Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở trong giai đoạn hiện nay : Luận văn ThS. Khoa học chính trị: 60 31 20

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
************

DOÃN ĐỨC HẢO

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội, 2009


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
************

DOÃN ĐỨC HẢO

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.20

LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Nguyễn Linh Khiếu



Hà Nội, 2009


5

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1

1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ TRONG

7

ĐIỀU KIỆN ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ sở

7

1.1.1.

Vị trí, vai trò Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ sở

7

1.1.2.


Nhiệm vụ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ sở

10

1.1.3.

Nội dung, phương thức hoạt động của Đoàn TNCS Hồ

12

1.1.

Chí Minh cấp cơ sở
1.1.3.1.

Công tác chỉ đạo, hướng dẫn của Đoàn cơ sở

13

1.1.3.2.

Công tác tổ chức thực hiện của Đoàn cơ sở

14

1.2.

Đoàn viên, thanh niên và đội ngũ cán bộ đoàn cấp cơ sở

15


1.2.1.

Đoàn viên, thanh niên

15

1.2.1.1.

Đoàn viên, thanh niên khu vực nông thôn

16

1.2.1.2.

Đoàn viên, thanh niên khu vực đô thị

19

1.2.2.

Đội ngũ cán bộ đoàn cấp cơ sở

21

1.2.2.1.

Khái niệm về cán bộ

21


1.2.2.2.

Khái niệm cán bộ đoàn

24

1.3.

Những nhân tố tác động đến công tác Đoàn và đội ngũ

28

cán bộ đoàn cơ sở
1.3.1.

Tác động của quá trình toàn cầu hoá

28

1.3.2.

Tác động của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội

31

1.4.

Định hướng đổi mới hoạt động Đoàn TNCS Hồ Chí


33

Minh cấp cơ sở trong điều kiện hiện nay
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ

38

2.1.

Đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở

38

2.1.1.

Số lượng, chất lượng cán bộ đoàn cơ sở

38

CHƯƠNG 2


6
2.1.2.

Công tác tuyển chọn cán bộ đoàn cấp cơ sở

48

2.1.3.


Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn đội ngũ cán bộ

51

đoàn cơ sở
2.1.4.

Công tác quy hoạch, luân chuyển, trưởng thành của đội

54

ngũ cán bộ đoàn cơ sở
2.2.

Những mặt mạnh, yếu của đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở

56

và nguyên nhân của thực trạng đó
2.2.1.

Những mặt mạnh và nguyên nhân

56

2.2.2.

Những mặt yếu kém và nguyên nhân


58

2.3

Một số kinh nghiệm rút ra từ thực trạng đội ngũ cán

69

bộ đoàn cơ sở

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY

62

DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ
3.1.

Dự báo tình hình công tác Đoàn và phong trào TTN ở

62

cấp cơ sở thời gian tới
3.2.

Mục tiêu, yêu cầu, phương hướng xây dựng đội ngũ

67


cán bộ đoàn cơ sở trong giai đoạn hiện nay
3.2.1.

Mục tiêu, yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở

67

3.2.2.

Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn

68

cơ sở
3.3.

Một số giải pháp chủ yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ

70

đoàn cơ sở trong giai đoạn hiện nay
3.3.1.

Đổi mới nội dung, hình thức đào tạo tập huấn đội ngũ cán

70

bộ đoàn cơ sở
3.3.2.


Đổi mới lề lối làm việc đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở xã,

75

phường, thị trấn
3.3.3.

Tuyển chọn, quy hoạch, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ đoàn
cơ sở xã, phường, thị trấn

77


7
3.3.4.

Công tác tham mưu cho cấp uỷ về công tác cán bộ đoàn ở

83

xã, phường, thị trấn
3.4.

Một số kiến nghị nằm nâng cao hơn nữa hiệu quả

85

công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở giai đoạn
hiện nay
KẾT LUẬN


88

TÀI LIỆU THAM KHẢO

90

PHỤ LỤC

96


8

CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
(xếp theo chữ cái a,b,c)
Chủ nghĩa xã hội:

CNXH

Công nghiệp hoá:

CNH

Hiện đại hoá:

HĐH

Thanh niên cộng sản:


TNCS

Thanh thiếu nhi:

TTN


9

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Đoàn thanh niên cộng sản (TNCS) Hồ Chí Minh là một thành viên trong
hệ thống chính trị, là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam do
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý
tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH), dân
giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Những năm qua, Đoàn
luôn phát huy được truyền thống yêu nước, xung kích, sáng tạo trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đoàn luôn là đội hậu bị của Đảng, là chỗ
dựa về tinh thần và là người bạn đồng hành của thanh niên Việt Nam. Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh được tổ chức một cách chặt chẽ và thống nhất theo 4 cấp
từ trung ương đến cơ sở.
Tổ chức Đoàn cơ sở là cấp thấp nhất nhưng lại đặc biệt quan trọng. Sở dĩ
như thế là vì, tổ chức Đoàn cơ sở là nền tảng của tổ chức Đoàn, là cấp trực
tiếp thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đoàn; tổ chức, triển khai
các hoạt động của Đoàn; đại diện cho lợi ích và quyền làm chủ của thanh
niên; trực tiếp tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở, giới
thiệu các đoàn viên ưu tú cho Đảng. Chính vì vậy, nếu không có đội ngũ cán
bộ tinh thông chuyên môn, nghiệp vụ, đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm với
tình hình nhiệm vụ mới sẽ không thể phát huy được những tiềm năng, thế

mạnh của đoàn viên, TTN, của tổ chức cơ sở Đoàn; đồng thời, cũng không
thể hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi được những tiêu cực, yếu kém của mặt trái cơ
chế thị trường tác động đến đoàn viên, thanh niên.
Thực tiễn 20 năm đổi mới, tổ chức Đoàn cơ sở, nhất là xã, phường, thị
trấn đã có những chuyển biến mạnh mẽ, đạt được những thành tựu quan trọng
đóng góp đáng kể cho công tác Đoàn và phong trào TTN cả nước. Tuy nhiên,
trong quá trình đổi mới mạnh mẽ thời gian qua, công tác Đoàn và phong trào
TTN ở cơ sở cũng đang đứng trước những thách thức mới. Đó là tình trạng


10
đoàn viên, thanh niên trình độ văn hóa còn thấp, thiếu việc làm, không có thu
nhập ổn định ở nông thôn ngày càng trầm trọng. Đặc biệt, do thúc ép của đời
sống nên trào lưu di cư tự phát của thanh niên nông thôn đến các thành phố,
các trung tâm kinh tế, các khu chế xuất, khu công nghiệp mới một cách ồ ạt,
không kiểm soát được dẫn đến tình trạng lộn xộn, nhiều rủi ro, nảy sinh nhiều
tệ nạn xã hội; bản thân những đoàn viên còn lại ở cơ sở còn tập trung học tập,
hoặc do những hoàn cảnh gia đình và bản thân rất đặc biệt nên cũng ít có thời
gian dành cho các hoạt động của Đoàn thanh niên... Công tác Đoàn và phong
trào TTN ở cơ sở vì thế thường rơi vào tình trạng bị động, không ổn định.
Trong khi đó, thực trạng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở về số lượng và chất
lượng vừa thiếu vừa yếu; phương pháp lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ
đoàn cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới; phần lớn đội ngũ cán
bộ đoàn cơ sở ít được đào tạo cơ bản, chủ yếu làm việc dựa vào kinh nghiệm;
một bộ phận cán bộ năng lực còn hạn chế, thiếu nhiệt tình say mê với công
việc, thụ động, thiếu sáng tạo trong việc tiếp thu và cụ thể hóa các chủ trương
công tác và triển khai các phong trào hành động cách mạng của Đoàn ở cơ sở,
cá biệt có bộ phận không đáp ứng được yêu cầu công tác... Nguồn tuyển chọn,
đào tạo, bồi dưỡng định kỳ cán bộ và công tác trưởng thành Đoàn, chế độ,
chính sách về cán bộ đoàn cơ sở còn nhiều hạn chế và bất cập. Trong khi đó,

thực tiễn hiện nay đang đặt ra rất nhiều vấn đề bức thiết đối với công tác
Đoàn và đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở; bên cạnh đó, cán bộ đoàn cơ sở là nguồn
cán bộ trẻ cung cấp cho Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở. Rõ ràng, thực tiễn
bức thiết đó đang đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu, tìm hiểu một cách sâu
sắc về thực trạng công tác Đoàn thanh niên và đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở để
sớm có được một hệ thống giải pháp đồng bộ, thống nhất và khả thi nhằm kịp
thời xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở đáp ứng những yêu cầu mới. Đây
chính là lý do để tác giả lựa chọn: Xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở trong
giai đoạn hiện nay trong đó đi sâu vào nghiên cứu đội ngũ cán bộ đoàn ở xã,
phường, thị trấn làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.


11
2. Tình hình nghiên cứu
Công tác cán bộ đoàn ở nước ta thời gian qua đã được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu, đề cập từ nhiều góc độ và từng cấp khác nhau. Đáng
chú ý là gần đây, do những đòi hỏi bức thiết từ thực tiễn công tác Đoàn và
phong trào TTN, Trung ương Đoàn đã có một số đề tài, hội thảo nghiên cứu
và trao đổi đề cập đến các khía cạnh khác nhau của công tác cán bộ đoàn và
đội ngũ cán bộ đoàn. Có thể nêu một số đề tài khoa học cấp Bộ được thực
hiện ở Trung ương Đoàn thời gian qua: “Xác định cơ cấu, tiêu chuẩn, chế độ
chính sách đối với đội ngũ cán bộ đoàn, hội trong điều kiện của công cuộc đổi
mới” (1992 - Phạm Đình Nghiệp làm chủ nhiệm), “Cơ sở khoa học của việc
đổi mới tổ chức và hình thức phương pháp tập hợp, đoàn kết thanh niên trong
điều kiện hiện nay” (1992 - Nguyễn Văn Tùng làm chủ nhiệm), “Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh với việc tạo nguồn nhân lực trẻ cho sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước” (1995 - Phạm Đình Nghiệp làm chủ nhiệm), “Vai trò
của Đoàn thanh niên với việc xây dựng hệ thống chính trị cơ sở” (1996 Nguyễn Văn Lùng làm chủ nhiệm), “Mô hình tổ chức và hoạt động của tổ
chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh ở cơ sở” (1996 - Nguyễn Văn Miều làm chủ
nhiệm), “Những giải pháp thực tiễn cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

đoàn cơ sở trong thời kỳ mới” (1998 - Nguyễn Trọng Tiến làm chủ nhiệm),
“Tổng quan tình hình thanh niên, công tác Đoàn và phong trào TTN nhiệm kỳ
2002 - 2007” (2006 - Đào Ngọc Dung làm chủ nhiệm)... Đồng thời, năm
2004, Ban Tổ chức Trung ương Đoàn đã tổ chức Hội thảo: “Công tác cán bộ
đoàn trong thời kỳ mới”. Hội thảo đã đánh giá thực trạng công tác cán bộ
đoàn trong thời gian qua từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở, đồng thời, đưa ra
các giải pháp để đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đoàn trong giai
đoạn hiện nay.
Nhìn chung, các đề tài nghiên cứu khoa học và hội thảo nêu trên, mặc dù
đã đề cấp đến hầu như tất cả các lĩnh vực của công tác Đoàn, phong trào TTN


12
và đội ngũ cán bộ đoàn nói chung nhưng lại chưa có điều kiện đề cập một
cách sâu sắc đến đội ngũ cán bộ đoàn cấp cơ sở xã, phường, thị trấn.
Ngoài ra, trên các báo, tạp chí của Đảng, của Đoàn nhiều tác giả khi đề
cập đến thực trạng công tác Đoàn thanh niên hiện nay, đôi khi đã đề xuất một
số giải pháp chung để nâng cao chất lượng cán bộ đoàn. Tuy nhiên, những
giải pháp này thường mang tính lý luận chung chung, đơn lẻ hoặc sơ bộ.
Nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc thực trạng công tác cán bộ đoàn ở cơ
sở và đề xuất một hệ thống giải pháp phù hợp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ
đoàn ở cơ sở đáp ứng những đòi hỏi của công tác Đoàn ở cơ sở trong điều
kiện hiện nay là một vấn đề cho đến nay chưa có công trình nào thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở
(xã, phường, thị trấn) thời gian vừa qua, luận văn đề xuất một số giải pháp
chủ yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở đáp ứng đòi hỏi công tác
Đoàn và phong trào TTN trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần thực hiện các
nhiệm vụ sau:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về tổ chức Đoàn cơ sở, đội ngũ
cán bộ đoàn cơ sở và nêu được những định hướng đổi mới hoạt động của tổ
chức Đoàn cơ sở trong tình hình hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở (xã, phường,
thị trấn) và rút ra được một số bài học kinh nghiệm từ thực trạng đội ngũ cán
bộ đoàn cơ sở thời gian qua.
- Dự báo tình hình công tác Đoàn và phong trào TTN ở cấp cơ sở và nêu
rõ một số mục tiêu, phương hướng, yêu cầu, giải pháp xây dựng đội ngũ cán
bộ đoàn cơ sở xã, phường, thị trấn thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ cán bộ làm công tác Đoàn ở cơ sở.


13
- Phạm vi nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở ở xã,
phường, thị trấn, trong đó tập trung sâu vào đội ngũ Bí thư đoàn xã, phường,
thị trấn.
- Địa bàn nghiên cứu: Khảo sát nghiên cứu xã, phường, thị trấn trên phạm
vi cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về Đoàn thanh niên,
công tác Đoàn thanh niên và người cán bộ đoàn.
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp: lôgic và lịch sử, quy nạp
và diễn dịch, trừu tượng và cụ thể; phân tích và tổng hợp các tư liệu, các báo
cáo, các kết quả nghiên cứu về công tác cán bộ đoàn nói chung và công tác
cán bộ đoàn cơ sở xã, phường, thị trấn nói riêng; điều tra xã hội học bằng
bảng hỏi đối với các tỉnh, thành Đoàn trong toàn quốc.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thực trạng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở, chỉ ra một số

nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó và nêu được một số bài học kinh nghiệm.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn
cơ sở đáp ứng yêu cầu mới của công tác Đoàn và phong trào TTN hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn hy vọng góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về
công tác cán bộ đoàn cơ sở và xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở trong giai
đoạn hiện nay.
- Luận văn mong muốn góp phần thiết thực lý giải những hạn chế của
công tác cán bộ đoàn cơ sở thời gian qua và các giải pháp đề xuất được áp
dụng trong thực tiễn công tác cán bộ đoàn.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo hữu ích cho những người làm
công tác cán bộ đoàn, những người nghiên cứu, giảng dạy về công tác Đoàn.


14
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 3 chương với 11 tiết.


15

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ TRONG ĐIỀU KIỆN ĐỔI MỚI HIỆN NAY
1.1. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ sở
1.1.1. Vị trí, vai trò Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ sở
Suốt chặng đường 78 năm Đoàn TNCS Hồ Chí Minh từ khi thành lập
đến nay (26/3/1931 - 26/3/2009), đã trải qua nhiều lần đổi tên cho phù hợp
với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Dưới sự

lãnh đạo, rèn luyện của Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ, Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh đã trưởng thành cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là đội
dự bị tin cậy của Đảng, đội quân xung kích cách mạng của tuổi trẻ trên mặt
trận xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là một tổ chức trong hệ thống chính trị, hoạt
động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật của Nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam. Trong hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đoàn là một
thành viên bình đẳng với các thành viên khác, giữ vai trò nòng cốt trong Hội
Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam, phối hợp với các
thành viên khác trong công tác thanh niên, phát huy hiệu quả chức năng của
mình trong sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, một liên minh chính trị rộng lớn, tập hợp phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đoàn phối hợp và
thống nhất hành động với các tổ chức thành viên khác trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, góp phần thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, vì sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn là đội dự bị tin cậy, người kế
tục trung thành sự nghiệp cách mạng đi theo lý tưởng của Đảng, phấn đấu vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.


16
Đối với Nhà nước, Đoàn là chỗ dựa vững chắc trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đoàn tham gia quản lý Nhà nước,
quản lý xã hội, giáo dục, rèn luyện thanh niên trở thành những công dân tốt,
gương mẫu, những công dân có ích cho xã hội.
Đối với các tổ chức xã hội của thanh niên và phong trào TTN, Đoàn
giữ vai trò nòng cốt, hạt nhân chính trị nhằm tạo môi trường tốt để giáo dục,
rèn luyện đoàn viên, thanh niên. Đoàn là người đại diện, bảo vệ lợi ích hợp

pháp, chính đáng của tuổi trẻ.
Đối với Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn giữ vai trò là
người phụ trách, dìu dắt giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Đoàn chủ động phối
hợp với các ban, ngành, đoàn thể chăm sóc, giáo dục, bảo vệ thiếu niên, nhi
đồng.
Đối với các ban, ngành, các đoàn thể, các tổ chức xã hội khác, Đoàn
phối hợp, liên kết trên cơ sở chức năng của mình, dựa trên các quan điểm cơ
bản của Đảng về công tác thanh niên nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp đồng bộ
trong công tác Đoàn và phong trào TTN.
Chức năng cơ bản của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh được thể hiện rõ
trong Điều lệ Đoàn: "Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng
Cộng sản Việt Nam, là lực lượng xung kích cách mạng, là trường học XHCN
của thanh niên, đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng
của tuổi trẻ; phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh; là lực lượng
nòng cốt chính trị trong phong trào thanh niên và trong các tổ chức thanh niên
Việt Nam" [24, 10].
Để thực hiện tốt vị trí, vai trò chức năng của mình, Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh thiết lập hệ thống 4 cấp thống nhất từ Trung ương xuống cơ sở: Trung
ương Đoàn; tỉnh, thành Đoàn và tương đương; huyện, quận, thị, thành Đoàn
và tương đương; Đoàn cơ sở và tương đương.
Trong hệ thống tổ chức của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Đoàn cơ sở giữ
vai trò đặc biệt trong công tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ đoàn kết, tập hợp


17
giáo dục thanh niên. Đoàn cơ sở có nhiệm vụ nắm vững đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nghị quyết của Đoàn và những đặc
điểm của địa phương để tổ chức các phong trào hành động cách mạng của
Đoàn; tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương, đơn vị, đồng thời Đoàn cơ sở còn hướng dẫn các chi đoàn tổ

chức các hoạt động, sinh hoạt của chi đoàn trên địa bàn.
Đoàn cơ sở xã, phường, thị trấn được thành lập tương ứng theo địa bàn
hành chính cấp xã, hiện nay có 1.225 Đoàn phường, 591 Đoàn thị trấn, 9.082
Đoàn xã đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ xã, phường, thị trấn và
huyện, quận, thị, thành Đoàn. Các đầu mối trực thuộc của Đoàn cơ sở là các
chi đoàn trên địa bàn dân cư như: chi đoàn thôn, xóm, bản, khóm, ấp, khu
phố; chi đoàn giáo viên, chi đoàn dân quân tự vệ, chi đoàn các đơn vị hành
chính sự nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ…. đóng trên địa bàn.
Ban Chấp hành Đoàn cơ sở do Đại hội Đoàn cơ sở bầu ra với số lượng từ 9
đến 15 người với nhiệm kỳ là 5 năm, trong đó Bí thư đoàn xã, phường, thị
trấn theo Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003 (hiện nay
là Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực từ 01/01/2010) là cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn còn lại từ uỷ viên Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Phó Bí
thư Đoàn cơ sở là cán bộ đoàn kiêm nhiệm.
Đoàn cơ sở là nền tảng của Đoàn, là cầu nối giữa tổ chức Đoàn với
thanh niên, là nơi tổ chức thực hiện mọi chủ trương, nghị quyết của Đoàn, là
môi trường để đoàn viên, thanh niên rèn luyện cống hiện và trưởng thành.
Đoàn cơ sở giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị ở cơ sở, là thành
viên trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Đoàn cơ sở vững mạnh góp phần xây
dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh.
Đoàn cơ sở có vai trò quan trọng trong việc cụ thể hoá chủ trương, nghị
quyết của Đoàn cấp trên cho phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội của địa phương, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, đặc điểm tình
hình của địa phương, với nhu cầu, nguyện vọng, tâm lý, lợi ích hợp pháp của


18
các đối tượng thanh niên trên địa bàn, từ đó tổ chức các hoạt động của Đoàn
và phong trào TTN đạt hiệu quả ở mức độ cao nhất. Đồng thời với việc trực
tiếp tổ chức các hoạt động, Đoàn cơ sở còn hướng dẫn cho các chi đoàn tổ

chức các buổi hoạt động, sinh hoạt theo các chủ đề, chủ điểm, những hoạt
động vào những ngày lễ lớn của đất nước và của địa phương.
1.1.2. Nhiệm vụ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp cơ sở
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh ngày càng thể hiện rõ vai trò trong việc động viên đoàn viên, thanh niên
phát huy tính xung kích, sáng tạo đi đầu trong phát triển kinh tế - xã hội; tập
hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp thanh niên, phát động các phong trào hành
động cách mạng. Với vị trí quan trọng của mình, Đoàn cơ sở đảm nhận những
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: Giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho đoàn viên, thanh niên, đoàn
kết thanh niên xung quanh Đảng thực hiện mục tiêu lý tưởng cách mạng của
Đảng, lôi cuốn tất cả đoàn viên, thanh niên vào các hoạt động, kích thích tính
tích cực chính trị - xã hội trong mỗi đoàn viên. Tạo cơ hội cho họ cùng nhau
phát huy tiềm năng trí tuệ, sức lực để hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Nhiệm
vụ này đã được khẳng định rõ trong Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh “tổ
chức các hoạt động, tạo môi trường giáo dục đoàn viên, thanh thiếu nhi nhằm
góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, quốc
phòng an ninh của địa phương, đơn vị” [24, 39].
Thứ hai: Đại diện chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của cán bộ, đoàn
viên, thanh niên. Nhiệm vụ này thể hiện sự gắn bó giữa người đoàn viên,
thanh niên với tổ chức Đoàn. Đoàn cơ sở tạo mọi điều kiện tối thiểu, từng
bước đáp ứng nhu cầu chính đáng cho đoàn viên, giúp đoàn viên thực hiện tốt
quyền và nghĩa vụ đoàn viên, đảm bảo sự bình đẳng, công bằng trong học tập,
lao động, công tác trước pháp luật và công luận. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa
các lợi ích trong hoạt động, việc làm và đời sống sinh hoạt hàng ngày của
thanh niên. Đoàn cơ sở có nhiệm vụ khuyến khích, bảo vệ những mặt tốt của


19
đoàn viên, thanh niên, giúp họ nhanh chóng trưởng thành về mọi mặt; đồng

thời, đấu tranh phòng chống và loại trừ những mặt tiêu cực, các tệ nạn xã hội
góp phần bảo vệ nhân cách, sự phát triển về thể chất và tinh thần của đoàn
viên, thanh niên, kiên quyết đấu tranh chống những hành vi vi phạm đến lợi
ích chính đáng của đoàn viên, thanh niên, mở rộng dân chủ, tạo khối đoàn kết
thống nhất, làm cho đoàn viên, thanh niên thực sự gắn bó với tổ chức Đoàn và
có trách nhiệm xây dựng Đoàn cơ sở vững mạnh, làm nòng cốt tích cực trong
công tác đoàn kết tập hợp thanh niên.
Bản chất của nhiệm vụ này chính là tạo mọi điều kiện cho đoàn viên,
thanh niên phấn đấu, cống hiến và trưởng thành. Muốn thực hiện được nhiệm
vụ đó, Đoàn cơ sở phải thông qua nhiều phương thức khác nhau góp phần giải
quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích chính đáng của đoàn viên, thanh
niên như: giải quyết việc làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống, đáp ứng thiết
thực các yêu cầu về học tập, lao động, sinh hoạt văn hoá, du lịch, thể dục, thể
thao, xây dựng hạnh phúc gia đình cho thanh niên; bồi dưỡng tài năng trẻ;
giao việc cho thanh niên...
Tuy nhiên, Đoàn cơ sở sẽ không thực hiện tốt nhiệm này một cách có
hiệu quả nếu như các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương không quan
tâm và không có những chủ trương, chính sách hợp lý. Cần nhấn mạnh thêm
rằng với nhiệm vụ của mình, Đoàn cơ sở có thể huy động, tổ chức thanh niên
tham gia tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, từ đó tạo
điều kiện cho đoàn viên, thanh niên từng bước thoả mãn nhu cầu, lợi ích
chính đáng của mình, cả về vật chất và tinh thần.
Thứ ba: Đoàn cơ sở có nhiệm vụ phối hợp với chính quyền, các đoàn
thể và các tổ chức kinh tế - xã hội làm tốt công tác thanh niên, tích cực chăm
lo xây dựng Đoàn, xây dựng các Hội của thanh niên và phụ trách Đội Thiếu
niên tiền phong Hồ Chí Minh, tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng và
chính quyền nhân dân.


20

Công tác thanh niên không chỉ là nhiệm vụ của một tổ chức, một lực
lượng xã hội, mà còn là sự phối hợp đồng bộ của toàn xã hội. Trong thực tế
không ít người quan niệm rằng: công tác thanh niên là của Đảng, của Đoàn
thanh niên, do vậy những yếu kém, hạn chế của thanh niên là do lỗi của Đoàn
thanh niên. Suy nghĩa như thế là đơn giản, phiến diện một chiều, là thiếu trách
nhiệm, tự tách mình ra khỏi sự nghiệp giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ. Xuất phát
từ đó các cấp bộ Đoàn nói chung, Đoàn cơ sở nói riêng có nhiệm vụ kết hợp
với chính quyền, các đoàn thể và các tổ chức kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo
của cấp uỷ Đảng nhằm tạo sức mạnh tổng hợp trong công tác thanh niên.
Tranh thủ mọi nguồn lực, phát huy nội lực từ phía cán bộ, đoàn viên, thanh
niên nâng cao chất lượng Đoàn cơ sở và phát huy vai trò của các Hội thanh
niên trong công tác đoàn kết tập hợp thanh niên, tích cực tham gia xây dựng
Đảng và chính quyền. Từ đó, Đoàn cơ sở sẽ tạo cơ hội và môi trường tốt cho
đoàn viên, thanh niên nâng cao trình độ về mọi mặt.
1.1.3. Nội dung, phương thức hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh cấp cơ sở
Đoàn cơ sở căn cứ vào nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị
(thường được xác định trong Nghị quyết Đảng bộ, chủ trương của chính
quyền xã, phường, thị trấn), căn cứ vào chủ trương, Nghị quyết của Đoàn cấp
trên (Quận, huyện, thị, thành đoàn), căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội nhiệm
kỳ Đoàn cơ sở và nhu cầu nguyện vọng chính đáng của đoàn viên, thanh niên
mà xác định nội dung, phương thức hoạt động cho phù hợp với cơ sở, với đơn
vị mình.
Trong điều kiện hiện nay, Đoàn cơ sở xã, phường, thị trấn đang triển
khai rộng rãi phong trào “ Năm xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ
tổ quốc”, “Bốn đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” mà Đại hội
toàn quốc Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ IX phát động; đồng thời, phải
lựa chọn các hình thức, biện pháp tổ chức hoạt động đạt hiệu quả cao nhất. Rõ
ràng là đối với mỗi đối tượng thanh niên (thanh niên nông thôn, thanh niên đô



21
thị), trên địa bàn khác nhau (xã, phường, thị trấn) thì nội dung, phương thức
hoạt động là khác nhau. Tuy nhiên khái quát lại, nội dung, phương thức hoạt
động của Đoàn cơ sở có thể tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau đây:
1.1.3.1. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn của Đoàn cơ sở
Công tác chỉ đạo, hướng dẫn của Đoàn cơ sở được thể hiện ở chỗ, trên
cơ sở chủ trương, nghị quyết của quận, huyện, thị, thành Đoàn và nhiệm vụ
chính trị của cấp uỷ, chính quyền địa phương, Đoàn cơ sở hướng dẫn các chi
đoàn tổ chức thực hiện các nhiệm vụ công tác Đoàn và phong trào TTN phù
hợp với thực tế của địa phương, phù hợp với đặc điểm các đối tượng TTN.
Để công tác chỉ đạo của Đoàn cơ sở có hiệu quả cần xem xét các yếu tố
ảnh hưởng, từ đó có biện pháp tác động cho phù hợp. Có rất nhiều yếu tố,
nhưng từ thực tiễn của công tác Đoàn cho thấy có 4 yếu tố cơ bản quyết định
trực tiếp đến sự thành công trong công tác chỉ đạo. Các yếu tố này có mối
quan hệ tác động qua lại với nhau, cần được và vận dụng một cách tổng hợp
trong quá trình thực hiện nội dung, phương thức hoạt động của Đoàn. Các yếu
tố ảnh hưởng cơ bản đó là:
- Chủ trương, nghị quyết đề ra đúng đắn, đáp ứng đúng nhu cầu,
nguyện vọng, lợi ích chính đáng của cán bộ, đoàn viên, thanh niên. Đây là yếu
tố quyết định trực tiếp đến sự thành công của công tác chỉ đạo. Vì vậy, việc
làm đầu tiên và quan trọng nhất của Đoàn cơ sở là phải đề ra được những chủ
trương, nghị quyết đúng đắn, phù hợp.
- Cán bộ đoàn cơ sở là người trực tiếp triển khai chủ trương, đường lối,
xây dựng kế hoạch, hướng dẫn các chi đoàn tổ chức thực hiện sáng tạo, có
hiệu quả. Đó là người phải có lòng nhiệt tình say mê với công việc, có phẩm
chất tốt, có năng lực vững vàng, có nghiệp vụ, kỹ năng công tác thanh niên,
có uy tín sâu rộng trong phong trào TTN; là người nắm vững và hiểu sâu sắc
chủ trương nghị quyết và biết vận dụng năng động, sáng tạo, linh hoạt trong
mọi hoàn cảnh, mọi tình huống sẽ dễ dàng được các chi đoàn chấp nhận và tổ

chức thực hiện.


22
Chủ trương, đường lối dù có đúng và sát thực tế đến mấy nhưng không
được triển khai tốt thì hiệu quả tác dụng sẽ kém, vì thế trình độ, năng lực của
cán bộ chỉ đạo là một trong những yếu tố cơ bản quyết định hiệu quả của công
tác chỉ đạo, bởi lẽ, xét cho đến cùng thì chủ trương, đường lối đúng đắn hay
không, có được thực hiện tốt hay không đều do yếu tố cán bộ quyết định.
- Ban Chấp hành chi đoàn là những người tiếp nhận các chủ trương,
nghị quyết, được hướng dẫn, được quán triệt, để từ đó chủ động tổ chức thực
hiện ở chi đoàn. Họ là những người trực tiếp thực hiện có hiệu quả hay không
những chủ trương, nghị quyết đã được ban hành. Nếu đội ngũ Uỷ viên Ban
Chấp hành chi đoàn kém nhiệt tình, thiếu chủ động, sáng tạo, chỉ trông chờ
vào cấp trên thì chủ trương, nghị quyết khó có thể thực hiện được.
- Cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí và sự quan tâm của các cấp uỷ
Đảng và chính quyền là điều kiện và môi trường quan trọng ảnh hưởng lớn
đến hiệu quả của công tác chỉ đạo. Để triển khai và tổ chức thực hiện tốt chủ
trương, nghị quyết đòi hỏi phải có cơ sở vật chất, phương tiện và kinh phí;
đồng thời, sự lãnh đạo sâu sát của Đảng uỷ và tạo điều kiện hỗ trợ giúp đỡ từ
chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể sẽ là môi trường, điều kiện tốt nhất cho
Đoàn cơ sở thực hiện tốt chức năng của mình. Yếu tố này vô cùng quan trọng
vì phương thức hoạt động của Đoàn mang tính đặc thù. Muốn tuyên truyền
giáo dục thanh niên nhất thiết phải phong phú về nội dung, hấp dẫn về hình
thức hoạt động. Thiếu cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí, công tác chỉ đạo
trở nên mệnh lệnh, hành chính, quan liêu và kém thuyết phục.
1.1.3.2. Công tác tổ chức thực hiện của Đoàn cơ sở
Bên cạnh công tác chỉ đạo, hướng dẫn của Đoàn cơ sở, Đoàn cơ sở còn
là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện chủ trương nghị quyết của Đoàn cấp trên và
của cấp mình, có thể tập trung vào những nội dung cơ bản sau đây:

- Công tác giáo dục của Đoàn bao gồm giáo dục chính trị, tư tưởng,
truyền thống, nếp sống văn hoá; giáo dục lòng yêu nước, ý thức công dân, đạo


23
đức cách mạng... cho đoàn viên, thanh niên, nhằm giáo dục họ trở thành
những người có ích trong xã hội.
- Các hoạt động của Đoàn bao gồm các phong trào hành động cách
mạng, các chương trình, dự án; các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể
thao, hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh; các hoạt động sáng tạo khoa học
- kỹ thuật, công nghệ, hoạt động chuyên môn... mà hiệu quả cần đạt được là
hoàn thành nhiệm vụ chính trị và tạo môi trường giáo dục, rèn luyện để đoàn
viên, thanh niên được rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Trong giai đoạn
hiện nay, toàn Đoàn đang tập trung triển khai thực hiện phong trào “Năm
xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tổ quốc”, “Bốn đồng hành với
thanh niên lập thân, lập nghiệp” do Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX đã
phát động.
- Các hoạt động xây dựng tổ chức Đoàn để Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
ngày càng vững mạnh, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, là tổ chức
cộng sản của những người trẻ tuổi, đồng thời tổ chức cho đoàn viên tham gia
xây dựng Đảng và bảo vệ chính quyền nhân dân.
- Các hoạt động phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và
bảo vệ, chăm sóc giáo dục thiếu niên nhi đồng, nhằm giáo dục, bồi dưỡng lực
lượng kế cận cho Đoàn.
Trong những hoàn cảnh cụ thể, trong từng thời điểm nhất định, có
những vấn đề quan trọng nổi lên hàng đầu thì nội dung, phương thức hoạt
động của Đoàn cơ sở cần tập trung hướng vào những vấn đề đó nhằm tháo gỡ
những khó khăn, giải quyết những vấn đề cấp bách do thực tế công tác Đoàn
và phong trào TTN ở cơ sở đặt ra.
1.2. Đoàn viên, thanh niên và đội ngũ cán bộ đoàn cấp cơ sở

1.2.1. Đoàn viên, thanh niên
Thanh niên Việt Nam tuổi từ 16 đến 30, tích cực học tập, lao động và
bảo vệ Tổ quốc, được tìm hiểu về Đoàn và tán thành Điều lệ Đoàn, tự nguyện


24
hoạt động trong một tổ chức cơ sở của Đoàn, có lý lịch rõ ràng đều được xét
kết nạp vào Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
“Đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là thanh niên Việt Nam tiên tiến,
phấn đấu vì lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc; có lối sống lành mạnh, cần kiệm,
trung thực; tích cực, gương mẫu trong học tập, lao động, hoạt động xã hội và
bảo vệ Tổ quốc, gắn bó mật thiết với thanh niên; chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật của Nhà nước và Điều lệ Đoàn” [24, 12].
1.2.1.1. Đoàn viên, thanh niên khu vực nông thôn
Về cơ cấu
Đoàn viên, thanh niên nông thôn có tỷ lệ cao trong tổng số thanh niên
cả nước, đồng thời là nguồn lực chính để phát triển kinh tế ở nông thôn và
thực hiện công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Trong những năm qua do tác động của quá trình đô thị hoá, công
nghiệp hoá mạnh mẽ làm cho dân số nông thôn và những người làm nông
nghiệp có xu hướng giảm dần, trong đó có lực lượng thanh niên. Theo kết quả
điều tra lao động và việc làm từ năm 2000 đến nay cho thấy, số thanh niên ở
nông thôn giảm từ 75,9% năm 2000 xuống còn 51,5% năm 2006.
Biến đổi dân số thanh niên nông thôn
80 75.9

70

70

60
50

51.5

40
30
20
10
0
2000

2003

2006

Nguồn: Tổng cục thống kê, Bộ LĐTB & XH điều tra Lao động và việc làm 2000 – 2006


25
Dân số thanh niên giảm nhanh ở các khu vực mới thành lập các khu đô
thị mới, sự chuyển dịch cơ cấu nặng về tính hình thức, chỉ có ý nghĩa cơ học.
(sau một đêm sáng ra một bộ phận thanh niên nông thôn đã trở thành thanh
niên đô thị, vì theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ địa phương họ đã
trở thành đô thị nhưng bản chất họ vẫn chưa có gì thay đổi).
Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ
Do quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp đã thay đổi nhanh chóng, nhiều vùng làm nông nghiệp trước đây
đã dần từng bước chuyển sang làm việc tại các cơ sở sản xuất, dịch vụ. CNH,
HĐH đã thúc đẩy đoàn viên, thanh niên nông thôn học tập văn hoá, chuyên

môn và nghiệp vụ. Trước yêu cầu thay đổi vật nuôi cây trồng, trước yêu cầu
đào tạo nghề cho thanh niên tại nơi khi thu hồi đất nông nghiệp buộc phải có
các dự án đào tạo nghề hoặc các chương trình xuất khẩu lao động... đã xuất
hiện ngày càng nhiều các dự án dạy nghề cho thanh niên nông thôn nhờ vậy
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của thanh niên nông thôn nhanh chóng được
nâng lên. Theo số liệu của cục điều tra lao động, việc làm năm 2002 có tới
87,63% thanh niên nông thôn không có chuyên môn kỹ thuật, đến năm 2006
số thanh niên nông thôn không có chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ giảm
xuống còn 71,59%. Đặc biệt số thanh niên nông thôn có trình độ trung học
chuyên nghiệp và cao đẳng, đại học trở lên tăng. Thí dụ từ cao đẳng, đại học
tăng từ 1,3% năm 2002 lên 2,73% năm 2006.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật

Năm 2002

Năm 2006

1. Chưa qua đào tạo

87,63

71,59

2. Công nhân kỹ thuật không bằng

3,55

19,15

3. Có chứng chỉ ngắn hạn


3,56

2,13

4. Có bằng chuyên môn dài hạn

1,49

1,25

5. Trung học chuyên nghiệp

1,76

3,15

6. Cao đẳng, đại học trở lên

1,3

2,73

100,00

100,00

Tổng số



26
Tình hình lao động và việc làm
Do chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng lao
động trong nông nghiệp và tăng dần lao động trong lĩnh vực công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ, nên những năm qua nghề nghiệp và việc
làm của thanh niên nông thôn có xu hướng biến đổi. Theo kết quả điều
tra lao động, việc làm năm 2006 cho thấy, hiện còn 64,17% thanh niên
nông thôn làm trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản; 21,25% làm trong lĩnh
vực công nghiệp, xây dựng và 14,59% làm việc trong lĩnh vực dịch vụ.
Tình hình dịch chuyển lao động ở nông thôn (không kể lúc nông nhàn)
đến làm ăn, sinh sống ở các khu công nghiệp, khu đô thị hoặc các địa
bàn dễ làm ăn sinh sống ngày một tăng, tạo ra dòng chuyển dịch dân cư
từ nông thôn đến các khu vực trên ngày càng nhiều. Theo kết quả điều
tra biến động dân cư toàn quốc năm 2005 cho thấy tỷ suất xuất cư cả
nước là 3,36%, trong đó có một số vùng có tỷ suất cao như Bắc Trung bộ
(4,64 o/oo), Tây Nguyên (4,87 o/oo ), Duyên hải Nam Trung bộ (4,56 o/oo ).
Sở dĩ có tình trạng trên là do thu nhập ở nông thôn thường thấp hơn các
khu vực khác; nông thôn thường xảy ra tình trạng thiếu việc làm. Số
thiếu việc làm nhiều là nhóm thanh niên 20 - 24 tuổi chiếm 40% tiếp đó
thuộc nhóm thanh niên mới lớn 15 - 19 tuổi (34%) sau cùng là nhóm
thanh niên 25 - 29 tuổi (26%). Theo đánh giá của các chuyên gia, sau khi
Việt Nam gia nhập WTO tình hình lao động, việc làm, thu nhập của
thanh niên nông thôn sẽ chịu nhiều áp lực nhất.
Tình hình tư tưởng, nhận thức chính trị
Kết quả điều tra về tình hình thanh niên trong tổng quan về thanh
niên của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cho thấy
26,7% số thanh niên nông thôn hoàn toàn lạc quan, phấn khởi trước
những biến đổi tình hình kinh tế, chính trị trong nước và thế giới, có
66,4% lạc quan, phấn khởi nhưng có nhiều băn khoăn lo lắng, chỉ có
6,7% bi quan, lo lắng. Những bi quan, lo lắng phần nhiều tập trung vào



27
tương lai không đảm bảo, phân hoá giàu nghèo tăng... Kết quả khảo sát
cũng cho thấy, ngày nay thanh niên nông thôn quan tâm nhiều vấn đề
trong đó có một số vấn đề nổi bật như: Việc làm nghề nghiệp (47,1%),
học tập (44,7%), đời sống kinh tế hàng ngày (41,5%). Cuộc nghiên cứu
này cũng chỉ ra rằng, có 18,3% thanh niên nông thôn được hỏi cho rằng
hoàn toàn hài lòng về cuộc sống hiện tại (mức chung là 14,7%), 14,5%
phần nhiều hài lòng và 17,5% hài lòng, bên cạnh đó có 18% chưa xác
định được tâm trạng còn 31,8% (gần 1/3) số thanh niên nông thôn được
hỏi cảm thấy chưa hoặc không hài lòng vì cuộc sống hiện nay của mình.
Những vấn đề chưa hoặc không hài lòng liên quan đến tệ nạn xã hội
nhiều, vấn đề nghề nghiệp, việc làm và thu nhập.
1.2.1.2. Đoàn viên, thanh niên khu vực đô thị
Về cơ cấu
Trong những năm gần đây do tốc độ đô thị hoá và CNH cao nên dân
cư đô thị ngày càng tăng nhanh. Thanh niên đô thị có những thế mạnh
hơn hẳn thanh niên nông thôn như trình độ học vấn, chuyên môn kỹ
thuật,... nên họ là lực lượng quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước. Theo kết quả điều tra lao động việc làm năm 2006 dân số thanh
niên đô thị là 11.520.342 người chiếm 48,5% tổng số thanh niên cả
nước. Hiện nay cùng với quá trình đô thị hoá, cơ cấu dân số thanh niên
đang dịch chuyển theo hướng tăng dần thanh niên đô thị và giảm dần
thanh niên nông thôn.
Về trình độ học vấn
Trình độ học vấn của thanh niên thành thị cao hơn trình độ học vấn
của thanh niên nông thôn. Theo kết quả điều tra lao động và việc làm
toàn quốc năm 2006, trình độ văn hoá phổ thông của thanh niên đô thị so
với trình độ văn hoá phổ thông chung của thanh niên như sau:



×