ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------
LÊ THỊ YẾN
VĂN HÓA ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC
GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO SINH VIÊN
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội - 2012
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------
LÊ THỊ YẾN
VĂN HÓA ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH VỚI VIỆC
GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO SINH VIÊN
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã Số: 60.31.27
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thúy Vân
Hà Nội - 2012
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................. 5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 7
3. Mục đích, nhiệm vụ .................................................................................. 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 11
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ............................ 12
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ...................................................................... 12
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 12
CHƢƠNG 1: VĂN HÓA ỨNG XỬ VÀ VĂN HÓA ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH .. 13
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về văn hóa ứng xử .................................... 13
1.2. Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh ............................................................... 31
CHƢƠNG 2: GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH CHO SINH
VIÊN HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN .................................. 66
2.1 Một số tiêu chí đánh giá văn hóa ứng xử của sinh viên Học viện Báo chí
và Tuyên truyền theo văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh ..................................... 66
2.2. Thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền... 70
2.3. Sự cần thiết phải giáo dục văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh cho sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền ............................................................... 90
2.4. Giải pháp giáo dục văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh cho sinh viên Học viện
Báo chí và Tuyên truyền............................................................................... 94
KẾT LUẬN ............................................................................................... 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 115
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam luôn là mối quan tâm
trong tư tưởng và hành động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Ngay từ rất sớm, Hồ
Chí Minh đã có tư duy hết sức tiến bộ và sâu sắc về nền văn hóa sẽ được xây
dựng ở Việt Nam ngay sau khi nước ta giành được độc lập. Trong thực tiễn
chỉ đạo xây dựng nền văn hóa mới, Người đặc biệt quan tâm tới việc xây
dựng con người mới, trong đó văn hóa ứng xử giữ một vị trí quan trọng. Bản
thân Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực trong việc thực hiện văn hóa
ứng xử. Trong những năm đổi mới, trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, cần phải đẩy mạnh và phát triển văn hóa. Nhiệm vụ xây dựng con người
mới do đó cũng được quán triệt sâu rộng trong toàn xã hội.
Với quá trình hội nhập toàn cầu, nền văn hóa Việt Nam được giao lưu
với nhiều nền văn hóa trên thế giới; Điều đó cho phép chúng ta bổ sung, làm
phong phú thêm nền văn hóa nước nhà, song, những yếu tố văn hóa “lai căng”
cũng có dịp bùng phát gây ảnh hưởng không nhỏ tới các tầng lớp nhân dân
đặc biệt là giới trẻ. Những năm gần đây, cùng với một số tác động tiêu cực
của nền kinh tế thị trường, một bộ phận không nhỏ đoàn viên, thanh niên
thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống, xuống cấp về văn hóa trong đó có
văn hóa ứng xử.
Để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, một yêu cầu
vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách đặt ra là giáo dục văn hóa ứng xử trong toàn
xã hội, mà trước hết là giới trẻ - Những người chủ tương lai của đất nước theo
tư tưởng và tấm gương đạo đức, văn hóa Hồ Chí Minh.
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là đơn vị trực thuộc Học viện Chính
trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
5
giảng viên lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ phóng viên báo
chí, biên tập viên xuất bản, cán bộ làm công tác tư tưởng, văn hóa và các khoa
học xã hội và nhân văn khác; là cơ sở nghiên cứu khoa học phục vụ mục tiêu
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và phục vụ cho việc hoạch
định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực tư tưởng, báo chí
và truyền thông. Với hơn 50 năm hình thành và phát triển, Học viện Báo chí
và Tuyên truyền có thể nói là một trong những cái nôi đào tạo cán bộ lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước ta, rất nhiều học viên sau khi ra trường đã nắm giữ
những vị trí quan trọng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, trong các cơ
quan Tư tưởng Văn hoá, cơ quan Báo chí, Xuất bản...
Với tư cách là cái nôi đào tạo đội ngũ cán bộ; tuyên truyền viên
tương lai của đất nước mà phần lớn sinh viên khi ra trường sẽ trở thành
những người trực tiếp thi hành đường lối chủ trương, chính sách của Đảng,
đem đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến gần dân hơn. Đội
ngũ này nếu không được đào tạo, rèn luyện tốt cả đức và tài trong nhà
trường thì khi ra trường sẽ khó lòng làm tốt được nhiệm vụ trong công tác
của mình. Nguy hại hơn, nếu họ suy thoái về đạo đức lối sống, có hành vi
không đẹp về văn hóa thì còn gây ảnh hưởng tới uy tín, thanh danh của
Đảng và sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Với chức năng, nhiệm vụ quan trọng đó, đặc biệt là liên quan đến đặc thù
ngành trong văn hóa giao tiếp, ứng xử, Nhà trường cũng như Ban chấp hành đoàn
Học viện đã có nhiều hoạt động quan tâm sâu sắc tới vấn đề giáo dục văn hóa nói
chung, văn hóa ứng xử của sinh viên nói riêng. Phong trào xây dựng văn hóa học
đường trong Nhà trường đã góp phần tích cực vào việc hình thành văn hóa ứng xử
của sinh viên Học viện theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc
tế, bên cạnh nhiều tấm gương sáng về đạo đức, văn hóa, sinh viên Học viện Báo
6
chí và Tuyên truyền vẫn còn những tồn tại về văn hóa ứng xử cần phải khắc
phục. Nhiều hành vi ứng xử văn hóa chưa đẹp, lời nói chưa hay còn tồn tại trong
sinh viên, sự tôn trọng, ý thức thể hiện những giá trị trong văn hóa ứng xử trong
quan hệ giữa các cá nhân trong cộng đồng không thực sự được sinh viên quan
tâm và thực hiện. Đặc biệt, những hình thức và nội dung văn hóa ứng xử cho
sinh viên trong Học viện cũng chưa thực sự mang lại hiệu quả cần thiết. Điều đó
dẫn đến môi trường văn hóa của sinh viên, đặc biệt là văn hóa ứng xử trong học
viện Báo chí và Tuyên truyền đang đặt ra những vấn đề bức thiết cần được nhận
thức đúng và tháo gỡ những bất cập, hạn chế nhằm tạo ra môi trường văn hóa
nói trên lành mạnh hơn nữa, đóng góp quan trọng cho quá trình phát triển của
học viện Báo chí và Tuyên truyền nói riêng và thế hệ trẻ nước ta nói chung.
Xuất phát từ những lí do đó, tôi chọn đề tài: “ Văn hóa ứng xử Hồ Chí
Minh với việc giáo dục văn hóa ứng xử cho sinh viên học viện Báo chí và
tuyên truyền” làm đề tài luận văn tốt nghiệp, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có nhiều công trình đề cập đến các
nội dung khác nhau, tùy ở góc độ tiếp cận. Có thể chia các công trình đó
thành những mảng lớn sau:
2.1. Những công trình, bài viết về văn hóa nói chung và văn hóa ứng
xử nói riêng
- Đỗ Huy, Vũ Khắc Liên (1993), Nhân cách văn hóa trong bảng giá trị
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Các tác giả tập trung làm rõ những đặc
điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu đạt cho những giá trị cơ bản trong bảng
giá trị Việt Nam và cũng góp phần vào việc hình thành nhân cách văn hóa, ứng
xử văn hóa của người Việt Nam. Đây là cơ sở để tạo nên nét đặc trưng của văn
hóa ứng xử ở người Việt.
- Thanh Lê (2000), văn hóa và lối sống, Nxb Thanh niên. Tác giả đã đề
cập gián tiếp văn hóa ứng xử bằng hai mục ở hai chương. Đó là những điều
7
bàn về lối sống, nếp sống, mức sống của người Việt Nam. Từ đó tác giả nêu
lên giá trị của văn hóa đối với lối sống hiện nay là ủng hộ cái đẹp, phê phán
cái xấu, hướng tới chân – thiện – mĩ.
- Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội. Tác giả đã xem xét văn hóa khởi đầu từ các điều kiện vật chất quy định
và định vị văn hóa Việt Nam, qua đó nhận thức được cái tinh thần là văn hóa
nhận thức và văn hóa tổ chức đời sống cộng đồng, để rồi cái tinh thần đó lại
tác động trở lại đời sống vật chất hình thành nên cách thức ứng xử giao lưu
với môi trường tự nhiên và xã hội.
- Nguyễn Viết Chức (chủ biên) (2002), văn hóa ứng xử của người Hà
Nội với môi trường thiên nhiên, Viện văn hóa và Nxb văn hóa - thông tin Hà
Nội. Các tác giả tập trung làm rõ mối quan hệ giữa môi trường thiên nhiên và
văn hóa ứng xử đối với môi trường thiên nhiên và người Hà Nội từ truyền
thống đến hiện đại. Trước thách thức của toàn cầu hóa, trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các tác giả đã đề xuất một số phương
hướng, quan điểm, giải pháp và điều kiện xây dựng văn hóa ứng xử của người
Hà Nội với môi trường thiên nhiên.
- Nguyễn Văn Lê (2005), Văn hóa đạo đức trong giao tiếp ứng xử xã
hội, Nxb Văn hóa – Thông tin. Tác giả đã nêu 2 chương về văn hóa ứng xử
cộng đồng và văn hóa ứng xử trong thương lượng – đàm phán. Qua đó, tác
giả lý giải và chỉ dẫn các tình huống cụ thể rồi đưa cách ứng xử cho phù hợp
với đối tượng và loại hình khác nhau.
- Lê Văn Quán (2007), văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt Nam,
Nxb văn hóa thông tin. Tác giả đã giành năm chương để bàn về văn hóa ứng xử
của người Việt Nam. Từ các nhân tố tạo nên các ứng xử, tác giả nêu lên các bình
diện và phương châm ứng xử của người Việt theo nhân cách chân, thiện, mĩ.
8
2.2. Những công trình, bài viết về văn hóa Hồ Chí Minh nói chung
và văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh nói riêng
- Võ Thị Hồng Loan (2003), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây
dựng văn hóa giao tiếp của người cán bộ lãnh đạo, quản lí ở nước ta hiện
nay”, Tạp chí khoa học xã hội, (3), tr.20- 28. Bài viết có 2 mục lớn và 4 mục
nhỏ. Từ khái niệm văn hóa và văn hóa giao tiếp, mối quan hệ giữa văn hóa
giao tiếp và văn hóa ứng xử, tác giả đã lí giải vì sao văn hóa ứng xử Hồ Chí
Minh có sức thuyết phục cao đến như vậy. Từ đó tác giả trình bày một số
nguyên tắc cơ bản trong văn hóa giao tiếp Hồ Chí Minh cần quán triệt.
- Nguyễn Xuân Thông (2004), “Những giá trị văn hóa Hồ Chí Minh”,
Tạp chí cộng sản, (1), tr. 40- 42. Bài viết nêu bật những giá trị văn hóa theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, qua đó tác giả đề cập đến văn hóa ứng xử của Người.
Văn hóa cách mạng của Người vừa có nội dung yêu nước, tiến bộ và nhân văn
cao đẹp; vừa thể hiện được chức năng nhận thức, giáo dục. Theo tác giả,
những giá trị văn hóa ứng xủa của Người là sự giản dị, gần gũi, khiêm tốn với
đồng bào, đồng chí, là sự thương yêu, quý trọng con người.
- Hoàng Chí Bảo (2005), “Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh – Giá trị và ý
nghĩa”, Tạp chí cộng sản, (11), tr. 31- 33. Trong bài viết này tác giả trình bày
thành 5 phần, trong đó phần 4 tác giả nêu lên quan điểm rất rõ ràng về văn
hóa ứng xử Hồ Chí Minh. Theo tác giả, văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh là
nguyên tắc ứng xử của Người, là văn hóa giáo dục, kết hợp giáo dục bằng lời
với thực hành bằng công việc thực tế và bằng sự nêu gương. Đặc biệt, văn hóa
ứng xử Hồ Chí Minh là văn hóa tự ứng xử.
- Đại học quốc gia Hà Nội (1998), tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. Bài viết của giáo sư Song
Thành: “ Hồ Chí Minh tượng trưng cao đẹp của bản sắc văn hóa Việt Nam”,
đã đề cập đến lối sống và cách ứng xử của Hồ Chủ tịch. Theo tác giả: Người
9
thật giản dị, vĩ đại và cũng cực kì lịch sự, thanh tao, cao quý trong cách ứng
xử với bạn bè quốc tế và với các cụ già, phụ nữ, thanh niên, nhi đồng. Phong
cách ứng xử Hồ Chí Minh là kết tinh cao đẹp của văn hóa ứng xử văn hóa
Việt Nam.
- Song Thành (1999), Hồ Chí Minh – Nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã nêu cụ thể, chi tiết về văn hóa ứng xử
Hồ Chí Minh thông qua chương X với nội dung: Văn hóa giao tiếp, ứng xử
Hồ Chí Minh. Theo tác giả: Văn hóa giao tiếp, ứng xử Hồ Chí Minh được
biểu hiện gồm: Khiêm tốn, nhã nhặn, lịch lãm; Chân tình, nồng hậu, tự nhiên;
linh hoạt, chủ động, biến hóa; uyển chuyển có lí, có tình; cảm hóa. Khoan
dung, đại lượng; nụ cười xóa nhòa mọi cách bức.
- Đặng Xuân Kì (chủ biên) (2004), phương pháp và phong cách Hồ Chí
Minh, Nxb Lý luận chính trị. Tác giả giành chương VI nói về phong cách ứng
xử văn hóa của Hồ Chí Minh. Qua đó, người đọc được cung cấp đầy đủ
những hành vi ứng xử của Người đối với mình, mọi người, bạn bè, đồng chí,
hay đối với kẻ thù đều rất văn hóa, rất nhân văn và tình người. Ngoài ra
phong cách ứng xử của Người còn được thể hiện ở sự gắn bó với thiên nhiên,
yêu thiên nhiên; với công việc, tận tụy, hăng say, nói ít làm nhiều. Công trình
đã nêu bật được những chuẩn mực về văn hóa ứng xử theo phong cách Hồ
Chí Minh.
- Trần Thái Bình (2007), Hồ Chí Minh – Sự hình thành nhân cách lớn,
Nxb trẻ. Phần 3 chương III tác giả bàn đến văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh. Tác
giả đã trình bày chi tiết cách ứng xử của Người thông qua các tình huống cụ
thể. Theo tác giả, ở Hồ Chí Minh có một phong cách ứng xử rất văn hóa. Chữ
văn hóa bao hàm rộng rãi tất cả những giá trị tinh thần quý báu của một nhân
cách lớn những giá trị nhân văn.
Những bài báo, tạp chí, các đề tài, công trình nghiên cứu khoa học, các
sách chuyên khảo nêu trên đã từng bước phân tích, đánh giá, làm sáng tỏ các
10
giá trị văn hóa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Các tác giả đã khái quát được những đặc điểm cơ bản trong văn hóa
ứng xử, giao tiếp của Hồ Chí Minh, những giá trị của đặc điểm này trong thực
tiễn và trong giáo dục văn hóa cho toàn xã hội nói chung và cho thế hệ trẻ nói
riêng. Các tác giả cũng đã dày công nghiên cứu để đưa ra những giải pháp xây
dựng, bồi dưỡng văn hóa cho toàn Đảng, toàn dân theo văn hóa Hồ Chí Minh.
Các công trình nêu trên là sự gợi ý, cung cấp một số cơ sở luận chứng, luận
cứ để hoàn thành việc nghiên cứu đề tài của luận văn.
Nhưng cho đến nay, chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu vấn đề
triển khai những giá trị tích cực trong văn hóa ứng xử của Hồ Chí Minh vào
việc giáo dục văn hóa ứng xử cho một đối tượng cụ thể là sinh viên học viện
Báo chí và Tuyên truyền. Đó là hướng nghiên cứu mà luận văn muốn tiếp cận
và triển khai nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ
- Mục đích:
Luận văn tập trung làm rõ những nội dung cơ bản về văn hóa ứng xử
Hồ Chí Minh và sự vận dụng vào việc giáo dục văn hóa ứng xử cho sinh viên
học viện Báo chí và Tuyên truyền.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ những nội dung cơ bản trong văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh.
+ Đánh giá thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên học viện Báo chí
và tuyên truyền.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm giáo dục văn hóa ứng xử cho sinh viên
học viện Báo chí và Tuyên truyền theo văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
11
Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh và vận dụng vào việc giáo dục văn hóa ứng
xử cho sinh viên.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Những tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa ứng xử và thực tiễn hoạt
động của Người.
+ Việc vận dụng văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh cho sinh viên Học viện
Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lí luận: dựa vào cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về văn hóa.
- Phương pháp: Lịch sử và lô gic, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực
tiễn, phân tích và tổng hợp, phỏng vấn sâu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Góp phần làm rõ hệ thống quan điểm và thực tiễn văn hóa ứng xử Hồ
Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp nhằm giáo dục, nâng cao văn hóa ứng xử cho
sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Ngoài ra, luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho phòng
công tác chính trị sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong công tác
giáo dục đạo đức, văn hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm 2 chương 6 tiết.
12
CHƢƠNG 1
VĂN HÓA ỨNG XỬ VÀ VĂN HÓA ỨNG XỬ HỒ CHÍ MINH
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về văn hóa ứng xử
1.1.1. Khái niệm văn hóa ứng xử
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa theo tiếng Latinh là “cultus” nghĩa là sự trồng trọt. Danh từ
“cultus” được hiểu theo hai nghĩa khác nhau “cultusagri” là trồng trọt ngoài
đồng (trồng cây) và “cultusannimi” là trồng tinh thần, trồng người.
Như vậy theo nghĩa gốc của từ “văn hóa” thì đó là làm cho sự vật, hiện
tượng sinh sôi, nảy nở, phát triển theo chiều hướng tốt đẹp.
Theo tiếng Hán “văn” là những cái tốt đẹp của cuộc sống đã được đúc
kết, “hóa” là đem cái đã được đúc kết ấy hóa thân trở lại cuộc sống, làm cho
cuộc sống tốt đẹp hơn. Theo cách hiểu khác văn hóa là lấy cái đẹp để giáo hóa
con người.
Thực chất, văn hóa là một lĩnh vực rộng bao gồm nhiều yếu tố liên quan
đến hoạt động của con người, chính vì vậy có rất nhiều cách hiểu và cách diễn
đạt khác nhau về văn hóa. Nhiều ngành khoa học đều lấy văn hóa làm đối tượng
nghiên cứu, mỗi nhà khoa học lại tiếp cận văn hóa trong một hoàn cảnh lịch sử
và ở những góc độ khác nhau. Trong luận văn này, tác giả chú ý tới một số khái
niệm văn hóa sau:
Năm 1871, Edward Burnett Tylor – một nhà dân tộc học, nhân chủng
học người Anh trong tác phẩm “Primitive culture” (Văn hóa nguyên thủy) đưa
ra định nghĩa đầu tiên về văn hóa: “Văn hóa… là phức thể bao gồm tri thức,
tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán cùng những khái niệm
và thói quen khác mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên
trong xã hội” [57, tr. 13].
13
F. Boas cho rằng: Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất
và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một
nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với
môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành
viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau.
Đây được xem là những quan niệm đầu tiên về văn hóa trên thế giới.
Trong đó, E. Tylor cho rằng văn hóa bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan
đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp
luật… quan niệm này đã nêu lên được rất nhiều lĩnh vực của văn hóa, tuy
nhiên nó mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê mọi lĩnh vực sáng tạo của con người;
còn F. Boas mới chỉ quan tâm tới những yếu tố góp phần quan trọng trong
việc hình thành văn hóa của con người đó là mối quan hệ giữa cá nhân, tập
thể và môi trường. Như vậy, cả hai quan niệm này chưa khái quát được đầy
đủ bản chất của khái niệm văn hóa.
Có quan niệm lại xem văn hóa như cơ sở định hướng cho thế ứng xử
tốt đẹp của cá nhân và cộng đồng dân tộc: “Văn hóa là sự hiểu biết … nhưng
chỉ riêng sự hiểu biết không thôi chưa làm nên văn hóa. Sự hiểu biết chỉ trở
thành văn hóa khi nó làm nền và định hướng cho thế ứng xử (thể hiện ở tâm
hồn, đạo lý, lối sống, hành vi…) của mỗi cộng đồng dân tộc và các thành viên
trong đó hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp đối với bản thân và trong quan hệ
đối với người, đối với sự vật và hiện tượng của môi trường xã hội và môi
trường tự nhiên xung quanh” [48, tr. 19- 20].
Trong những quan niệm về văn hóa nêu trên, mỗi quan niệm nhìn nhận
bản chất văn hóa ở một góc độ riêng, nhưng đều coi văn hóa là sản phẩm hoạt
động của con người thông qua quá trình tương tác giữa con người với tự
nhiên và với xã hội. Những sản phẩm đó luôn hướng con người tới chân,
thiện, mỹ; gắn bó chặt chẽ cuộc sống của con người.
14
UNESCO đã đưa ra một định nghĩa chính thức về văn hóa:
“Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt
của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ,
cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành
nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống ,mà dựa trên
đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình” [trích theo 70, tr. 12].
Trong “Mục đọc sách” của tập Nhật ký trong tù (1943), Hồ Chí Minh
đã sớm nêu lên một định nghĩa khá sâu sắc về văn hóa:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [35, tr. 431].
Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh con người sáng tạo ra văn
hóa là vì cuộc sống của mình; và chính sự sinh tồn trên trái đất cũng đòi hỏi
con người sáng tạo ra văn hóa. Điều đó chứng minh con người có khả năng
cải tạo thế giới chứ không chỉ dừng lại ở việc khám phá thế giới như quan
niệm của một số nhà triết học trước Mác.
Cả hai khái niệm văn hóa của UNESCO và Hồ Chí Minh đều xem xét
văn hóa như một hiện tượng xã hội bao trùm mọi mặt cuộc sống con người,
do con người và vì con người. Nói cách khác, cả hai khái niệm này đều thể
hiện bản chất của văn hóa đó là chủ nghĩa nhân văn.
Từ việc hệ thống hóa sơ bộ những cách tiếp cận khác nhau về văn hóa,
có thể suy rộng ra: Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do
15
con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Nó là: “Những
tri thức khoa học văn hóa, sự hiểu biết, trình độ học vấn, trình độ tiếp thu và
vận dụng những kiến thức khoa học. Hệ thống kiến thức được con người sáng
tạo và tiếp thu, tích lũy, bổ sung và luôn luôn đổi mới qua các thế hệ thông
qua lao động, sản xuất, đấu tranh giữa con người với tự nhiên và xã hội. Qua
đó con người tiếp xúc, giao tiếp với nhau, hình thành nên những tập tục,
những cách đối nhân xử thế nhất định. Sự hiểu biết được sử dụng làm nền
tảng và định hướng cho nếp sống, nếp suy nghĩ, đạo lý, tâm hồn và hoạt động
của mỗi dân tộc đạt tới chân, thiện, mỹ trong mối quan hệ giữa con người với
con người, giữa con người với môi trường xã hội và tự nhiên” [53, tr. 10].
Những giá trị đó được các thế hệ thừa nhận một cách tự nguyện, vận dụng vào
cuộc sống hàng ngày và được trao truyền từ đời này sang đời khác để tạo nên
những đặc trưng và bản sắc của từng dân tộc. Văn hóa là một phạm trù lịch
sử, nó được biến đổi theo thời gian và không gian, mang theo dấu ấn của thời
đại và quốc gia, dân tộc.
Cốt lõi của văn hóa đó là "giá trị”. Giá trị ở đây không phải là giá trị
kinh tế học hay giá trị trong toán học. Nhà triết học cổ điển Đức E. Kant
(1724 – 1804) quan niệm về giá trị như sau: “Vật nào có thể đem trao đổi
được đều có một giá trị, duy có một số vật không thể thay thế thì có một giá
trị. Thí dụ: chiếc đồng hồ có một giá trị, còn tình bạn, tình yêu, lòng yêu
nước… là những cái vô giá. Đó là những giá trị xã hội học” [trích theo 72, tr.
14]. Còn giá trị của văn hóa là giá trị xã hội. Giá trị xã hội được thực thi thông
qua hoạt động văn hóa của con người. Giá trị xã hội là cốt lõi của văn hóa,
văn hóa là sự phát triển bản chất người nên văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt
động nào của con người.
16
1.1.1.2. Khái niệm ứng xử
Ứng xử là một từ ghép gồm hai từ “ứng” và “xử”. Mà ứng và xử lại
bao gồm nhiều nghĩa khác nhau: ứng phó, ứng đáp, ứng đối, ứng biến và xử
sự, xử lý, xử trí, xử thế, hành xử…
Từ lâu vấn đề ứng xử của con người là một phạm trù được nhiều nhà
tâm lí học, xã hội học, sinh vật học quan tâm. Bởi con người muốn tồn tại,
trước hết phải dựa vào bản chất tự nhiên nhờ sự tiến hóa của thế giới vật chất,
vì thế nó cũng chịu sự chi phối của tự nhiên đồng thời tác động lại tự nhiên
nhờ những phản ứng của cơ thể. Những phản ứng đáp lại đối với tự nhiên
theo cách này hay cách khác có thể coi là ứng xử.
- Dưới góc độ sinh học: Các nhà khoa học cho rằng: ứng xử là toàn thể
phản ứng thích nghi có thể quan sát khách quan mà một cơ chế có một hệ
thống thần kinh thực hiện để đáp trả lại những sự kích thích…Điều đáng chú
ý là những phản ứng ấy, những ứng xử, xử lý để đáp ứng cơ chế kích thích,
tác động “được diễn ra theo cách tương đối ổn định” thông qua ngôn ngữ, cử
chỉ, điệu bộ, ...của đối tượng bị tác động.
- Dưới góc độ xã hội học: Ứng xử được hiểu là “cách hành động (và
nói) như thế nào đó của một vai trò này đối diện với một vai trò khác (tức một
cặp vai trò như vợ/ chồng, cha/ con, cấp trên/ cấp dưới…). Và đó là những
hành động hoặc gọi là phản ứng, theo một cách tương đối” [48, tr. 24].
- Dưới góc độ tâm lý học: Ứng xử được khai thác dưới khía cạnh những
quan hệ giao tiếp. Điều đó lí giải vì sao vấn đề ứng xử đã được nhiều người
sử dụng khái niệm kép: giao tiếp - ứng xử, trong các mối quan hệ xã hội giữa
con người với tự nhiên, con người với xã hội và con người với chính mình.
Ứng xử chủ động trong giao tiếp, không chủ động tạo ra hành động (vì
nó được coi là sự phản ứng của con người). Nhưng ứng xử lại chủ động trong
thái độ, phản ứng trước sự tác động của môi trường tự nhiên và môi trường xã
17
hội trong một tình huống cụ thể nào đó. Sự chủ động ứng xử càng cao thì
càng thể hiện bề dày kinh nghiệm, tri thức của chủ thể ứng xử.
Tác giả Ngô Công Hoàn đã nhận định rất hợp lý rằng: Khi sử dụng khái
niệm giao tiếp, là muốn định hướng vào mục tiêu công việc (nhằm vào đích
đặt trước), còn ứng xử muốn định hướng vào nội dung tâm lý, cái “bản chất
xã hội” của cá nhân, của hành vi giao tiếp.
- Từ những nội dung trên có thể rút ra những điểm cơ bản về ứng xử ở
người như sau:
Một là: Ứng xử là những phản ứng của con người đáp lại đối với tự
nhiên; là điều chủ thể cảm thấy, nhận thấy, hiểu mình đang đứng trước tình
huống nào để tổ chức hoạt động đáp trả lại tình huống đó.
Hai là: Trong ứng xử những suy nghĩ của chủ thể luôn được biểu hiện
ra bên ngoài thông qua hành động, cử chỉ, ngôn ngữ, sắc thái tình cảm… mà
đối tác và những người xung quanh có thể quan sát và nhận biết được.
Ba là: Ứng xử không diễn ra một cách tùy tiện mà thường tuân theo
khuôn mẫu nhất định nào đó.
Bốn là: Ứng xử thể hiện ở chỗ con người không chủ động trong giao
tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, có tính toán. Sự lựa chọn đó
có được dựa trên cơ sở tri thức, kinh nghiệm của mỗi cá nhân.
Xét trên bình diện nhân cách thì bản chất của ứng xử chính là những
đặc điểm tính cách của cá nhân được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ và
cách nói năng của cá nhân với những người xung quanh và yếu tố bên ngoài
tác động vào con người.
Như vậy ứng xử là phản ứng của con người trước sự tác động của người
khác hay môi trường tự nhiên trong một tình huống cụ thể nhất định. Ứng xử là
biểu hiện bản chất nhân cách của mỗi cá nhân thông qua ngôn từ, cử chỉ, thái
độ, phong thái, hành vi trước sự tác động của các yếu tố bên ngoài.
18
1.1.1.3. Khái niệm văn hóa ứng xử
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa mọi mặt đời
sống xã hội trong đó có toàn cầu hóa văn hóa đã làm cho môi trường văn hóa
được mở rộng. Nhờ đó, chủ thể văn hóa có thể tiếp cận và tiếp nhận các giá trị
văn hóa phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, điều đó cũng đòi hỏi chủ thể văn hóa
phải có một sự hiểu biết nhất định để nhận thức được giữa môi trường văn
hóa mênh mông ấy, đâu là giá trị văn hóa cần học hỏi, trau dồi, đâu là những
nguồn văn hóa lai căng cần phải đấu tranh gạt bỏ. Đó cũng là một trong
những ứng xử cần thiết của mỗi người trong bối cảnh xã hội hiện nay.
Văn hóa không chỉ là sự hiểu biết mà còn là sự làm đẹp cho đời bằng
sự hiểu biết. Không hiểu biết hay hiểu biết không đầy đủ thì không thể tạo ra
sản phẩm văn hóa có giá trị hoặc không thể hưởng thụ có chất lượng thành
tựu của văn hóa; và cũng khó có thể có hành vi ứng xử đạt đến tầm văn hóa.
Vậy văn hóa ứng xử là gì?
Trong công trình “cơ sở văn hóa Việt Nam”, tác giả Trần Ngọc Thêm
không trình bày một cách trực tiếp khái niệm văn hóa ứng xử nhưng ông đã
làm rõ được những nội hàm của khái niệm này. Theo tác giả, cộng đồng chủ
thể văn hóa tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường: Môi trường tự nhiên
(thiên nhiên, khí hậu…) và môi trường xã hội (các dân tộc, các quốc gia). Với
mỗi loại môi trường đều có thể có hai cách xử thế phù hợp với hai loại tác
động của chúng (tạo nên hai vi hệ): tận dụng môi trường (tác động tích cực)
và ứng phó với môi trường (tác động tiêu cực). Với môi trường tự nhiên, có
thể tận dụng để ăn, uống, tạo ra các vật dụng hàng ngày…; Đồng thời phải
ứng phó với thiên tai (trị thủy), với khoảng cách (giao thông), với khí hậu và
thời tiết (quần áo, nhà cửa…). Với môi trường xã hội, bằng quá trình giao lưu
và tiếp biến văn hóa, mỗi dân tộc đều cố gắng tận dụng những thành tựu của
các dân tộc lân bang để làm giàu thêm cho nền văn hóa của mình; đồng thời
lại phải lo ứng phó với họ trên các mặt trân quân sự, ngoại giao…
19
Như vậy, theo tác giả văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội có hai hàm nghĩa: tận dụng và ứng phó. Có thể coi đó là thái độ
ứng xử. Cách thể hiện thái độ này là giao lưu và tiếp biến văn hóa.
GS. TS Đỗ Long trong “ Tâm lý học với văn hóa ứng xử” cho rằng:
“Văn hóa ứng xử là hệ thống thái độ và hành vi được xác định để xử lý mối
quan hệ giữa người với người trên các căn cứ pháp lý và đạo lý nhằm thúc
đẩy nhanh sự phát triển của cộng đồng, của xã hội”. [31, tr. 73].
Lại có tác giả khái quát khái niệm văn hóa ứng xử như sau: văn hóa ứng
xử là thế ứng xử, là sự thể hiện triết lý sống, lối suy nghĩ, lối hành động của một
cộng đồng người trong việc ứng xử và giải quyết những mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, với xã hội, từ vi mô (gia đình) đến vĩ mô (nhân gian).
Trong công trình “Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường
thiên nhiên” do Nguyễn Viết Chức chủ biên thì cho rằng: Văn hóa ứng xử bao
gồm những cách thức quan hệ, thái độ và hành động của con người đối với
môi trường thiên nhiên, đối với xã hội và đối với người khác.
Điểm qua những khái niệm văn hóa ứng xử của các nhà nghiên cứu
trên đây có thể thấy rằng, ở Việt Nam khái niệm văn hóa ứng xử đã được bàn
đến khá cụ thể, chi tiết. Có thể hiểu một cách khái quát văn hóa ứng xử là
những nếp ứng xử, khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực ứng xử trong mối quan hệ
ứng xử giữa con người với các đối tượng khác nhau thể hiện qua ngôn ngữ,
hành vi, nếp sống, tâm sinh lý… trong quá trình phát triển và hoàn thiện đời
sống đã được tiêu chuẩn hóa, xã hội hóa, trở thành chuẩn mực của cá nhân,
nhóm xã hội, toàn bộ xã hội; phù hợp với đời sống xã hội, với đặc trưng bản
sắc của văn hóa một dân tộc, một quốc gia được cá nhân, nhóm xã hội, cộng
đồng, toàn bộ xã hội thừa nhận và làm theo [21, tr. 27]. Trên cơ sở đó, dưới
góc độ nghiên cứu của luận văn, tác giả xin làm rõ thêm một số vấn đề liên
quan đến nội hàm khái niệm văn hóa ứng xử như sau:
20
Nếu xem văn hóa ứng xử là một hoạt động thì đó là hành vi nhằm thực
hiện các khuôn mẫu mang tính lý tưởng kết tinh những giá trị và chuẩn mực
mà cá nhân và cộng đồng hướng tới. Văn hóa ứng xử là một phương diện để
thể hiện nhân cách và bản lĩnh của con người trong hoạt động thực tiễn gắn
với trình độ văn hóa.
Văn hóa ứng xử còn thể hiện rõ nét qua kỹ năng ứng xử. Kỹ năng ứng
xử không phải trên trời rơi xuống, cũng không phải do di truyền. Một người
muốn có được kỹ năng ứng xử đạt đến chuẩn mực văn hóa thì phải thông qua
quá trình học tập, rèn luyện kỹ năng ứng xử từ hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng
tư tưởng, đạo đức, lối sống có văn hóa.
Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết là ngôn ngữ của cử chỉ là phương tiện
thể hiện văn hóa của con người, nó phản ánh quá trình hoạt động tạo ra lối
suy nghĩ của con người. Ngôn ngữ gắn liền với học vấn và tính cách của con
người, nó cho phép chia sẻ xúc cảm, tình cảm, ý nghĩ, kinh nghiệm, khát
vọng, trí nhớ, nhu cầu, tư tưởng của con người. Vì vậy văn hóa ứng xử còn
thể hiện qua cách nói, viết của con người.
Ngoài hành vi, kỹ năng, ngôn ngữ, chữ viết thì thái độ ứng xử là một
vấn đề có tính chất định hướng cơ bản và thường xuyên cho văn hóa ứng xử
(thái độ lựa chọn các khuôn mẫu ứng xử, thái độ thể hiện kỹ năng ứng xử…).
Văn hóa ứng xử là một bộ phận cấu thành nên tổng thể văn hóa cho nên
nội hàm khái niệm này cũng rất rộng lớn. Vì vậy, để tìm hiểu, đánh giá được
văn hóa ứng xử của một cộng đồng người một cách đầy đủ, cần nhìn nhận văn
hóa ứng xử theo bốn chiều kích của con người: Chiều cao: quan hệ với tự
nhiên; chiều rộng – quan hệ giữa với xã hội; chiều sâu: quan hệ với chính
mình; chiều lịch sử: quan hệ với tổ tiên và con cháu mai sau. Ngoài ra, để tìm
hiểu văn hóa ứng xử của một cá nhân trong cộng đồng người cần nhìn nhận từ
bốn phương thức ứng xử: ứng xử giữa cá nhân đó với thiên nhiên, ứng xử
21
giữa cá nhân đó với người khác, ứng xử giữa cá nhân đó với chính mình (tự
ứng xử) và ứng xử của cá nhân đó với công việc.
Tóm lại : Văn hóa ứng xử là một bộ phận cấu thành của văn hóa. Đó
chính là hệ thống giá trị, chuẩn mực quy định phương thức ứng xử của mỗi
cá nhân trong cộng đồng.
Ở góc độ cá nhân, văn hóa ứng xử là thái độ, lời nói, hành vi của con
người trước sự tác động của con người hay các yếu tố khác thể hiện trình độ
văn hóa, sự hiểu biết, bản chất nhân cách của mỗi cá nhân trong các tình
huống giao tiếp nhất định.
Xét trên phạm vi rộng, văn hóa ứng xử của cộng đồng là tổng hòa
những khuôn mẫu ứng xử được lặp đi lặp lại, được đa số người trong cộng
đồng thừa nhận và thực hiện một cách thống nhất. Nó được trao truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Nó chịu sự chi phối của những điều kiện, môi
trường nhất định đặc biệt là điều kiện kinh tế - xã hội. Và khi những điều
kiện đó thay đổi thì nó cũng có sự điều chỉnh cần thiết cho phù hợp.
1.1.2. Văn hóa ứng xử dân tộc và nhân loại với việc hình thành văn
hóa ứng xử Hồ Chí Minh
1.1.2.1. Văn hóa ứng xử dân tộc với việc hình thành văn hóa ứng xử Hồ
Chí Minh
Văn hóa ứng xử là một bộ phận không thể tác rời của văn hóa nói
chung, do đó nó cũng mang những đặc trưng cơ bản của văn hóa nói chung
như tính biểu tượng, tính xã hội, tính tín hiệu, tính chuẩn mực, tính đánh giá,
tính sáng tạo, tính nhân văn đặc biệt là tính bản sắc và tính trường tồn. Điều
đó có nguồn gốc sâu xa hay cũng có thể nói là bị quy định trước tiên bởi điều
kiện của môi trường thiên nhiên. Vì vậy ở những vùng địa lý khác nhau thì có
đặc điểm ứng xử tiêu biểu riêng.
22
Việt Nam là một dân tộc nằm trong khu vực “văn hóa phương Đông”,
môi trường sống của cư dân nơi đây là xứ nóng sinh ra mưa nhiều (ẩm) tạo
nên những con sông lớn với những vùng đồng bằng trù phú. Do đó người dân
phương Đông sinh sống chủ yếu bằng nghệ trồng trọt. Từ đó hình thành nên
“loại hình văn hóa gốc nông nghiệp. Việt Nam nằm ở tận cùng phía đông nam
nên thuộc loại văn hóa gốc nông nghiệp điển hình” [63, tr. 22].
Đặc điểm địa lý quan trọng này có tác động không nhỏ đến việc hình
thành những đặc điểm cơ bản trong văn hóa ứng xử của dân tộc Việt Nam gồm:
Một là, văn hóa ứng xử của người Việt mang tính cộng đồng. Xuất phát
từ nền nông nghiệp lúa nước theo thời vụ, người dân đất Việt sống hài hòa,
gắn bó với nhau để nương tựa, giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong lao động, sản xuất
và sinh hoạt hàng ngày.
Tính cộng đồng trong xã hội người Việt tạo nên tư tưởng cộng đồng,
lấy tư tưởng cộng đồng là chuẩn mực cho sự ứng xử, con người không được
phép phát triển “cái tôi” cá nhân mà chỉ có “cái ta” công xã. Sống ở làng, xã
người ta biết rõ gốc tích, lai lịch của nhau. Vì vậy, cá nhân muốn tồn tại phải
biết lựa ý nhau mà sống, từ cách cư xử nhỏ nhất, lời ăn tiếng nói, cho đến
cách đi đứng, làm sao cho mọi người vừa lòng người : “ Ở sao cho vừa lòng
người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê”; phải sống theo những tập tục,
quy định của cộng đồng.
Với tập quán sinh sống và lao động trong phạm vi làng nên người Việt
có tính tự quản rất cao trong công việc, sinh hoạt và tổ chức xã hội. Đặc điểm
này đã cố kết những người dân lại với nhau tạo thành một cộng đồng nhỏ bền
vững trong cộng đồng lớn. Nhưng cũng vì thế, cuộc sống sau lũy tre làng
thường tồn tại một phương châm ứng xử: phép vua thua lệ làng, trống làng
nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ.
23
Xuyên suốt dòng chảy của thời gian, tính cộng đồng trong văn hóa ứng xử
của dân tộc Việt được vun đắp bởi những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
đó là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, đùm bọc thương yêu lẫn nhau,…
Trải qua hàng nghìn năm phong kiến Bắc thuộc, hàng trăm năm Pháp
thuộc và mấy thập niên chống đế quốc Mỹ xâm lược, không chỉ nhân dân Việt
Nam mà cả nhân dân thế giới đều nhận thấy chính sự cố kết của cộng đồng dân
tộc Việt Nam biểu hiện qua lòng yêu nước của nhân dân ta, qua tinh thần đoàn
kết, tương thân tương ái … đã tạo thành sức mạnh vô địch đưa dân tộc ta đi đến
thắng lợi cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã tổng kết đặc điểm ứng xử
cơ bản này của dân tộc Việt Nam trong bài viết về lòng yêu nước của dân tộc,
qua đó ta hiểu rằng, chính tính cộng đồng đã tạo nên “một làn sóng vô cùng to
lớn, mạnh mẽ, nhấn chìm mọi bè lũ cướp nước và bán nước”.
Bên cạnh đó, tính cộng đồng dưới hình thức công xã không chỉ giáo dục
mà còn quy định cách ứng xử cho các thành viên trong cộng đồng. Nó đòi hỏi
mỗi người phải có trách nhiệm với các thành viên khác trong một cộng đồng cụ
thể và vẫn là một chỗ dựa cho các cá nhân cả về vật chất lẫn tinh thần.
Là một người con của dân tộc Việt Nam, đặc điểm văn hóa này chi
phối không nhỏ tới cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Chính trách nhiệm với
cộng đồng dân tộc, đã thôi thúc cậu thanh niên 21 tuổi ra đi tìm đường cứu
nước. Và trên những chặng đường dài trong hành trình tìm ra ánh sáng cho
dân tộc, lòng yêu nước, nỗi trăn trở với nỗi đau của dân mình là động lực vô
cùng to lớn giúp Hồ Chí Minh vượt qua tất cả trở ngại để đạt được mục đích
của mình. Sau này khi đã trở thành lãnh tụ của cách mạng Việt Nam, trong
quá trình giao tiếp khi làm việc hay khi đi thực tế, thăm hỏi nhân dân, Người
vẫn luôn giữ thái độ tôn trọng ý kiến tập thể, tôn trọng cộng đồng, tôn trọng
những phong tục tập quán của từng địa phương nơi Người đến.
Hai là, người Việt Nam là lối ứng xử trọng tình nghĩa, hài hòa, linh hoạt .
24
Người Việt Nam ưa sống theo tình cảm, cảm tính. Có lẽ ở các nước
phương Tây, người ta sẽ khó có thể tìm thấy một cộng đồng người nào định
cư trên một địa bàn nhỏ mà có thể sống với nhau gần gũi, thân thiết, cởi mở
như anh em ruột thịt. Bởi ứng xử của người Việt từ xa xưa tới nay bị chi phối
bởi quan niệm: bán anh em xa mua làng giềng gần, hàng xóm tối lửa tắt đèn
có nhau, chính lối sống trọng tình làng nghĩa xóm đó giúp con người xích lại
gần nhau hơn và kết cấu cộng đồng thêm bền chặt. Đồng thời nó khiến cho
người Việt lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử: yêu nhau yêu cả đường đi,
ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng; yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau thì
quả bồ hòn cũng vuông, …
Nếu trong nếp nghĩ người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm trọng
nhưng vẫn thiên về âm hơn, thì trong cuộc sống, trong cư xử giữa người với
người, người Việt sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn: Một bồ cái
lý không bằng một tí cái tình. Chính vì vậy, đối với người Việt, nếu ai giúp
mình một chút thì nhớ ơn suốt đời, nếu ai dạy mình dù ít dù nhiều cũng đều
tôn làm thầy: Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy.
Điều này giúp ta dễ dàng lí giải vì sao trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc
tăng cường mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau giữa Việt Nam với các nước láng
giềng (Lào, Campuchia, Trung Quốc). Và một trong những nguyên tắc ứng
xử Bác đưa ra trong quá trình hợp tác quốc tế đó là đoàn kết trên cơ sở thống
nhất mục tiêu, lợi ích, có lý và có tình. Người cũng đã từng nhắc nhở cán bộ
ta và Người cũng chính là tấm gương sáng về vấn đề này khi nói:" hiểu chủ
nghĩa Mác – Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao
nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác
- Lênin được" [ 44, tr. 554].
Hồ Chí Minh cũng bị chi phối bởi lối sống hài hòa, linh hoạt của con
người Việt Nam. Hài hòa trong bản thân mỗi người để phòng bệnh, chữa
25
bệnh, sống lạc quan yêu đời. Với mỗi con người để có thể sống khỏe mạnh và
hạnh phúc cần có sự hài hòa giữa thể xác và tinh thần, nói cách khác là phải
có một cơ thể khỏe mạnh, đời sống vật chất đủ đầy và đời sống tinh thần
phong phú. Tuy nhiên, với lối ứng xử duy tình, người Việt ít coi trọng đời
sống vật chất mà chú trọng nhiều hơn tới đời sống tinh thần. Mặt khác, hài
hòa trong quan hệ với môi trường tự nhiên (ăn, mặc, ở… ). Triết lý sống hài
hòa với môi trường thiên nhiên còn thể hiện ở quan niệm Thiên - Địa - Nhân
hay thiên - nhân hợp nhất. Theo đó trời đất là thiên nhiên, là gốc của sự sống
của con người. Con người sống dựa vào trời đất, chết lại trở về với đất. Do
vậy, con người và thiên nhiên là một khối liên thông bền chặt; trong đó con
người phải hòa đồng với thiên nhiên.
Đặc điểm này góp phần không nhỏ làm nên lối ứng xử lạc quan, yêu
đời, yêu thiên nhiên của Hồ Chí Minh trong suốt quãng đời hoạt động cách
mạng. Đặc biệt trong thời gian bị tù đày ở nhà tù Tưởng Giới Thạch, Bác đã
từng ngân nga những câu thơ để tự an ủi mình “Vật chất tuy đau khổ, không
nao núng tinh thần” hay lạc quan với “Hết mưa là nắng hửng lên thôi, hết
khổ là vui vốn lẽ đời”, và bầu bạn cùng thiên nhiên khi “Người ngắm trăng
soi ngoài cửa sổ, trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” …
Không chỉ hài hòa với thiên nhiên, trong tự bản thân mỗi người mà
người Việt Nam còn sống rất hài hòa, linh hoạt trong quan hệ xã hội để sống
không mất lòng ai, chiến thắng nhưng không làm kẻ thù mất mặt … Điều này
được chứng minh rất rõ nét trong cách ứng xử của ông cha ta trong lịch sử.
với tấm gương của Lý Thường Kiệt, chính sách của Lê Lợi- Nguyễn Trãi.
Nối tiếp truyền thống ứng xử của các bậc anh hùng dân tộc, bằng tấm
lòng nhân đạo và tình yêu thương con người, Hồ Chí Minh, đã đánh thức
lương tri của 1.997 lính Pháp và lính lê dương thuộc nhiều quốc tịch khác
nhau đã chạy sang hàng ngũ Việt Minh, sát cánh cùng dân ta trong suốt cuộc
26