệ thống: ý lời, nhạc, th n, hứng;
các bậc văn nhân xưa c n cho rằng cái đẹp này phải luôn luôn mới.
Điều này được thể hiện trong việc bày tỏ quan niệm viết văn của Nhữ
Bá Sĩ. Ông viết :
Gió đông tràn khắp thiên hạ
Ngọn bút màu bắt đ u viết lúc mùa xuân
Xuân đi rồi xuân lại trở lại
Sức bút phải nên mới m luôn luôn

Ruộng sách cày lư i bảo đao lấp lánh
Ra hùng quan nơi trận địa văn chương

Qua bài thơ trên có thể thấy Nhữ Bá Sĩ đ quan niệm coi cái mới là cơ
sở làm nên cái đẹp và sức mạnh mọi mặt của cái đẹp.
Nói chung, trong quan niệm của cha ông ta đều coi trọng Đạo, Tâm,
Chí như ph n nội dung nhưng các cụ vẫn coi Văn phải có M , M phải làm
được nổi bật lên ở cái đặc sắc, làm thành cái riêng của Văn. Mặt khác, ông
cha ta c ng không hạn chế nội dung của M ch là Đẹp, mà c n cho cái M là
cái “thấu muôn trời đất, làm nên cái tuyệt vời”. Về ý này, người xưa đ nói r
“Có người hỏi về chỗ kỳ diệu của Văn chương, xin trả lời rằng: Khó nói đấy.
Muốn hiểu được chỗ kỳ diệu, phải c u ở l ng ta. Muốn c u ở l ng ta phải chất
vấn thánh hiền, phải hiểu trời đất, phải xem xét muôn vật. Vật có xem cặn kẽ,

20


thì hiểu biết mới đến nơi đến chốn. Có hiểu biết đến nơi đến chốn thì văn
chương mới tuyệt vời”.
Có thể nói, M ở đây làm nên bản chất của Văn, M c ng là một bản
thể, một khí chất của trời đất, của người, vì nó do thanh khí sinh ra; bản
nguyên của thanh khí có gốc ở trời và c ng có liên quan đến thời, từ đó tan
vào l ng người.
Khi nghiên cứu quan niệm về bản chất của văn học của cha ông ta ngày
xưa chúng ta không thể không kể đến bản chất “kinh bang tế thế” của văn
chương. Đó là sự chung đúc lên đến đ nh cao của quan niệm Đạo, Tâm, Chí,
M . Đó là cơ sở của chủ nghĩa yêu nước trong văn học dân tộc. Người thể
hiện nổi bật nhất quan niệm này là Nguyễn Tr i (1380-1442).
Nói về quan niệm này, Nguyễn Mộng Tuân, người cùng thời đ làm
một bài thơ ca ngợi Nguyễn Tr i:
Ông ngồi trong gác vàng, phong cách thanh cao như một vị tiên trong
l u ngọc.
Có tài kinh bang tế thế làm rạng r cho đất nước

Từ trước tới nay chưa ai có được như thế.
Văn từ nổi tiếng một thời, mọi người phải tôn ông làm bậc th y văn bá,…
Trong bài thơ Hạ Quy Lam Sơn (Mừng về Lam Sơn Nguyễn Tr i đ
viết:
Nhớ khi xưa ở Lam Sơn xem sách v kinh
Bấy giờ chí c ng đ ở dân đen rồi
Câu thơ đ thể hiện Chí lớn của nhà Nho, nhà thơ. Chí đó không ch là
một phạm trù tinh th n- tâm lý, ch là sức mạnh nội lực của cá nhân; mà ở
mức độ khác, c n ch cái nhân sinh quan của các bậc văn nhân xưa.
Có thể nói, văn chương “Kinh bang tế thế”, văn chương “Kinh luân v
trụ”, văn chương “dùng bút đánh giặc” của người xưa c n trực tiếp tạo ra sự

21


đặc sắc của cái M trong văn học Việt Nam cổ điển. Cái nguyên khí của đất
nước, của dân tộc trở thành một nguồn gốc sâu xa tạo ra cái M trong văn,
trước hết cái M đó không ch là tâm sự, là gan ruột, c n lại là thể loại hùng
ca, một thể loại đặc sắc của văn học Việt Nam.
Tóm lại, cha ông ta từ xưa đ để lại cho chúng ta một hệ thống qua
niệm văn chương rất tinh tế, được thể hiện trên nhiều khía cạnh và tập trung
trong hệ thống phạm trù : Văn- Đạo- Tâm- Chí- M . Toàn bộ quan niệm về
bản chất văn học của ông cha ta, có thể kết lại bằng câu của Lê Quý Đôn
trong bài Vân Đài Loại Ngữ : “H a thuận chứa ở trong, anh hoa phát ra ngoài,
đặt đường kinh, đường vĩ cho trời đất, đó là đại văn chương”.
d) Quan niệm “Văn dĩ tải đ o”, “Thi dĩ ngôn chí”
Khái niệm Đạo gắn với hai quan niệm “Văn dĩ minh Đạo” và “Văn dĩ
tải Đạo”. Khái niệm “Văn dĩ minh Đạo” là quan niệm của các nhà Đường
Nho, thời này rất chú ý đến vai tr của Đạo và của “ Văn làm sáng Đạo”.
Đến đời Tống, Lý học hưng thịnh, trên cơ sở x hội có nhiều biến đổi,

các nhà Lý học Tống Nho đem Đạo đối lập với Văn. Người đ u tiên trong số
những nhà Lý học Tống Nho đưa ra quan niệm “Văn dĩ tải Đạo” là Chu Đôn
Di. Ông coi văn ch là công cụ để chuyển tải Đạo. Đây là cách nhìn thụt lùi so
với “Văn dĩ minh Đạo” của Hán V đời Đường.
Mối quan hệ giao lưu văn hóa và văn học giữa Việt Nam và Trung Hoa
có mối quan hệ chặt chẽ nên trong quan niệm m học và văn học của Việt
Nam thời kỳ này c ng chịu ảnh hưởng của quan điểm th m m và văn học Cổ
điển kiểu phương Đông, tập trung vào hai định hướng cơ bản là “Văn dĩ tải
đạo” và “Thi dĩ ngôn chí”.
“Văn dĩ tải đạo” dưới ảnh hưởng của Nho giáo, Văn bị thu hẹp trong
phạm vi của Đạo, là công cụ của Đạo.
Còn “Thi dĩ ngôn chí” là quan điểm th m m thuộc chủ thể sáng tạo, ở
đây có sự tác động của chủ thể là nhà văn, nhà thơ. Lúc này, m học dành

22


×