Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA NHTM NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.45 KB, 21 trang )

TỔNG QUAN VỀ CỔ PHẦN HÓA NHTM NHÀ NƯỚC
1.1 Ngân hàng thương mại Nhà nước và vai trò của nó đối với nền kinh
tế.
1.1.1 Khái niệm
Hiện nay, hệ thống NHTM quốc doanh gồm 5 Ngân hàng : Ngân hàng
Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Công
thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng nhà đồng bằng sông Cửu
Long. Trong quá trình hình thành và phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam các
NHTM quốc doanh luôn ở vị trí đi đầu, đóng vai trò quyết định .
Xuất phát từ chức năng của Ngân hàng có thể định nghĩa:
Ngân hàng là một loại định chế tài chính mà hoạt động thường xuyên là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
NHTM là loại hình Ngân hàng hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông qua
các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu.
Từ đó, NHTM Nhà nước là NHTM do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ
chức quản lý hoạt động kinh doanh, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã
hội của Nhà nước. Hoạt động của NHTM Nhà nước chịu sự điều chỉnh của luật
DN, luật DNNN, luật các tổ chức tín dụng.
Các NHTM Nhà nước chính là các DNNN quy mô lớn về vốn, về lao động,
hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính có giá trị gia tăng cao. Và không giống
những loại hình doanh nghiệp khác, sản phẩm của Ngân hàng chủ yếu là tiền, một
loại hàng hoá đặc biệt, đối tượng giao dịch là cộng đồng rộng lớn nên sự an toàn
của hệ thống Ngân hàng được đặt lên hàng đầu.
Hoạt động chính của NHTM nhà nước bao gồm có:
Nghiệp vụ tài sản nợ : Phản ánh hoạt động tạo lập nguồn vốn của Ngân
hàng. Nguồn vốn này bắt nguồn từ huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội : Vốn tiền
gửi như nhận tiền gửi không kì hạn, nhận tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm, vốn
đi vay như phát hành kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi, vay của NHNN, các Ngân hàng
và tổ chức tài chính khác…Vốn tự có gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ được trích từ
lợi nhuận ròng hàng năm bổ sung vào vốn tự có, và vốn coi như tự có (lợi nhuận
chưa chia,các quỹ khác chưa sử dụng)


Nghiệp vụ tài sản có: Phản ánh hoạt động sử dụng vốn của NHTM.Đặc điểm
của hoạt động này là phải an toàn và sinh lời. Nó là các hoạt động cho vay: chiết
khấu thương phiếu, cho vay ứng trước, factoring… Hoạt động đầu tư, dự trữ ngân
quỹ
Ngoài ra, hệ thống NHTM đang ngày càng mở rộng khả năng kinh doanh
của mình bằng cách cung cấp các dịch vụ tiện ích cho khách hàng.
1.1.2 Vai trò của Ngân hàng thương mại Nhà nước
Vì là NHTM do Nhà nước sở hữu nên cũng như các DNNN, các NHTM
Nhà nước cũng là công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng kinh tế và chức năng
xã hội của mình. Bởi vậy, bên cạnh các chức năng vốn có của một NHTM như
chức năng làm thủ quỹ xã hội, chức năng trung gian thanh toán, chức năng trung
gian tín dụng và chức năng tạo tiền, NHTM nhà nước còn có những chức năng, vai
trò quan trọng khác, khẳng định vị thế chủ đạo và những đóng góp lớn lao của nó
đối với nền kinh tế.
Thứ nhất, NHTM Nhà nước là công cụ trực tiếp chủ yếu để thực hiện chính
sách tiền tệ của NHNN. Để thực hiện chính sách tiền tệ, NHNN phải sử dụng các
công cụ để điều tiết lượng tiền trong lưu thông, nhằm đạt được các mục tiêu của
nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn các công cụ cuả
chính sách tiền tệ chỉ được thực thi có kết quả với sự hợp tác tích cực và có hiệu
quả của các NHTM mà chủ yếu là các NHTM Nhà nước với ưu thế hơn hẳn về thị
phần, uy tín. Khi NHNN muốn thực hiện chính sách tiền tệ sẽ phát tín hiệu tới các
NHTM bằng các công cụ như dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu,…Theo đó các
Ngân hàng sẽ thay đổi chính sách hoạt động cho phù hợp mà đi đầu là các NHTM
Nhà nước, sau đó sẽ chuyển tiếp tới toàn hệ thống Ngân hàng. Cũng thông qua
NHTM Nhà nước, NHNN phát hành thêm tiền vào lưu thông, thực hiện các chính
sách tín dụng, chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất của Ngân hàng để điều tiết các
hoạt động của nền kinh tế.Vì vậy, hoạt động của NHTM Nhà nước có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai, NHTM Nhà nước cung ứng vốn cho các dự án đầu tư đặc biệt là
những dự án đầu tư cần vốn lớn, dài hạn. Với ưu thế, uy tín hơn hẳn các tổ chức tài

chính khác như mạng lưới chi nhánh rộng, vốn lớn, không bị hạn chế giấy phép
hoạt động, thị phần huy động vốn của NHTM Nhà nước luôn chiếm hơn 70% tổng
nguồn vốn huy động. Vì nguồn vốn huy động lớn như thế, các NHTM Nhà nước là
đơn vị có khả năng lớn nhất trong việc cung ứng vốn cho dự án lớn, cho những
công trình phúc lợi lớn của Nhà nước như xây dựng các nhà máy, các chung cư,
cầu đường…góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, thông qua các chi nhánh, mạng lưới rộng khắp của NHTM Nhà
nước, Chính phủ có thể chuyển vốn đến những vùng khó khăn, những đối tượng
chính sách đang cần vốn.Từ đó,tạo khả năng phát triển cho những vùng, những
ngành không có điều kiện thuận lợi, không thu hút được đầu tư. Có như thế mới
thực hiện được chủ trương đồng đều trong cả nước, xoá bỏ khoảng cách giữa nông
thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng, người giàu và người nghèo.
Ở Việt Nam, hoạt động của NHTM Nhà nước đã đem đến cho sự nghiệp xây
dựng đất nước những thành công không thể phủ nhận. Những công trình giao
thông, điện, những công trình trọng điểm quốc gia được xây dựng từ phần lớn
nguồn vốn tín dụng của các Ngân hàng đang làm thay đổi diện mạo đất nước từng
ngày. Năm 2003, vốn đầu tư Nhà nước, trong đó phần lớn là tín dụng của NHTM
Nhà nước, chiếm tới 56,5% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Không chỉ cấp tín
dụng, các Ngân hàng còn tích cực trong các chương trình xoá đói giảm nghèo của
Nhà nước. Điển hình là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.Tại nhiều
vùng nông thôn, miền núi còn nghèo nàn khó khăn, các cán bộ tín dụng đến cấp
vốn và hướng dẫn nông dân làm giàu, thúc đẩy phát triển kinh tế ở các địa
phương.Các chương trình cho vay trả chậm nhà ở vùng ngập lũ ở đồng bằng sông
Cửu Long, cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường, cho vay giải quyết việc làm
học sinh, sinh viên…được thực hiện. Đó là những hoạt động vừa mang tính kinh tế
vừa mang tính xã hội rộng rãi. Theo quyết định số 131/2002/QĐ-TTG ngày
04/10/2002, Ngân hàng chính sách xã hội đã được thành lập để thực hiện vai trò xã
hội của nó là cho vay chính sách, tạo điều kiện để các NHTM Nhà nước chú trọng
vào hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, với hoạt động bản chất là cấp tín dụng trong
điều kiện nền kinh tế nước ta con chưa phát triển ,các NHTM Nhà nước vẫn có

những đóng góp nhất định đối với các chương trình xã hội như công tác xoá đói
giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Trong vai trò là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN, các NHTM
Nhà nước cũng đang hợp tác tích cực và có hiệu quả hơn trước kia. Sự phối hợp
chặt chẽ của các Ngân hàng đã nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ, góp phần
ổn định nền kinh tế vĩ mô từ đó thực hiện các mục tiêu về tăng trưởng, lạm phát mà
quốc hội đề ra .
1.2 Những vấn đề cơ bản về cổ phần hoá NHTM nhà nước
1.2.1 Khái niệm
1.2.1.1 Khái niệm chung
Cổ phần hoá là khái niệm đã có từ hàng trăm năm nay.Có thể hiểu đó là việc
chuyển đổi một doanh nghiệp thành công ty cổ phần tức là những doanh nghiệp mà
vốn điều lệ thuộc sở hữu của nhiều cổ đông, các cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân
và không hạn chế số lượng tối đa.
Trong nền kinh tế thị trường, công ty cổ phần là một mô hình tổ chức kinh tế phổ
biến bởi tính ưu việt của nó so với một số mô hình doanh nghiệp khác, thể hiện ở
hiệu quả hoạt động, sự năng động , khả năng tự điều tiết, tăng vốn cao, mối liên hệ
hữu cơ, bản chất với thị trường chứng khoán luôn chứa đựng yếu tố cạnh tranh,
thúc đẩy để phát triển. Bởi vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp được coi là “ con đẻ “
của nền kinh tế thị trường, đem lại nhiều thành công lớn trong quá trình xây dựng
và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của nhiều quốc gia trên thế giới.
Tại Việt Nam, hình thức cổ phần hoá được áp dụng đối với các DNNN và được coi
là lối ra phù hợp cho khu vực kinh tế nhà nước. Chủ trương cổ phần hoá DNNN
được đặt ra khi đất nước ta bước vào thời kì đổi mới theo Quyết định số 143/HĐ-
BT ngày 15/10/1990 của hội đồng bộ trưởng và thực hiện thí điểm từ năm 1992
theo quyết định số 202/HĐ-BT ngày 8/6/1992.
Theo luật DNNN, DNNN là doanh nghiệp do nhà nứơc sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối. Như vậy nói đến cổ phần hoá DNNN chính là
nói đến việc biến các DNNN từ có một chủ sở hữu là Nhà nước thành các doanh
ngiệp có nhiều chủ sở hữu, có nhiều cổ đông. Sở hữu đó có thể bao gồm cả pháp

nhân, cả thể nhân,người nước ngoài hay người lao động.
Việc hình thành DNNN ở mỗi nước trên thế giới là do điều kiện khách quan
của từng nước chi phối và quyết định. ở Việt Nam , trong nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung, DNNN là một công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý và điều hành vĩ
mô, thực hiện chức năng kinh tế và xã hội. Cũng vì thế, thời kì này, DNNN được
Nhà nước ưu đãi và có những trợ giúp nhất định. Bước sang nền kinh tế thị trường,
các DNNN phải chấp nhận hoà nhập vào thị trường cạnh tranh gay gắt với những
biến động khôn lường. Những ưu đãi trong cơ chế cũ thường không được tính toán
một cách chính xác, sự bao cấp của Nhà nước cũng có hạn với một số lượng
DNNN quá lớn, khiến cho nhiều DNNN làm ăn thua lỗ, ít hiệu quả và trở thành
gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Xuất phát từ thực tiễn đó, Đảng và Nhà nước
đã đưa ra chủ trương đổi mới, sáp nhập, hợp nhất, giải thể và cổ phần hoá các
DNNN . Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IX nêu rõ: “…Thực hiện chủ
trương cổ phần hoá những doang nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100%
vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả…Thực hiện việc giao bán, khoán cho thuê, các
doang nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá
sản những doanh nghiệp không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp
trên [190] ”.
Sau hơn mười ba năm thực hiện, cổ phần hoá DNNN đã đem lại những kết
quả khả quan, cho they sự chuyển biến tích cực so với trước khi chuyển đổi sở hữu
doanh nghiệp, thể hiện qua số liệu của một số doanh nghiệp được cổ phần hoá:
Vốn điều lệ tăng 50%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trước thuế tăng 137%, nộp
ngân sách tăng 45%, thu nhập người lao động tăng 63%.
1.2.1.2. Khái niệm cổ phần hoá NHTM nhà nước.
Giống như cổ phần hoá DNNN, cổ phần hoá NHTM Nhà nước là quá trình
chuyển hoá cơ cấu sở hữu tài sản và quyền chủ động điều hành hoạt động từ đơn
sở hữu là Nhà nước sang đa sở hữu. Trong quá trình đó, Nhà nước chuyển và góp
toàn bộ “ Cơ nghiệp “ của NHTM Nhà nước trước khi cổ phần hoá vào một cấu
trúc Ngân hàng mới với mục tiêu cần đạt được là quy mô vốn lớn hơn, công nghệ

hiện đại hơn, phương thức quản trị kinh doanh văn minh hơn, chất lượng sản phẩm
được dự báo cao hơn, sức cạnh tranh mạnh hơn, lợi nhuận ròng hàng năm lớn hơn,
tổng số thuế nộp cho ngân sách Nhà nước hàng năm nhiều hơn…và do đó danh
tiếng thương hiệu của Ngân hàng mới được duy trì và phát triển ở đẳng cấp cao
hơn. Như vậy đây chính là quá trình dịch chuyển các nhân tố cũ, đồng thời tạo sức
hút các nhân tố mới trở thành một cấu trúc Ngân hàng mới để cùng khai thác các
tiềm năng thị trường hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, mặc dù là một DNNN nhưng về bản chất NHTM Nhà nước là
một DNNN đặc biệt vậy nên việc cổ phần hoá NHTM Nhà nước không thể hoàn
toàn giống với cổ phần hoá DNNN.Việc phân biệt sự khác nhau này có vai trò
quan trọng đối với việc đề ra các giải pháp phù hợp với cổ phần hoá NHTM Nhà
nước.
Trước hết, sự khác nhau là vì giá trị tài sản của Ngân hàng rất lớn so với giá
trị doanh nghiệp, lại mang nhiều tính chất riêng biệt nên việc đánh giá tài sản của
Ngân hàng khi cổ phần hoá thường phức tạp, khó khăn hơn đánh giá tài sản doanh
nghiêp. Sự riêng biệt đó thể hiện ở :
Thứ nhất, phần lớn tài sản của Ngân hàng là các khoản tín dụng cho vay.
Các tài sản này không giống tài sản thông thường của doanh nghiệp vì nó phụ
thuộc rất lớn vào mức độ rủi ro, khả năng thanh khoản, mức sinh lời dự tính. Để
xác định được giá trị của chúng phải căn cứ vào các nhân tố đó.
Thứ hai, về phần tài sản bất động sản của ngân hàng, các TMNN đều có rất
nhiều chi nhánh, trụ sở phân bố nhiều nơi trong cả nước. Thêm vào đó là các tài
sản Ngân hàng thu được từ cầm cố, xiết nợ. So với doanh nghiệp, khối lượng tài
sản bất động sản của Ngân hàng lớn hơn rất nhiều vì vậy việc đánh giá giá trị loại
tài sản này của Ngân hàng chắc chắn sẽ không đơn giản hơn trong doanh nghiệp.
Thứ ba, về giá trị thương hiệu, tiềm năng phát triển, các NHTM Nhà nước
đều ra đời, tồn tại và phát triển từ khá lâu, có uy tín lớn, hoạt động có hiệu quả với
lượng khách hàng lớn là giá trị vô hình “khổng lồ” của các Ngân hàng.
Sự khác nhau thứ hai , là hoạt động Ngân hàng là hoạt động nhạy cảm và có
mối liên hệ mật thiết đôí với nền kinh tế. Bản thân các Ngân hàng cũng có sự phụ

thuộc lớn lẫn nhau chứ không tách riêng như đối với các DNNN. Chỉ cần sự biến
động trong một Ngân hàng cũng có thể dẫn sự xáo trộn trong hoạt động của cả hệ
thống và của nền kinh tế. Lịch sử đã chứng minh rằng sự thất bại của 10.000 ngân
hàng ở Mỹ vào giữa những năm 1930-1933 đã làm cho cuộc khủng hoảng trầm
trọng hơn và dai dẳng hơn. Gần đây cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á
cũng cho thấy nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng không phảI do áp lực tài
trợ cho những thiếu hụt về ngân sách như cuộc khủng hoảng ở châu Mỹ La tinh mà
chính là do những yếu kém của hệ thống ngân hàng. Điều này đòi hỏi cổ phần hoá
NHTM nhà nước phải hận trọng hơn nhiều so với cổ phần hoá doanh nghiệp.
Điều này đòi hỏi cổ phần hoá NHTM Nhà nước phải thận trọng hơn nhiều
so với cổ phần hoá doanh nghiệp.
1.2.2 Sự cần thiết phải cổ phần hoá NHTM nhà nước
Với những vai trò chức năng của mình hệ thống ngân hàng đóng vai trò như
mạch máu của nền kinh tế. Ngày nay sự vận động của kinh tế thế giới là kinh tế
hàng hoá với cơ chế thị trường không chỉ cạnh tranh trong nước mà cả quốc tế.
Việc Việt Nam thực hiện đổi mới mở cửa đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt
động của DNNN, chuyển DNNN thành doanh nghiệp độc lập tự chủ trong đó bao
gồm cả đổi mới cơ cấu hệ thống NHTM Nhà nước Việt Nam. Trước yêu cầu đó cổ
phần hoá được xem là biện pháp khả thi nhất được ví như một mô hình tối ưu, một
” sản phẩm văn minh” của nền kinh tế thị trường. Bởi vì cổ phần hoá sẽ giúp
NHTM Nhà nước giải quyết được những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, tăng vốn tự có để đáp ứng yêu cầu về tăng trưởng và an toàn
Về năng lực tài chính nói chung các NHTM nhà nước Việt Nam còn rất yếu
so với nhu cầu thực tiễn. Thiếu vốn tự có đang là một vấn đề bức xúc đối với
NHTM Nhà nước. Thực tế, trong số vốn tự có hiện nay của các ngân hàng thì trên
50% là vốn danh nghĩa, tức là được hình thành từ trái phiếu đặc biệt của Chính
phủ. Loại trái phiếu này chỉ biến thành vốn mỗi năm có 3% do cách trả lãi trái
phiếu đặc biệt của bộ tài chính và chỉ là giải pháp tình thế.
Để đạt được tỉ lệ an toàn vốn quốc tế tối thiểu là 8%, như dự kiến đến năm
2010, các NHTM quốc doanh cần 117.000 tỷ đồng. Với tình trạng ngân sách Nhà

nước như hiện nay (tổng thu ngân sách 150 nghìn tỷ đồng/ năm, lại phải phân bổ
cho nhiều mục tiêu quan trọng khác), thì đây là con số nằm ngoài khả năng của
ngân sách. Mặt khác, yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước cần phảI có một lượng vốn lớn. Vì vậy NHTM nhà nước cần có đủ tiềm lực

×