Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Từ vựng trong thơ Tố Hữu ( Khảo sát qua hai tập Việt Bắc và Gió lộng ) : Luận văn ThS. Ngôn ngữ học: 60 22 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (748.95 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------

NGUYỄN THỊ HỒNG

TỪ VỰNG TRONG THƠ TỐ HỮU
(KHẢO SÁT QUA HAI TẬP VIỆT BẮC VÀ GIÓ
LỘNG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hà Nội - 2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------

NGUYỄN THỊ HỒNG

TỪ VỰNG TRONG THƠ TỐ HỮU
(KHẢO SÁT QUA HAI TẬP VIỆT BẮC VÀ GIÓ
LỘNG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 602201


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Vũ Đức Nghiệu

Hà Nội - 2013

2


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô trong
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô
trong Khoa Ngôn ngữ học đã tận tình hướng dẫn và truyền thụ những kiến
thức chuyên môn cho em trong suốt quá trình học lớp Cao học tại khoa Ngôn
ngữ học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.
Để hoàn thành được Luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em đã
nhận được sự hướng dẫn tận tình chu đáo về mặt khoa học của GS.TS Vũ
Đức Nghiệu - Giảng viên Khoa Ngôn ngữ học. Em xin kính gửi đến thầy lòng
biết ơn sâu sắc về những kiến thức và phương pháp nghiên cứu khoa học mà
Thầy đã truyền thụ cho em trong suốt thời gian hoàn thành Luận văn này.
Em cũng mong muốn bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình em, đã tạo mọi
điều kiện tinh thần để em được yên tâm học trong suốt thời gian đào tạo cũng
như hoàn thành Luận văn.
Em chân thành gửi lời cảm ơn đến bạn bè đồng học và đồng nghiệp đã
có những giúp đỡ nhất định cho em trong thời gian học và hoàn thành luận
văn.
Mặc dù luận văn này được hoàn thành với nhiều cố gắng của bản thân
em, song không tránh khỏi sự thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận được sự
góp ý quý báu từ quý thầy cô và các bạn để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 25 tháng 11 năm 2013
Học viên Cao học

Nguyễn Thị Hồng

3


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...............................................................................1
1. Lí do chọn đề tài.............................................................................1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................3
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn..................................................3
4. Nhiệm vụ của luận văn...................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................4
6. Quy cách trình bày.........................................................................5
7. Cấu trúc của luận văn.....................................................................5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC VẤN ĐỀ TRONG
LUẬN VĂN..................................................................................................6
1.1. Tác giả và nguồn ngữ liệu được khảo sát....................................6
1.1.1. Tác giả Tố Hữu.........................................................................6
1.1.2. Về hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng.......................................7
1.2. Một số vấn đề lý luận trong nghiên cứu từ vựng tác phẩm, tác
giả..................................................................................................................7
1.2.1. Từ ngữ và đơn vị khảo sát, thống kê..........................................7
1.3. Một số vấn đề về thống kê và thủ pháp nghiên cứu định lượng...10
1.4. Một số khái niệm liên quan trong nghiên cứu định lượng..........13
1.5. Các lớp từ và tiêu chí nhận diện để phân lớp từ..........................14
1.5.1. Phân lớp từ ngữ theo nguồn gốc...............................................14
1.5.2. Phân lớp từ ngữ theo phạm vi sử dụng.....................................19
1.5.3. Phân lớp từ ngữ theo cấu trúc....................................................23
1.6. Chuyển nghĩa và năng lực hoạt động của từ..........................................25
1.6.1. Chuyển nghĩa ẩn dụ..................................................................26

1.6.2. Chuyển nghĩa hoán dụ..............................................................26
TIỂU KẾT.........................................................................................29

4


CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH ĐỊNH LƢỢNG VỀ VỐN TỪ VÀ
PHÂN TÍCH CÁC LỚP TỪ TRONG VIỆT BẮC, GIÓ LỘNG............30
2.1. Đánh giá độ phong phú từ vựng của tác phẩm...........................30
2.1.1. Về chỉ số phong phú ( R ) của vốn từ......................................30
2.1.2.Các từ có tần số cao và sự phân bố của các vùng tần số khác
nhau.............................................................................................................36
2.2. Phân tích thành phần từ vựng trong văn bản theo phạm vi sử
dụng..................................................................................................................37
2.3. Phân tích thành phần từ vựng về mặt cấu trúc của từ................39
2.3.1. Từ đơn âm tiết và từ đa âm tiết trong hai tập thơ...................39
2.3.2. Từ láy trong hai tập thơ.............................................................41
2.3.3. Lớp thực từ và lớp hư từ trong hai tập thơ.............................42
2.4. Phân tích thành phần từ vựng về mặt nguồn gốc......................44
TIỂU KẾT...........................................................................................46
CHƢƠNG 3:CHUYỂN NGHĨA ẨN DỤ, HOÁN DỤ VÀ TÍN HIỆU
THẨM MĨ TRONG VĂN BẢN ..............................................................48
3.1. Chuyển nghĩa ẩn dụ trong Việt Bắc và Gió lộng.......................48
3.2. Chuyển nghĩa hoán dụ trong Việt Bắc và Gió lộng...................60
3.3. Nghĩa chuyển của từ với việc thể hiện các tín hiệu thẩm mỹ....63
3.3.1. Nghĩa chuyển của từ với việc thể hiện tín hiệu thẩm mỹ Bác Hồ..63
3.3.2. Nghĩa chuyển của từ với việc thể hiện tín hiệu thẩm mỹ người
lính................................................................................................................73
TIỂU KẾT..............................................................................................83
KẾT LUẬN............................................................................................84

TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................86

5


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nghiên cứu ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ tác phẩm là những việc không
xa lạ trong lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ học. Công việc này đem đến cho
chúng ta nhiều điều hữu ích về nhiều mặt: ngôn ngữ, văn chương, lịch sử và
một phần nào đó cả xã hội học. Sự tiếp cận các hiện tượng văn chương không
chỉ từ phía nghệ thuật - mỹ học, như là một loại hình nghệ thuật - nghệ thuật
ngôn từ, mà cả từ phía ngôn ngữ - ngữ học.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trực tiếp của con người, là hiện thực
trực tiếp của tư tưởng. Ngôn ngữ cũng là phương tiện lưu giữ các kết quả của
tư duy và hình thành tư duy. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, mỗi lớp người, mỗi loại hình văn bản ngôn
ngữ được sử dụng (đặc biệt là về mặt từ vựng) không trùng khít với nhau.
Điều này phụ thuộc vào giai đoạn lịch sử, giới tính, lứa tuổi, cá nhân, loại
hình văn bản và ảnh hưởng sâu sắc tới sản phẩm ngôn ngữ (tác phẩm). Để
nghiên cứu biểu hiện của ngôn ngữ qua những giai đoạn, những tác phẩm
khác nhau, những tác giả khác nhau, người ta nghiên cứu nhiều phương diện
như: ngữ pháp, từ vựng, ngữ nghĩa.. đặc biệt là nghiên cứu từ vựng. Cho đến
nay trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ tác phẩm, tác
giả như nghiên cứu từ vựng của Puskin, của Shakespeare hoặc nghiên cứu
ngôn ngữ tác phẩm: Sông Đông êm đềm, Chiến tranh và hoà bình; lại có công
trình nghiên cứu ngôn ngữ của danh nhân như nghiên cứu “từ vựng của tướng
De Gaulle” của Cotteret và Moreau. [15]
Ở Việt Nam có thử nghiệm nghiên cứu bước đầu về ngôn ngữ Hồ Chủ
tịch1. Tiếp theo là nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm như từ điển tác phẩm


1

Bước đầu tìm hiểu “Sự phân bố tư vựng trong ngôn ngữ Hồ Chủ tịch” của Nguyễn Đức Dân, Hoàng Cao
Cương, Trần Đình Cơ

6


Truyện Kiều, từ điển tần số truyện và ký tiếng Việt hiện đại 2. Trong luận văn
này, chúng tôi nghiên cứu từ vựng trong hai tập thơ của Tố Hữu.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Tố Hữu (1920 - 2002) luôn được
coi là tác giả sáng giá, một cây đại thụ. Ông đã có tên trong Từ điển Văn học
Việt Nam và có một số lượng tác phẩm khá lớn. Hai tác giả Phong Lan và
Mai Hương nhận xét về ông như sau: “Trên bầu trời của văn học Việt Nam
hiện đại, Tố Hữu luôn được coi là ngôi sao sáng, là người mở đầu và dẫn đầu
tiêu biểu cho thơ ca cách mạng. Sáu mươi năm gắn bó với hoạt động cách
mạng và sáng tạo thơ ca, ông thực sự tạo nên được niềm yêu mến, nỗi đam
mê bền chắc trong nhiều độc giả. Ông là người đã đem đến được cho công
chúng và rồi cũng nhận lại được từ họ sự đồng điệu, đồng cảm, đồng tình
tuyệt diệu – đáng là niềm ao ước của mọi sự nghiệp thơ ca, kể cả những nhà
thơ lớn cùng thời với ông.” [31, tr.11]. Và cũng trong suốt hơn năm thập kỉ
qua, thơ Tố Hữu đã trở thành một hiện tượng, một đối tượng nghiên cứu lớn
của giới học thuật, thu hút hầu hết các nhà nghiên cứu, phê bình tên tuổi trong
cả nước. Trải qua hơn 50 năm nghiên cứu, phê bình thơ Tố Hữu, giới học
thuật nước ta ngày càng tiếp cận thế giới nghệ thuật của nhà thơ một cách
toàn diện, phong phú và thực chất hơn.
Thơ Tố Hữu là một thành tựu nổi bật của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Nói theo cách của Balzac, thì Tố Hữu chính là người thư ký của cách mạng.
Không chỉ ở lĩnh vực nghiên cứu văn học, thơ ông còn được nhiều nhà ngôn

ngữ học quan tâm, nghiên cứu. Nhìn chung, thơ ông đã được đánh giá, phân
tích về mọi mặt từ nội dung tư tưởng tới hình thức, phong cách, từ đề tài, chủ
đề, hình tượng tới phương pháp sáng tác, thể loại, ngôn ngữ. Các nhà nghiên
cứu đánh giá: Tố Hữu là một phong cách lớn trong sự phát triển của nền văn

2

Từ điển tần số truyện và ký tiếng Việt hiện đại của Vũ Thế Thạch, Phạm Thị Cơi (Luận văn tốt nghiệp Đại
học Tổng hợp Hà Nội) 1973

7


học dân tộc. Thơ ông không chỉ đặc sắc về mặt nội dung, tư tưởng mà còn có
giá trị đặc sắc về nghệ thuật trên các phương diện về phong cách và ngôn ngữ
thơ. Cho đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về thơ Tố Hữu từ
phương diện ngôn ngữ như: “Tính dân tộc và tính hiện đại của ngôn từ thơ Tố
Hữu” của Trần Đình Sử (Báo Văn nghệ số 36 - 1985); “Từ địa phương trong
thơ Tố Hữu” (Hoàng Thanh Vân: Luận văn Tốt nghiệp Trường Đại học Sư
phạm Thái Nguyên - 2000), “Khảo sát việc sử dụng từ ngữ địa phương trong
thơ Tố Hữu” (Phạm Thị Thuỳ Dương: Luận văn tốt nghiệp trường Đại học
Thái Nguyên), “Bước đầu khảo sát vốn từ địa phương trong thơ Tố Hữu”
(Hoàng Thị Hằng: Khoá luận tốt nghiệp Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn - 2006),…
Đến nay người ta đã bàn nhiều, phân tích và nghiên cứu nhiều mặt để
khẳng định giá trị của thơ ông nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu
riêng về từ vựng trong thơ ông với tư cách là một nghiên cứu tổng thể và cách
thức sử dụng từ ngữ của ông trong thơ. Nghiên cứu ngôn ngữ tác phẩm của
ông có thể sẽ góp phần nghiên cứu, miêu tả diện mạo từ vựng tiếng Việt hiện
đại trong tiến trình phát triển của nó. Đó là lý do chúng tôi xác định đề tài để

nghiên cứu trong luận văn này: Từ vựng trong thơ Tố Hữu (khảo sát qua hai
tập Việt Bắc và Gió lộng).
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là toàn bộ vốn từ vựng trong
hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng của Tố Hữu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là khảo sát từ vựng chỉ trong hai tập
thơ Việt Bắc và Gió lộng của ông. Chúng tôi sẽ khảo sát trên phạm vi toàn
thể các lớp từ, các bộ phận của vốn từ trong hai tập thơ này.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn

8


Thực hiện đề tài “Từ vựng trong thơ Tố Hữu (khảo sát qua hai tập Việt
Bắc và Gió lộng)”, luận văn hướng vào những mục đích nghiên cứu sau:
+ Tổng kiểm kê, khảo sát để có những thông tin định lượng về vốn từ
trong hai tập thơ này.
+ Đánh giá từ vựng tiếng Việt được sử dụng trong nguồn ngữ liệu
được khảo sát (Việt Bắc và Gió lộng). Qua đó, có thể góp phần nghiên
cứu từ vựng tiếng Việt trong giai đoạn tương ứng được xét.
+ Góp phần phục vụ nghiên cứu tác phẩm văn chương từ góc độ ngôn
ngữ học; bước đầu tìm hiểu nghệ thuật của Tố Hữu trong việc sử dụng ngôn
từ. Điều này có ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy thơ Tố Hữu nói riêng và
thơ ca Việt Nam nói chung.
4. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, chúng tôi phải thực hiện một số nhiệm vụ
sau đây:
- Khảo chứng và lập được danh sách toàn bộ từ ngữ được sử dụng trong
hai tác phẩm.
- Phân tích định lượng các kết quả khảo sát được để rút ra những nhận

xét về những nội dung như:
* Nghiên cứu định lượng xác định độ phong phú, phân tán và tập trung
của từ vựng xuất hiện trong tác phẩm.
* Miêu tả, phân tích thành phần từ vựng trong 2 tập thơ “Việt Bắc” và
“Gió lộng”
* Đánh giá việc sử dụng từ vựng và một số điểm về nghĩa của từ ngữ
trong tác phẩm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng các phương pháp:
- Thống kê định lượng ngữ liệu nghiên cứu.

9


- Vận dụng một số phương pháp trong nghiên cứu định lượng để đánh
giá về từ vựng tác phẩm như: độ phong phú và độ tập trung từ vựng.
- Phân tích cơ cấu vốn từ bằng các đối lập ngôn ngữ học trong nội bộ
của nó. (phạm vi sử dụng, chủ đề…)
6. Quy cách trình bày
1. Tên tác phẩm nhất loạt in nghiêng, tác phẩm chính in nghiêng đậm.
Ví dụ: Sông đông êm đềm, Gió lộng, Việt Bắc.
2. Chú thích tư liệu cũng như trích dẫn được đặt trong ngoặc kép và ghi
bằng số trong ngoặc vuông, tương ứng với số thứ tự trong danh mục tài liệu
tham khảo, cùng với số trang ghi ngay sau phần tư liệu trích dẫn.
7. Cấu trúc của luận văn
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi sẽ trình bày luận
văn này trong một cấu trúc như sau:
- Phần mở đầu
- Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của các vấn đề trong luận văn
-


Chƣơng 2: Phân tích định lượng về vốn từ và phân tích các lớp từ

trong Việt Bắc và Gió lộng
- Chƣơng 3: Chuyển nghĩa ẩn dụ, hoán dụ và tín hiệu thẩm mỹ trong
văn bản
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo
- Phụ lục

10


CHƢƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÁC VẤN ĐỀ TRONG LUẬN VĂN
1.1. Tác giả và nguồn ngữ liệu được khảo sát
1.1.1. Tác giả Tố Hữu
Tố Hữu sinh ra và lớn lên ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Từ nhỏ Tố Hữu đã được cha – là một nhà nho
dạy làm thơ theo lối cổ. Mẹ ông là con một nhà nho, thuộc nhiều bài ca dao,
dân ca xứ Huế và rất giàu tình thương con. Tuy nhiên, năm Tố Hữu 12 tuổi
thì bà đã qua đời.
Tuy là một vùng đất nghèo nhưng phong cảnh thiên nhiên, sông nước ở
xứ Huế rất nên thơ - một xứ Huế mộng mơ. Nơi đây có một nền văn hoá rất
phong phú, độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc, là sự kết hợp của văn hoá cung
đình và văn hoá dân gian mà nổi tiếng nhất là những điệu ca, hò như nam ai,
nam bình, mái nhì, mái đẩy…
Tố Hữu tham gia cách mạng từ rất sớm. Năm 1938, Ông được kết nạp
vào Đảng Cộng sản Đông Dương và từ đó ông hoàn toàn tự nguyện hiến dâng
cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Ông từng bị bắt giam tại nhà lao Thừa

Thiên, nhiều nhà tù ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, rồi vượt ngục tiếp
tục hoạt động cách mạng. Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tố Hữu được
bầu làm Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa ở Huế, lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền ở thành phố quê hương, nơi đầu não của chính quyền
phong kiến. Khánh chiến toàn quốc bùng nổ, Tố Hữu được điều động ra
Thanh Hoá rồi lên Việt Bắc công tác ở cơ quan Trung ương Đảng, đặc trách
về văn hoá, nghệ thuật. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ và cho đến năm 1986, Tố Hữu luôn giữ những cương vị trọng yếu
trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước (ông từng là Uỷ viên Bộ Chính

11


trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Sau một
thời gian lâm bệnh nặng Tố Hữu đã ra vào ngày 9-12-2002 tại Hà Nội.
Đời thơ của ông có nhiều tác phẩm. Quan niệm sáng tác của ông là
thơ phải có tác dụng trong đời sống, trong đấu tranh cách mạng, phải nâng
người ta lên, cuốn người ta theo, dẫn người ta về phía trước. Tập thơ Việt
Bắc và Gió lộng của ông đã thể hiện đúng tinh thần và quan niệm ấy.
1.1.2. Về hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng
Chúng tôi khảo sát từ vựng trong hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng in
trong cuốn “Tố Hữu: Thơ” do Nhà xuất bản Văn học ấn hành, năm 2005.
Việt Bắc là tập thơ được sáng tác chủ yếu trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp (1946-1954), gồm tổng cộng 27 bài (trong đó có 06 bài dịch, 03
bài sáng tác sau 1954).
Tập thơ Gió lộng gồm 25 bài, sáng tác trong 06 năm (1955-1961) khi
đất nước tập trung vào hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ Ngụy, thống nhất đất nước ở miền Nam.
1.2. Một số vấn đề lý luận trong nghiên cứu từ vựng tác phẩm,
tác giả

1.2.1. Từ ngữ và đơn vị khảo sát, thống kê
Đơn vị để khảo sát thống kê của chúng tôi là đơn vị từ vựng. Đó là từ
và đơn vị tương đương với từ. Nói cách khác, đơn vị thống kê trong nghiên
cứu định lượng ở đây là từ và đơn vị tương đương với từ: những ngữ cố định.
a. Từ và vấn đề quan niệm, xác định từ
Từ vựng vô cùng quan trọng để cùng với ngữ pháp làm thành ngôn
ngữ. Xét ở nhiều khía cạnh, từ là đơn vị cơ bản, là đơn vị trung tâm trong toàn
bộ hệ thống các đơn vị của ngôn ngữ, song việc xác định quan niệm về từ,
phân giới từ, phân loại từ không phải lúc nào cũng thuận lợi. Tuy vậy, khi

12


nghiên cứu từ vựng, nếu thống kê, người ta vẫn phải lấy từ làm đơn vị khảo
sát cơ bản. Chúng tôi cũng phải lấy từ làm đơn vị là như vậy.
Về vấn đề quan niệm về từ của tiếng Việt, nhìn chung có hai
khuynh hướng:
* Coi từ tiếng Việt trùng với âm tiết ( hay tiếng).
Nhìn chung, từ xưa đến nay, những tiếng độc lập, có nghĩa ai cũng coi
là từ - từ đơn tiết; còn những tiếng không độc lập thì các nhà nghiên cứu xử lý
khác nhau. M.B.Emenneau coi mỗi từ là một âm tiết, một chữ tách rời nhau.
Đây cũng là ý kiến của G.Aubarey, Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim,…
Nguyễn Thiện Giáp cũng coi mỗi tiếng là một từ nhưng tác giả đã chứng
minh một cách thấu đáo hơn. Những đơn vị từ vựng do tiếng kết hợp với tiếng
mà thành được tác giả gọi chung là ngữ, gồm ngữ định danh, ngữ láy âm,
thành ngữ và quán ngữ.
“Từ của tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo
câu nói; nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết liền”.[22, 69 ]
* Coi từ tiếng Việt không hoàn toàn trùng âm tiết. Đây là quan niệm
của nhiều tác giả, ví dụ như:

- Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê: “Từ là âm có nghĩa, dùng trong
ngôn ngữ để diễn đạt một ý đơn giản nhất, nghĩa là ý không thể phân tích ra
được.[13, tr18]
Ví dụ: bàn, ghế, thợ thuyền, gia đình, …”
- Đỗ Hữu Châu: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định,
bất biến về hình thức ngữ âm theo các quan hệ hình thái học (như quan hệ về
số, về giống,…) và cú pháp trong câu, nằm trong một kiểu cấu tạo nhất định,
mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, ứng với những nghĩa nhất định,
sẵn có đối với mọi thành viên của xã hội Việt Nam, lớn nhất trong hệ thống
tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”. [8, tr 29]

13


Cùng quan niệm như Đỗ Hữu Châu, là quan niệm của các tác giả như:
Nguyễn Kim Thản, Hoàng Tuệ, Ðái Xuân Ninh, Hồ Lê…
Vẫn theo Đỗ Hữu Châu, đơn vị cấu tạo từ tiếng Việt gồm có hình vị
và đơn vị cấu tạo từ, từ tố: Ngôn ngữ học thế giới nhất trí cho rằng, từ của
tất cả các ngôn ngữ, dù là ngôn ngữ hoà kết như ngôn ngữ Châu Âu, hay các
ngôn ngữ chắp dính, đơn lập, đều có thể phân tách ra thành những đơn vị ở
cấp độ dưới trực tiếp và gọi các đơn vị đó là hình vị [8, tr 36]. Từ là đơn vị
được cấu tạo bằng một hoặc một số từ tố (hình vị). Từ là đơn vị nhỏ nhất có
nghĩa và có khả năng hoạt động độc lập. Từ có chức năng định danh, có khả
năng đóng các vai trò khác nhau trong câu như chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ. Ở
phần trên, chúng ta đã bàn đến những đặc điểm chung của từ là có nghĩa
hoàn chỉnh, mang tính cố định, sẵn có, và là đơn vị nhỏ nhất có thể tham gia
tạo câu. Nó có hai đặc điểm đáng chú ý:
- Có thể đơn tiết hoặc đa tiết.
- Có thể có biến thể ngữ âm hoặc ngữ nghĩa nhưng không có biến thể
hình thái học. Ý nghĩa ngữ pháp của từ không được biểu hiện trong nội bộ

từ, mà được biểu hiện trong quan hệ giữa các từ trong câu. Mặt khác, từ
không có những dấu hiệu hình thức giúp xác định ý nghĩa ngữ pháp mà phải
dưa vào các loại từ hay phó từ như con, cái, chiếc ( đối với danh từ), đã,
đang, đang, sẽ, rất, hơi, khá…( đối với động từ và tính từ). Như vậy, phải
dựa vào chức năng ngữ pháp cụ thể ta mới xác định được ý nghĩa từ vựng
của từng trường hợp.
Những điều trình bày trên đây, phần nào đó đã nói lên được tính phức
tạp của tình hình nghiên cứu về từ trong tiếng Việt. Rất nhiều khái niệm về từ
đã được đưa ra, nhưng hầu hết đều không thể hiện khái quát hết bản chất của
từ. Tuy nhiên để thuận tiện trong quá trình làm việc, chúng tôi chấp nhận
quan niệm về từ sau đây để làm việc.

14


“Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn
chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời
nói để tạo câu” [14, tr142]
Luận văn của chúng tôi chấp nhận quan niệm về từ theo định nghĩa trên
tức là có từ đơn tiết và đa tiết.
b. Đơn vị tương đương với từ: các ngữ cố định.
Từ không những là đơn vị cơ bản của từ vựng, ngữ pháp; và như trên
đã nói, đơn vị thống kê không chỉ có từ mà còn có ngữ cố định.
Theo Nguyễn Thiện Giáp: “đơn vị cơ bản của từ vựng là từ. Bên cạnh
các từ, trong thành phần từ vựng của mỗi ngôn ngữ còn tồn tại rất nhiều các
cụm từ cố định, thường được gọi là các thành ngữ, quán ngữ. Cụm từ cố định
có nhiều điểm giống với từ: Chúng cũng có khả năng tái hiện trong lời nói
như các từ; về mặt ngữ pháp, chúng cũng có thể là thành phần của câu, cũng
có thể là cơ sở để cấu tạo từ; về mặt ngữ nghĩa, chúng cũng biểu thị những
hiện tượng của thực tế khách quan gắn liền với những kiểu hoạt động khác

nhau của con người. Chính vì vậy, các cụm từ cố định cũng nằm trong thành
phần từ vựng của ngôn ngữ, cũng được hệ thống hoá trong các từ điển. Từ và
cụm từ cố định được gọi là những đơn vị định danh cơ bản của ngôn ngữ,
thực hiện chức năng gọi tên các sự vật, hiện tượng… của thực tế. Tuy nhiên
cụm từ cố định không phải là đơn vị từ vựng cơ bản, bởi vì chúng do các từ
cấu tạo nên: muốn có cụm từ cố định trước hết phải có các từ”. [22, tr16,17]
Có thể nêu một khái niệm cho cụm từ cố định điển hình như sau:
Cụm từ cố định là đơn vị do một số từ hợp lại; tồn tại với tư cách một
đơn vị có sẵn như từ, có thành tố cấu tạo và ngữ nghĩa cũng ổn định như từ.
[14, tr153]
1.3. Một số vấn đề về thống kê và thủ pháp nghiên cứu định lượng

15


Thống kê là một phương pháp được sử dụng khi người ta muốn biết
được số liệu, thu thập, lí giải các số liệu một cách khách quan, khoa học và
đáng tin cậy. Phương pháp thống kê được sử dụng trong thống kê xã hội học,
tâm lý học, y học,… Ngoài ra phương pháp này cũng được áp dụng trong địa
hạt của ngôn ngữ học và do vậy đã hình thành một ngành học: Ngôn ngữ học
thống kê.
Ngôn ngữ học thống kê còn được sử dụng để nghiên cứu các phạm trù
từ nguyên hoặc các lớp từ cơ bản, từ vay mượn, từ dân gian và ngôn ngữ địa
phương. Ngôn ngữ học thống kê còn được sử dụng để thống kê từ vựng, từ
loại, thống kê độ dài câu tiếng Việt, từ đó chúng ta có thể tìm hiểu phong cách
ngôn ngữ của nhà văn, vận dụng phương pháp thống kê để tìm hiểu sự phân
bố từ vựng, các đặc trưng của cấu trúc văn bản. Nhờ phương pháp này mà
người ta có thể tìm ra được một số từ cơ bản được lặp lại nhiều lần hay những
từ thông dụng, sự phát triển của vốn từ, từ loại theo thời gian và trong từng
thể loại văn bản.

Kết quả này giúp cho việc giảng dạy cho các sinh viên người nước
ngoài hay ngoại ngữ rất có hiệu quả.
Dựa vào ngôn ngữ học thống kê người ta có thể nghiên cứu sự hoạt
động của ngôn ngữ. Các chỉ số thu được tự nó phản ánh đặc điểm, cấu trúc,
chức năng của hiện tượng ngôn ngữ. Tần số của hiện tượng ngôn ngữ sẽ
phản ánh cấu trúc nội tại của một văn bản, giúp người đọc nhận thức được
các quy luật kết hợp từ của tác giả, cách sử dụng từ trong từng ngữ cảnh. Từ
nghiên cứu định lượng về ngôn ngữ của văn bản thơ, có thể rút ra đặc điểm
của thể loại thơ và giúp chúng ta hiểu thêm được nội dung, tính chất đặc thù
của thơ trong một giai đoạn nhất định. Ngoài ra, thống kê định lượng còn
giúp chúng ta hiểu được khả năng, quy luật phát triển vốn từ của tác giả nói
riêng và vốn từ vựng nói chung. Như vậy, việc nghiên cứu định lượng về

16


vốn từ vựng của một tác phẩm cũng có tầm quan trọng rất lớn đối với việc
nghiên cứu ngôn ngữ. Áp dụng phương pháp thống kê và dựa trên cơ sở đó
để phân tích và nhận xét những số liệu đã thu được, kết quả của nó sẽ góp
phần nhận thức sâu sắc và khoa học về cơ cấu ngôn ngữ trong thơ, phạm vi
vốn từ mà tác giả sử dụng.
Phương pháp thống kê trong nghiên cứu từ vựng đã giúp chúng tôi
nghiên cứu Việt Bắc, Gió lộng chính xác dưới góc độ từ vựng. Bảng thống kê
từ vựng trong hai tập thơ được lập trên cơ sở của phương pháp thống kê từ
vựng học. Để có được những con số chính xác cho bảng thống kê từ vựng,
chúng tôi tiến hành công việc đầu tiên là phân định ranh giới từ của toàn bộ
hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng. Những danh sách từ ngữ mà chúng tôi thu
được sẽ như một từ điển tần số về hai tập thơ này. Từ những nguồn ngữ liệu
đó chúng ta có thể tìm hiểu những nét khái quát về từ vựng trong vốn từ của
nhà thơ Tố Hữu và sự hoạt động của ngôn ngữ trong thơ ông. Kết quả thu

được sẽ phản ánh đặc điểm, cấu trúc, chức năng của hiện tượng ngôn ngữ
cũng như cấu trúc nội tại của văn bản. Chúng tôi chọn đơn vị thống kê là từ
và cụm từ cố định vì chúng có chức năng định danh và chức năng làm thành
phần câu, khả năng tách khỏi các đơn vị khác của lời nói để hoạt động độc lập
và hoàn chỉnh về mặt ngữ âm, ý nghĩa. Các từ đồng âm được xếp thành các từ
khác nhau theo từ loại của chúng. Ví dụ, chúng ta có 3 từ “hay” khác nhau:
hay (động từ). Ví dụ: Họ đã hay việc này.
hay (tính từ). Ví dụ: Bộ phim rất hay.
hay (liên từ). Ví dụ: anh uống cà phê hay uống chè?
Nguyên tắc thống kê, kiểm đếm định lượng:
Chúng tôi phân cắt văn bản thành các đơn vị từ vựng dựa trên tiêu chí
nhận diện từ ở trên, sau đó kiểm đếm, thống kê tần số xuất hiện của từng đơn

17


vị thống kê đó. Đơn vị thống kê (đơn vị từ vựng ) được chúng tôi phân biệt từ
đa nghĩa, đồng âm, cách tính 2 từ đồng âm khác nhau.
Số lần đơn vị thống kê (từ, ngữ cố định, thành ngữ, câu trích dẫn,
những con số, những chữ viết tắt, những tên riêng chỉ người, chỉ địa danh,…)
xuất hiện trên văn bản thống kê gọi là tần số của từ. Khi thống kê toàn bộ vốn
từ trong 2 tập thơ Việt Bắc và Gió lộng, các lời phụ chú của tác giả như:
“Thân tặng”, “Dịch thơ của…” thì không được tính. Từ những kết quả đã thu
được qua quá trình thống kê, chúng tôi lập thành một bảng: Bảng thống kê từ
vựng của Tố Hữu qua hai tập thơ Việt Bắc và Gió lộng.
1.4. Một số khái niệm liên quan trong nghiên cứu định lƣợng
Trước khi đi vào chi tiết nội dung chính của luận văn, chúng ta sẽ đi
tìm hiểu sơ qua các khái niệm có liên quan trong nghiên cứu định lượng.
- Đơn vị thống kê: Như chúng tôi đã nói ở trên, mỗi đơn vị từ vựng (từ,
ngữ cố định, thành ngữ, câu trích dẫn, những con số, những chữ viết tắt,

những tên riêng chỉ người, chỉ địa danh,…) là một đơn vị thống kê.
- Tần số của đơn vị thống kê: Số lần đơn vị thống kê (từ, ngữ cố định,
thành ngữ, câu trích dẫn, những con số, những chữ viết tắt, những tên riêng
chỉ người, chỉ địa danh,…) xuất hiện trên toàn bộ văn bản thống kê gọi là tần
số của từ trong văn bản ấy.
- Độ dài văn bản: Tổng tần số của tất cả đơn vị thống kê trong văn bản
thì được gọi là độ dài văn bản.
- Độ phân bố của từ: Từ, ngữ và những đơn vị thống kê khi nghiên cứu
những nguồn ngữ liệu lớn thì người ta thường chia thành những đoạn văn bản
khác nhau, trung bình khoảng 1000 lượt từ liên tiếp nhau là một đoạn văn
bản. Như vậy, mỗi một đơn vị thống kê xuất hiện trong nhiều đoạn văn bản
khác nhau thì gọi là có độ phân bố lớn. Độ phân bố phản ánh mức độ phổ biến
từ ngữ trong văn bản đó. Độ phân bố của từ là một trong những chỉ số phổ

18


biến của nó. Như vậy, một đơn vị thống kê càng xuất hiện trong nhiều đoạn
văn bản thì mức độ phổ biến của nó càng cao. Trong khảo sát của chúng tôi ở
đây, chúng tôi chưa làm công việc phân đoạn như vậy, mà mới chỉ thông kê,
phân tích trên tòn bộ văn bản.
- Độ phong phú từ vựng: Mức độ "giàu có" của từ vựng, thể hiện ở số
lượng từ khác nhau được sử dụng, ở tính ít lặp lại của các từ ngữ, ở độ phân
bố rộng rãi và độ phân tán cao, độ tập trung thấp của vốn từ.
- Độ phong phú của từ vựng được sử dụng trong văn bản có thể được
đo bằng một số công thức tính khác nhau, bổ sung cho nhau. Đó là công thức
tính tỉ lệ giữa số lượng từ khác nhau trên tổng độ dài văn bản (độ dài này tính
bằng tổng tần số của các từ), tính độ phân tán từ vựng, độ tập trung từ vựng, tỉ
lệ giữa thực từ với tổng tần số thực từ.
1.5. Các lớp từ và tiêu chí nhận diện để phân lớp từ

Từ vựng của một ngôn ngữ không phải là một tập hợp hỗn độn mà
chúng được phân chia một cách có hệ thống.
Dựa vào các tiêu chí khác nhau, người ta có thể phân chia hệ thống từ
vựng thành những lớp, hạng khác nhau một cách chặt chẽ và mạch lạc. Dựa
vào từ vựng học thì việc phân chia dường như có vẻ không được rõ ràng,
mạch lạc bằng. Mặc dù vậy, không phải vì lí do đó mà người ta không thể
phân chia được tập hợp các từ trong một ngôn ngữ.
1.5.1. Phân lớp từ ngữ theo nguồn gốc
a. Các từ ngữ gốc Hán
Lớp từ này nói chung có vị trí đặc biệt trong vốn từ vựng tiếng Việt,
chúng có số lượng lớn và năng lực sản sinh mạnh.
Tiếng Việt đã trải qua quá trình tiếp xúc với tiếng Hán từ rất lâu đời,
thông qua nhiều con đường và bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Trong quá
trình tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ, tiếng Việt đã tiếp nhận một lượng từ ngữ rất

19


lớn của tiếng Hán để bổ sung cho vốn từ vựng của mình. Có thể chia quá trình
tiếp xúc Hán – Việt thành hai giai đoạn lớn: một là giai đoạn từ đầu công
nguyên đến đầu đời Đường (đầu thế kỉ 8); hai là giai đoạn từ đời Đường (thế
kỉ 8 – thế kỉ 10) trở về sau. Hai lần tiếp xúc lớn này cung cấp cho từ vựng
tiếng Việt hai nguồn gốc từ Hán mà như trước nay vẫn quen gọi là từ Hán cổ
và từ Hán Việt. [14]
Từ Hán cổ là những từ gốc Hán được du nhập vào tiếng Việt trong giai
đoạn một. Vì đi vào tiếng Việt đã lâu, đã được đồng hoá rất mạnh, nên những
từ này hiện nay nói chung không còn cái vẻ xa lạ đối với người Việt nữa. Ví
dụ: chè, ngà, chén, chém, chìm, buồng, buồn, buồm, mùi, mùa...
Từ Hán Việt là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt trong giai
đoạn hai, sau đời Đường cho đến nay và người Việt vẫn lưu giữ cách phát âm

đời Đường hệ thống ngữ âm của mình gọi là cách đọc Hán Việt. Có thể nói
cách đọc Hán Việt là cách đọc chữ Hán của người Việt Nam. Cách đọc đó
được duy trì (với những biến đổi ít nhiều) cho đến tận ngày nay. Ví dụ: nam,
nữ, mã, trọng, khinh...
Tên gọi "từ Hán Việt" còn bao gồm cả những từ vốn không phải là gốc
Hán, mà do người Hán mượn một ngôn ngữ khác, rồi người Việt vay mượn
lại và đọc theo âm Hán Việt như các từ Hán Việt khác. Ví dụ, có những từ
vốn xuất thân nguồn gốc Nhật Bản như: nghĩa vụ, phục tùng, phục vụ, điều
chế, đại bản doanh, kinh tế,… Có những từ lại vốn xuất thân từ nguồn gốc
Phạn (Sanskrit) như Phật, Nát Bàn, Di lặc, Thích ca mầu ni... Có từ lại vốn
thuộc nguồn gốc châu Âu như: câu lạc bộ, Anh Cát Lợi, Mạc Tư Khoa... Đối
với những từ này, chúng ta không thể dùng nghĩa gốc của các từ Hán để giải
thích nghĩa của chúng.
Bên cạnh đó, những từ do người Việt tạo ra nhưng sử dụng yếu tố cấu
tạo có nguồn gốc Hán thì cũng được gọi là từ Hán Việt. Đây là một bộ phận

20


được sử dụng khá nhiều trong vốn từ vựng tiếng Việt. Người Việt đã sử dụng
yếu tố gốc Hán để tạo ra những đơn vị từ mới theo cách riêng của người Việt.
Chẳng hạn: y sĩ, đặc công, thể công, công an, thúc bách, đại đội, tiểu đoàn,
thiếu tá, binh lính, cướp đoạt, đói khổ, kẻ địch,… [14]
Bên cạnh đó, cũng là những từ gốc Hán nhưng có một nhóm được du
nhập vào tiếng Việt thông qua con đường khẩu ngữ của những người nói
phương ngữ tiếng Hán. Nhóm này chiếm một tỉ lệ rất nhỏ và nói chung không
đem lại cho tiếng Việt ảnh hưởng đáng kể nào. Ví dụ: quẩy, xì dầu, mì chính,
vằn thắn, xá xíu, sủi cảo, lậu, tào phớ, chí ma phù,…
Nhìn chung, diễn biến của các từ gốc Hán nói chung trong tiếng Việt
rất phức tạp, tuy nhiên không phải không phân chia được. Dựa trên những kết

quả phân tích về chúng cũng có thẻ rút ra một số hướng như sau:
Các từ Hán – Việt khi nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chúng đã
chịu sự tác động của quy luật biến đổi ngữ âm trong tiếng Việt. Do vậy,
chúng đã biến đổi diện mạo ban đầu của mình, hoặc cũng có thể dạng ngữ âm
Hán Việt của từ vẫn còn tồn tại trong tiếng Việt. Như vậy, có hàng loạt từ
được Việt hoá tới hai lần, dẫn tới hai kết quả tồn tại song song: một cách đọc
được gọi là cách đọc Hán Việt, một cách đọc được gọi là Hán Việt Việt hoá.
Cách đọc thứ hai làm mờ hẳn nguồn gốc của chúng đi, đưa chúng vào sâu hơn
trong tiếng Việt. Ví dụ: kiếm – gươm; kính – gương; các – gác; can – gan;
cận – gần; kí – ghi; hoạ – vạ...
Về năng lực hoạt động, khả năng thâm nhập của các từ gốc Hán trong
tiếng Việt, rất không đồng đều. Rất nhiều từ có khả năng hoạt động độc lập,
tổ hợp tự do, đến mức có lẽ trừ những người có vốn Hán học và những nhà
nghiên cứu ra, không mấy ai còn để ý đến hoặc "cảm thấy" nguồn gốc Hán
của chúng nữa. Chúng giống nhau cả về mặt hình thức ngữ âm và ngữ nghĩa

21


đối với các từ thuần Việt hoạt động tự do. Ví dụ: đầu, bút, tuyết, thánh, hiền,
tiên, phật, bụt, ông, bà, cô, cậu, cao, thấp...
- Về mặt ý nghĩa, không phải từ gốc Hán nào trong tiếng Việt cũng giữ
y nguyên cái nghĩa vốn có của nó. Một số từ chỉ còn được dùng với một hoặc
vài nghĩa trong số nhiều nghĩa của từ trong tiếng Hán chứ không tiếp nhận tất
cả các nghĩa của nó. Chẳng hạn từ nhất vốn có hơn 10 nghĩa nhưng đi vào
tiếng Việt, nó chỉ còn giữ lại nghĩa “thứ tự trên hết” khi hoạt động tự do: hạng
nhất, giỏi nhất, xếp thứ nhất... Đôi khi trong những tổ hợp vay mượn nguyên
khối từ gốc Hán, nói mới lưu giữ ý nghĩa “số từ một” như: nhất cử nhất động,
nhất cử lưỡng tiện, nhất thể hoá...
Cũng có từ đổi hẳn nghĩa của mình đi. Ví dụ:

bạc (mỏng → quên ơn);
khinh (nhẹ → coi thường);
tâm (tim → tấm lòng, bụng dạ con người);
đáo để (đến đáy, đến tận cùng → độc ác, riết róng);
sung sướng (đầy đủ, thông suốt → sướng, hạnh phúc);...
Ngoài ra, những từ Hán – Việt trong tiếng Việt phát triển thêm những
nghĩa mới, những nghĩa này không hoàn toàn có trong tiếng Hán.
Tóm lại, chúng ta thấy rằng vốn từ vựng Hán – Việt có vai trò quan
trọng trong từ vựng tiếng Việt. Sự biến đổi về nghĩa của các từ tiếp nhận tiếng
Hán rất đa dạng và phức tạp đòi hỏi chúng ta phải có vốn kiến thức nhất định
để xử lý, đánh giá vốn từ vựng gốc Hán một cách chính xác và khoa học.
b. Các từ ngữ gốc Ấn – Âu
Bộ phận từ ngữ này vào Việt Nam từ khi nước ta bị người Pháp xâm
lược và chịu ảnh hưởng trực tiếp của họ (giữa thế kỉ XIX). Vừa bằng con
đường khẩu ngữ vừa qua con đường chính thức trong giáo dục nhà trường và
giao tiếp hành chính, hàng loạt từ gốc Pháp đã du nhập vào tiếng Việt. Nhìn

22


chung, các từ ngữ gốc Ấn – Âu (chủ yếu là gốc Pháp) đã thâm nhập vào khá
nhiều mặt của đời sống xã hội. Từ đời sống giao tiếp hàng ngày cho đến các
ngành văn hoá, nghệ thuật, khoa học, kĩ thuật, y tế,… Khi được du nhập vào
tiếng Việt, sự biến đổi về nghĩa của các đơn vị từ ngữ nguồn gốc Ấn Âu tỏ ra
không mấy rõ rệt và không làm nảy sinh những đối lập, khác biệt quan trọng
như là ở các từ ngữ gốc Hán.
Ngôn ngữ Ấn – Âu du nhập vào Việt Nam trong một thời gian không
dài nếu so sánh với ngôn ngữ gốc Hán. Bên cạnh đó, do đặc điểm tiếng Việt
và tiếng Hán cùng là ngôn ngữ đơn lập nên việc tiếp nhận tiếng Hán dễ dàng
hơn tiếp nhận các tiếng Ấn – Âu.

Theo quy luật chung, các từ ngoại lai trong tiếng Việt đều có sự biến
đổi về ngữ âm để cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt. Đặc điểm
của tiếng Việt là mỗi từ là một âm tiết và có thanh điệu, do vậy người Việt đã
phân chia các từ Ấn Âu thành những âm tiết tách rời và phát âm theo cơ cấu
ngữ âm của tiếng Việt, người Việt thêm thanh điệu cho các âm tiết đó, bỏ bớt
các âm trong tổ hợp phụ âm, hoặc chuyển âm này thành âm khác cho phù hợp
với cách phát âm của mình.
Ví dụ: crème – kem; cafe – cà phê; carrotte – cà rốt; gare – ga;…
Mức độ Việt hoá các từ ngoại lai Ấn Âu không giống nhau, việc tiếp
nhận bằng con đường khẩu ngữ thường được Việt hoá nhiều hơn bằng con
đường sách vở. Người Việt có xu hướng rút ngắn bớt độ dài của các từ gốc
Ấn – Âu.
Ví dụ: boy – bồi; valse – van; gramme – gam; …
Việc tiếp nhận và sử dụng các từ gốc Ấn – Âu hiện nay còn nhiều vấn
đề cần quan tâm. Việc vay mượn vốn từ còn thiếu là hết sức cần thiết trong sự
hội nhập về nhiều mặt giữa các quốc gia, tuy nhiên cũng cần phải phát huy sự
sáng tạo ngôn ngữ vốn có của mình.

23


c. Các từ ngữ thuần Việt
Ngôn ngữ dân tộc không bất biến mà luôn vận động và phát triển qua
nhiều giai đoạn. Trong một giai đoạn lịch sử cụ thể bao giờ cũng xảy ra hiện
tượng giữ lại từ cũ, cấu tạo từ mới, vay mượn những từ ngữ từ tiếng nước
ngoài. Qua nhiều thời kì, việc xác định từ vay mượn và từ thuần không phải là
việc làm đơn giản. Do đó có thể quan niệm về từ thuần như sau:
Trong mọi từ vựng, ngoài những từ có thể xác định chắc chắn là tiếng
Việt tiếp nhận của tiếng Hán và các ngôn ngữ Ấn- Âu, phần cơ bản các từ còn
lại là các từ thuần Việt (hay còn được gọi là lớp từ bản ngữ). Đó là những từ

biểu thị các sự vật, hiện tượng cơ bản nhất và tồn tại từ lâu đời.
Lớp từ thuần Việt là cốt lõi của từ vựng tiếng Việt, làm thành một bộ
phận vô cùng quan trọng trong hệ thống vốn từ vựng tiếng Việt. Nó làm chỗ
dựa và có vai trò điều khiển, chi phối sự hoạt động của mọi lớp từ khác.
Những từ thuần Việt là những từ mà chúng ta cảm nhận theo quan niệm: Từ
thuần Việt là những từ xuất hiện lâu đời trong tiếng Việt, biểu thị những sự
vật, hiện tượng, khái niệm cơ bản nhất. Do có sự tiếp xúc từ rất sớm với các
ngôn ngữ nhóm Tày – Thái nên nhiều từ thuần Việt và các từ tương ứng trong
các tiếng này có sự giống nhau nhất định về ngữ âm và ngữ nghĩa. [22]. Như
vậy có thể nói lớp từ thuần Việt đã được dân tộc ta dùng từ lâu đời và là vốn
từ gốc cơ bản của vốn từ dân tộc. Chúng ta chấp nhận quan niệm này để xét
nguồn gốc vốn từ mà Tố Hữu đã sử dụng qua tập thơ Việt Bắc, Gió lộng.
1.5.2. Phân lớp từ ngữ theo phạm vi sử dụng
a. Từ ngữ địa phương
Từ địa phương (phương ngữ): Là những từ ngữ được sử dụng hạn chế
ở một khu vực địa lý nào đó. Thường thì mỗi địa phương có một số từ ngữ
dùng để biểu thị những sự vật, hiện tượng đặc trưng cho địa phương đó mà
các nơi khác không có, hoặc những từ ngữ mà vì những lí do khác nhau đã

24


được tạo ra và sử dụng trong phạm vi của địa phương đó. Cũng có khi, đây là
dạng cổ của những từ ngữ toàn dân hiện nay mà ở địa phương nào đó người ta
còn giữ lại. Những từ thuộc một phương ngữ (tiếng địa phương) nào đó của
ngôn ngữ dân tộc và chỉ phổ biến trong phạm vi lãnh thổ địa phương đó, thì
được gọi là từ địa phương.
Theo tác giả Hoàng Thị Châu, phương ngữ là “Biến dạng của một
ngôn ngữ được sử dụng với tư cách là phương tiện giao tiếp của những người
gắn bó chặt chẽ với nhau trong một cộng đồng thống nhất về mặt lãnh thổ, về

hoàn cảnh xã hội, về nghề nghiệp, còn gọi là tiếng địa phương” [11, tr24]
Như vậy, khái niệm từ địa phương trước hết nhằm vào những khác biệt
về mặt từ vựng chứ không phải là những khác biệt về mặt ngữ âm. Sự khác
biệt chẳng hạn như: lắt lẻo – lắc lẻo, gập ghềnh – gập ghình,... không phải là
mục tiêu chú ý của từ vựng.
Có những con đường khác nhau đã dẫn tới sự hình thành những kiểu
phương ngữ khác nhau.
Do sự vật được gọi tên chỉ có ở một vài địa phương nhất định nên tên
gọi của chúng trở thành từ địa phương. Loại này, trong từ vựng chung của
toàn dân tộc không có từ tương ứng với chúng. Ví dụ: nhút, lớ, (quả) tắt,
chẻo... (phương ngữ Trung Bộ), sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, tràm, trâm
bầu, chao,... (phương ngữ Nam Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam).
Có những từ cùng gọi tên một sự vật, hiện tượng với từ trong từ vựng
chung, nhưng hai từ khác nhau hoàn toàn về mặt ngữ âm. Ví dụ: ngái – xa, nỏ
– không, rào – sông, rú – núi, mô – đâu, tê – kia, rứa – thế, chộ – thấy, trốc –
đầu, nhủ – bảo,… (phương ngữ Trung Bộ); má – mẹ, điệp – phượng, mè –
vừng, muỗng – thìa, lượm – nhặt, mắc cỡ – xấu hổ,... (phương ngữ Nam
Trung Bộ và Nam Bộ).

25


×