Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG TMCP DẦU KHÍ TOÀN CẦU CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.51 KB, 10 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CÔNG
TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG TMCP DẦU KHÍ TOÀN CẦU CHI
NHÁNH ĐÀ NẴNG
3.1 Định hướng phát triển hoạt động tín dụng đối với DNXL của ngân hàng
TMCP Dầu Khí Toàn Cầu – chi nhánh Đà Nẵng trong năm 2011:
Trong cơ cấu dư nợ của chi nhánh trong thời gian qua, dư nợ đối với các DNXL
luôn chiếm một tỉ trọng khá cao, chính vì thế phát triển tín dụng đối với DNXL luôn
là một nội dung quan trọng trong hoạt động tín dụng của chi nhánh qua từng năm.
Năm 2011, dựa vào tình hình phát triển chung của nền kinh tế cũng như tình hình
phát triển thực tế của các DNXL trong những năm vừa qua, từ đó GPBank Đà Nẵng
đã đặt ra mục tiêu, phương hướng phát triển tín dụng cho DNXL năm 2011:
- Thực hiện tăng dư nợ tín dụng đối với DNXL ở mức từ 20-25%, cố gắng giảm nợ
xấu trong cơ cấu tín dụng đối với loại hình doanh nghiệp này xuống dưới mức 3%
(năm 2010 là 3,96%). Thực hiện tốt công tác thu nợ nhằm giải quyết tốt nợ còn tồn
đọng, nợ không đủ tiêu chuẩn nhằm làm lành mạnh hóa tín dụng đối với DNXL.
- Trong cơ cấu tỉ trọng dư nợ tín dụng đối với DNXL, điều chỉnh tăng tỉ trọng dư nợ
TDH lên mức 20-23% (năm 2010 là 18,54%)
- Tích cực, chủ động tìm kiếm các khách hàng mới là các DNXL. GPBank Đà Nẵng sẽ chú trọng đào
tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, có khả năng thẩm định tốt để tìm kiếm cơ hội đầu tư, tư
vấn lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho các DNXL.
- Thực hiện chính sách khách hàng theo từng tiêu chuẩn khách hàng. Các khách hàng có đủ điều kiện
vay vốn, có uy tín trong quan hệ tín dụng, không có nợ quá hạn khó đòi, không có lãi treo... sẽ được
GPBank Đà Nẵng đáp ứng nhu cầu tín dụng nhanh chóng, kịp thời với những ưu đãi về lãi suất, thời
hạn cho vay, thời hạn thu nợ. Những khách hàng có quan hệ lâu năm, đủ tín nhiệm sẽ nhận được ưu
đãi tối thiểu về tỷ lệ vốn tự có, về ký quỹ đối với các dự án vay vốn.
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản trị rủi ro tín dụng đối với DNXL
tại ngân hàng TMCP Dầu Khí Toàn Cầu – chi nhánh Đà Nẵng:
3.2.1 Về công tác nhận diện rủi ro:
3.2.1.1.Về thu thập thông tin
Cán bộ tín dụng phải thu thập thông tin từ nhiều kênh, nguồn khác nhau, có khả năng chọn lọc các


thông tin có hiệu quả:
- Đầu tiên, cán bộ tín dụng cần nắm vững các quy định của Nhà nước và của TMCP Dầu Khí
Toàn Cầu liên quan đến việc cho vay vốn để có thể nhận định nhanh chóng và chính xác khả năng
cho vay đối với nhu cầu của khách hàng
- Xem xét thông tin từ phỏng vấn người vay, từ sổ sách ngân hàng để được thấy quan hệ vay trả
của khách hàng.
- Nắm bắt thông tin qua các phương tiện thông tin, phối hợp với trung tâm thông tin tín dụng của
NHNN (CIC), thông tin từ đồng nghiệp, bạn bè, GPBank Đà Nẵng cũng cần tạo lập mối quan hệ
thường xuyên với Sở Công Thương tỉnh. Đây là những tổ chức có thể cung cấp những thông tin đầy
đủ nhất về các hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNXL.
- Ngoài các kênh thông tin trên, CBTD cần phải chủ động đi khảo sát tình hình tại cơ
sở của doanh nghiệp. Qua đó, ngân hàng có thể nắm bắt được thông tin về khả năng
sản xuất kinh doanh nói chung của doanh nghiệp, năng lực quản lý, nhu cầu hiện tại
và tương lai của khách hàng một cách khách quan.
3.2.1.2.Đầu tư công nghệ, hiện đại hoá hệ thống thông tin trong ngân hàng
GPBank Đà Nẵng cần phải triển khai công tác hiện đại hóa ngân hàng, hoàn thiện cơ
chế thông tin, báo cáo, kiểm soát, xây dựng hệ thống cảnh báo rủi ro để nâng cao khả năng
quản lý, phát hiện kịp thời những rủi ro tiềm ẩn để có biện pháp xử lý thích hợp.
Qua hệ thống hiện đại hoá ngân hàng, chi nhánh và các phòng giao dịch trong cùng hệ
thống ngân hàng có thể thông tin nhau về tình hình hoạt động của khách hàng cùng quan hệ
trong hệ thống một cách nhanh nhất. Từ đó có thể phối hợp để cho vay và quản lý khoản vay
đối với một khách hàng, tránh việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một công trình, dẫn đến
rủi ro trong hoàn trả nợ.
Việc quản trị điều hành hoạt động tín dụng, việc quản lý món vay, quản lý khách hàng
được thực hiện tự động, tốt hơn và có hiệu quả hơn, thể hiện tính minh bạch hơn của hoạt
động tín dụng. Với việc chuyển nợ quá hạn tự động, đến đúng thời hạn món vay, nếu khách
hàng không trả được nợ không trả được lãi thì máy tính tự động chuyển món vay đó sang nợ
quá hạn. Từ đó hạn chế được tình trạng cố che giấu chất lượng tín dụng.
Hình thành một hệ thống thông tin tín dụng hiệu quả trong nội bộ để tự thu thập thông
tin và nối mạng với hệ thống thông tin tín dụng chung nhằm cung cấp 2 loại thông tin chính

sau cho guồng máy quản trị rủi ro tín dụng hoạt động: Một là, thông tin và các chỉ tiêu thống
kê phục vụ cho việc phân tích, đánh giá và xếp loại khách hàng cũng như khoản vay; Hai là,
cung cấp thông tin có liên quan về khách hàng vay (hoặc khoản vay). Nguồn thông tin từ tổ
chức cho vay không đủ mà phải thu thập thông tin từ các nguồn bên ngoài. Nguồn thông tin
từ bên ngoài có vai trò quan trọng trong việc đánh giá người vay một cách toàn diện. Đây
chính là thông tin tín dụng được cung cấp từ các cơ quan thông tin tín dụng trong và ngoài
nước.
3.2.1.3. Về phân tích và đánh giá khách hàng:
Qua thông tin thu thập được, cán bộ tín dụng cần phân tích kỹ các chỉ tiêu nhằm đánh giá tình
hình vay nợ, khả năng hoàn trả, tốc độ vòng quay bình quân vốn lưu động, tình hình tiêu thụ sản
phẩm, lợi nhuận của doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng cần đặc biệt chú ý đến khả năng sinh lời của
phương án vay vốn và các nguồn thu khác của khách hàng. Sở dĩ như vậy là vì tính khả thi của
phương án ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Nếu phương án khả thi dẫn tới
hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả và tạo nguồn thu thì khách hàng có khả năng trả nợ khi
hợp đồng tín dụng đến hạn thanh toán.
Nhìn chung, việc phân tích tín dụng cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
- Năng lực pháp lý của khách hàng như quyết định thành lập hợp pháp, đăng ký kinh doanh,
quyết định bổ nhiệm người đại diện hợp pháp...Thêm vào đó, cần thẩm định về năng lực quản lý
doanh nghiệp cũng như tư cách, uy tín của khách hàng nhằm hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.
- Khách hàng phải chứng minh được rằng mình có đầy đủ năng lực tài chính và các điều kiện
vay vốn theo quy định cụ thể đối với từng khách hàng, từng loại cho vay để đảm bảo thu hồi nợ gốc,
lãi đúng hạn.
- Phương án, dự án vay vốn phải có hiệu quả và tính khả thi, đảm bảo khả năng trả nợ của
khách hàng.
- Thẩm định tài sản đảm bảo của khách hàng: Tài sản đảm bảo phải thuộc sở hữu hợp pháp
của người đem thế chấp, cầm cố, không có tranh chấp, được phép giao dịch theo quy định của pháp
luật. Ngoài ra, CBTD cần thẩm định về giá trị của tài sản đảm bảo, tính thị trường, và tình trạng hiện
tại của tài sản.
Thông qua việc phân tích tình hình thực trạng của khách hàng CBTD phải đưa ra được đánh
giá chung về thực trạng kinh doanh, tính hợp lý của nhu cầu vay vốn, đánh giá khả năng hoàn trả,

tính khả thi của phương án vay vốn. Ngoài ra trong quá trình sử dụng vốn ngân hàng cần tăng cường
kiểm tra kiểm soát việc sử dụng vốn vay, từ đó kịp thời đưa ra những giải pháp hỗ trợ, tư vấn kịp
thời khi các DNXL gặp khó khăn trong quá trình sử dụng vốn.
3.2.2.Về công tác đánh giá, đo lường rủi ro:
3.2.2.1 Hoàn thiện các mô hình đánh giá rủi ro tín dụng:
Hiện nay, ở Việt Nam và trên thế giới, các mô hình đánh giá rủi ro tín dụng ra đời
ngày càng nhiều, ngày càng hiện đại hơn. Tuy nhiên, tính thực tế khi áp dụng các mô hình
mới này còn phụ thuộc vào nhiều biến số kinh tế đặc trưng của mỗi nước. Ở nước ta, có hai
mô hình đã và đang được áp dụng khá phổ biến và mang lại hiệu quả tốt cho các ngân hàng
thương mại đó là: mô hình định tính và mô hình điểm số tín dụng. Ngoài ra, theo khuyến
nghị của Basel II có thể dùng phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng dựa trên xếp hạng nội bộ
cơ bản (IRB):
Theo Basel II, các ngân hàng sẽ sử dụng mô hình này dựa trên hệ thống dữ liệu nội bộ
để xác định khả năng tổn thất tín dụng . Các ngân hàng sẽ xác định các biến số như:
PD - Probability of Default: xác suất khách hàng không trả được nợ
LGD: Loss Given Default - tỷ trọng tổn thất ước tính
EAD: Exposure at Default - tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng
không trả được nợ. Thông qua các biến số trên, ngân hàng sẽ xác định
EL: Expected Loss - tổn thất có thể ước tính.
Với mỗi kỳ hạn xác định, tổn thất có thể ước tính được tính toán dựa trên công thức
sau:
EL = PD x EAD x LGD
Chúng ta sẽ xem xét lần lượt ba chỉ tiêu cấu thành công thức trên.
Thứ nhất, PD - xác suất không trả được nợ: cơ sở của xác suất này là các số liệu về các khoản nợ
trong quá khứ của khách hàng, gồm các khoản nợ đã trả, khoản nợ trong hạn và khoản nợ không thu
hồi được. Theo yêu cầu của Basel II, để tính toán được nợ trong vòng một năm của khách hàng, ngân
hàng phải căn cứ vào số liệu dư nợ của khách hàng trong vòng ít nhất là 5 năm trước đó. Những dữ
liệu được phân theo 3 nhóm sau:
Nhóm dữ liệu tài chính liên quan đến các hệ số tài chính của khách hàng cũng như các đánh giá của
các tổ chức xếp hạng.

Nhóm dữ liệu định tính phi tài chính liên quan đến trình độ quản lý, khả năng nghiên cứu và phát
triển sản phẩm mới, các dữ liệu về khả năng tăng trưởng của ngành,...
Những dữ liệu mang tính cảnh báo liên quan đến các hiện tượng báo hiệu khả năng không trả được
nợ cho ngân hàng như số dư tiền gửi, hạn mức thấu chi...
Từ những dữ liệu trên, ngân hàng nhập vào một mô hình định sẵn, từ đó tính được xác xuất không
trả được nợ của khách hàng. Đó có thể là mô hình tuyến tính, mô hình probit... và thường được xây
dựng bởi các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp.
Thứ hai, EAD: Exposure at Default - tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả
được nợ. Đối với khoản vay có kỳ hạn, EAD được xác định không quá khó khăn. Tuy nhiên, đối với
khoản vay theo hạn mức tín dụng, tín dụng tuần hoàn thì vấn đề lại khá phức tạp. Theo thống kê của
ủy ban Basel, tại thời điểm không trả được nợ, khách hàng thường có xu hướng rút vốn vay tới mức
gần xấp xỉ hạn mức được cấp. Do đó, ủy ban Basel II yêu cầu tính EAD như sau:
EAD = Dư nợ bình quân + LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân
Trong đó, LEQ - Loan Equivalent Exposure là tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng có nhiều khả năng sẽ
được khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ. "LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng
bình quân" chính là phần dư nợ khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư
nợ bình quân.
Việc xác định LEQ - tỷ trọng phần vốn rút thêm có ý nghĩa quyết định đối với độ chính xác của ước
lượng về dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được nợ. Cơ sở xác định LEQ là các số liệu
quá khứ. Điều này dẫn đến những khó khăn lớn trong tính toán. Ví dụ, khách hàng uy tín, trả nợ đầy
đủ thường hiếm khi rơi vào tình trạng này, do đó, không thể tính chính xác được LEQ của một khách
hàng tốt. Ngoài ra, một số vấn đề dẫn đến sự phức tạp của LEQ có thể còn gồm: loại hình kinh
doanh của khách hàng, khả năng khách hàng tiếp cận với thị trường tài chính, quy mô hạn mức tín
dụng, tỷ lệ dư nợ đang sử dụng so với hạn mức,...
Thứ ba, LGD: tỷ trọng tổn thất ước tính - đây là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất trên tổng dư nợ tại
thời điểm khách hàng không trả được nợ. LGD không chỉ bao gồm tổn thất về khoản vay mà còn bao
gồm các tổn thất khác phát sinh khi khách hàng không trả được nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng
không được thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh như: chi phí xử lý tài sản thế chấp,
các chi phí cho dịch vụ pháp lý và một số chi phí liên quan.
Tỷ trọng tổng thất ước tính có thể tính toán theo công thức sau đây:

LGD = (EAD - Số tiền có thể thu hồi)/EAD.
Trong đó, số tiền có thể thu hồi bao gồm các khoản tiền mà khách hàng trả và các khoản tiền thu
được từ xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. LGD cũng có thể được coi là 100% - tỷ lệ vốn có thể thu hồi
được. Theo thống kê của ủy ban Basel, tỷ lệ thu hồi vốn thường mang giá trị rất cao (70% - 80%)
hoặc rất thấp (20 - 30%). Do đó, chúng ta không nên sử dụng tỷ lệ thu hồi vốn bình quân. Theo
nghiên cứu của ủy ban Basel, hai yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất quyết định khả năng thu hồi vốn
của ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ là tài sản bảo đảm của khoản vay và cơ cấu tài sản
của khách hàng.
Cơ cấu tài sản của khách hàng được nhắc đến ở đây với ý nghĩa thứ tự ưu tiên trả nợ khác nhau của
các khoản phải trả trong trường hợp doanh nghiệp phải phá sản. Trên thực tế, khi một doanh nghiệp
phá sản, tỷ lệ thu hồi vốn từ các khoản vay của ngân hàng thường cao hơn tỷ lệ thu hồi vốn từ trái
phiếu bởi ngân hàng có quyền được ưu tiên trả nợ trước các nhà đầu tư trái phiếu. Bên cạnh đó, khi
kinh tế trong tình trạng suy thoái, tỷ lệ thu hồi vốn cũng sụt giảm. Ngành nghề kinh doanh cũng ảnh
hưởng nhất định đến tỷ lệ thu hồi vốn: các khách hàng hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nặng
thường cho tỷ lệ thu hồi vốn cao hơn các khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ. Hiện nay,
tồn tại ba phương pháp chính để tính LGD:
Một là, Market LGD - tỷ trọng tổn thất căn cứ vào thị trường. Phương pháp này được sử dụng khi
các khoản tín dụng có thể được mua bán trên thị trường. Ngân hàng có thể xác định tỷ trọng tổn thất
của một khoản vay căn cứ vào giá của khoản vay đó một thời gian ngắn sau khi nó được xếp vào
hạng không trả được nợ. Giá này được tính trên cơ sở ước tính của thị trường bằng phương pháp
hiện tại hóa tất cả các dòng tiền có thể thu hồi được của khoản vay trong tương lai.
Hai là, Workout LGD - tỷ trọng tổn thất căn cứ vào việc xử lý các khoản tín dụng không trả được
nợ. Ngân hàng sẽ ước tính các luồng tiền trong tương lai, khoảng thời gian dự kiến thu hồi được
luồng tiền và chiết khấu các luồng tiền này. Việc xác định lãi suất chiết khấu phù hợp là vấn đề mấu
chốt và nan giải nhất.
Ba là, Implied Market LGD - xác định tỷ trọng tổn thất căn cứ vào giá các trái phiếu rủi ro trên thị
trường.
Như vậy, thông qua các biến số LGD, PD và EAD, ngân hàng sẽ xác định được EL - tổn thất ước
tính của các khoản cho vay. Nếu ngân hàng tính chính xác được tổn thất ước tính của khoản cho vay
thì sẽ mang lại cho ngân hàng rất nhiều ứng dụng.

Vì vậy, việc xây dựng hệ thống ước tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ thống cơ sở dữ liệu đánh giá
nội bộ - IRB là xu thế tất yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập. Tuy
nhiên, việc tính toán bất kỳ chỉ tiêu nào trong số 3 chỉ tiêu PD, LGD hay EAD luôn khá phức tạp,
ngân hàng nên bắt đầu nghiên cứu xây dựng lộ trình đào tạo cán bộ, đầu tư công nghệ hiện đại hơn
nữa để nhằm đưa mô hình này đi vào thực tế.
3.2.3.Về công tác kiểm soát rủi ro:
3.2.3.1.Về công tác cán bộ và đào tạo:
Dù hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng có phát triển
đến mức độ nào đi chăng nữa thì yếu tố con người vẫn luôn giữ yếu tố quyết định.
Con người chính là thực thể thực hiện tất cả các khâu đề ra trong quản trị rủi ro tín
dụng, từ đề ra giải pháp cho đến thực thi. Chính vì thế muốn nâng cao hiệu quả của
công tác quản trị rủi ro tín dụng thì trước hết phải nâng cao trình độ chuyên môn và

×