Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Lý luận chung về thanh toán quốc tế và quy trình thanh toán quốc tế tại các ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.97 KB, 4 trang )

Lý luận chung về thanh toán quốc tế và quy trình thanh
toán quốc tế tại các ngân hàng
I. Thanh toán quốc tế:
1. Khái niệm thanh toán quốc tế (TTQT) .
Theo định nghĩa của trang web bách khoa toàn thư Wikipedia, “thanh toán
quốc tế” có nghĩa là “một trong số các nghiệp vụ của ngân hàng trong việc thanh
toán giá trị của các lô hàng giữa bên mua và bên bán hàng thuộc lĩnh vực ngoại
thương”[10]. Đây là cách hiểu thông thường nhất của khái niệm TTQT, khi quan
hệ giao thương giữa bên mua và bên bán có yếu tố nước ngoài và ngân hàng đóng
vai trò trung gian trong thanh toán giữa hai bên. Tuy nhiên TTQT không đơn thuần
chỉ xảy ra giữa cá nhân hay tổ chức mà còn là giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Vì vậy một khái niệm mang tính vĩ mô được đưa ra trong Giáo trình Thanh Toán
Quốc Tế của trường Đại học Ngoại Thương như sau:
“Việc trao đổi các hoạt động kinh tế và thương mại giữa các quốc gia làm
phát sinh các khoản thu và chi bằng tiền của nước này đối với một nước khác trong
từng giao dịch hoặc trong từng định kỳ chi trả do hai nước quy định. Trong mối
quan hệ chi trả này, các quốc gia phải cùng nhau quy định những yếu tố cấu thành
cơ chế thanh toán giữa các quốc gia như quy định về chủ thể tham gia thanh toán,
lựa chọn tiền tệ, các công cụ và các phương thức đòi và hoặc chi trả tiền tệ. Tổng
hợp các yếu tố cấu thành cơ chế đó tạo thành thanh toán quốc tế giữa các quốc
gia”[1, tr.11]
Trong khuôn khổ phân tích quy trình thanh toán quốc tế của các ngân hàng,
khái niệm TTQT hiểu theo nghĩa hẹp được áp dụng cho toàn bài báo cáo.
2. Sơ lược hoạt động TTQT ở các ngân hàng Việt Nam hiện nay:
Tính đến thời điểm này, mặc dù chịu ảnh hưởng khá nhiều từ cuộc suy thoái
kinh tế toàn cầu cuối năm vừa qua, nhưng nước ta vẫn giữ được đà tăng trưởng và
gặt hái thành công đáng kể. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên 7,5%
trong nhiều năm cùng với hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và
thế giới đã đưa đến sự phát triển bùng nổ của hệ thống ngân hàng và thị trường
vốn. Hệ thống ngân hàng mở rộng – cả về số lượng ngân hàng lẫn các chi nhánh
trực thuộc – chính là tiền đề cho sự phát triển của hoạt động TTQT.


Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thanh toán trong nền kinh tế,
chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, thông tư và hành lang pháp lý hỗ trợ cho
các doanh nghiệp và ngân hàng. Trong số đó phải kể đến Nghị định 161/2006/NĐ-
CP quy định thanh toán bằng tiền mặt, Quyết định 291/2006/QĐ-TTg phê duyệt
Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến
năm 2020 [6]. Tỉ trọng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán ở các ngân hàng
đã giảm từ 20% năm 2004 đến 18% năm 2005, và đến cuối 2008 chỉ còn dưới
15%. Nhiều phương tiện thanh toán và dịch vụ thanh toán hiện đại đã ra đời trên cơ
sở ứng dụng công nghệ thông tin, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển dịch vụ thanh
toán. Giao dịch thanh toán chuyển dần từ phương thức thủ công (chứng từ giấy)
sang phương thức xử lý bán tự động sử dụng chứng từ điện tử. Từ 2002, ứng dụng
công nghệ và đầu tư trang thiết bị hạ tần về dịch vụ thanh toán qua ngân hàng phát
triển mạnh. Đến nay, 25 Ngân hàng Thương mại đã trang bị hơn 5.00 máy ATM
và trên 25.700 máy quét thẻ, mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ ngân hàng tăng nhanh
[7]. Bắt đầu cuối 2005, hoạt động thanh toán đã được đổi mới theo hướng tổ chức
thanh toán tập trung một tài khoản cho các Ngân hàng Thương mại tại Sở giao dịch
Ngân Hàng Nhà Nước, đầu tiên là các chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp Việt
Nam (Agri Bank), tiếp theo là một số chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
(BIDV) và gần đây là các chi nhánh Ngân hàng Công thương. Các ngân hàng góp
phần quan trọng mang lại nguồn doanh thu to lớn từ hoạt động thanh toán quốc tế,
dẫn đầu là Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank),với doanh số
22,8 tỷ USD, chiếm 27% thị phần cả nước. Tiếp theo là các ngân hàng BIDV,
Incombank, Sacombank, Đông Á, VPBank…
Những thành tựu trong hoạt động TTQT kể trên cho thấy bước phát triển
vượt bậc của các ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên không thể phủ nhận vẫn còn rất
nhiều vấn đề tồn tại, cả khách quan lẫn chủ quan đang tác động tiêu cực, làm hạn
chế sự phát triển của TTQT. Tính cạnh tranh trên thị trường dịch vụ vẫn còn ở mức
thô sơ và dưới mức tiềm năng. Một số ngân hàng gần đây đã đi tiên phong trong
phát triển thêm loại hình dịch vụ mới, như direct banking hoặc máy ATM di động (
NH Đông Á); đây có thể coi là cố gắng không nhỏ của ngân hàng nhằm đa dạng

hóa dịch vụ, đem đến cho khách hàng nhiều sự lựa chọn hơn. Sự bùng nổ các chi
nhánh ngân hàng, đi cùng với đó là những thay đổi về quản trị ngân hàng theo
thông lệ quốc tế đòi hỏi các ngân hàng phải đầu tư đồng bộ cả về cơ sở vật chất, hệ
thống công nghệ thông tin và cả nguồn nhân lực. Tuy nhiên các chi nhánh ngân
hàng ở vùng miền xa trung ương lại chưa đủ khả năng đáp ứng cả 3 yếu tố trên.
Nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán chưa được đào tạo chuyên sâu,
chưa đáp ứng đòi hỏi về tác phong phục vụ và đạo đức nghề nghiệp. Những
nguyên nhân chủ quan này kết hợp với nguyên nhân khách quan – cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu cuối năm vừa qua, đã làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển của hoạt động TTQT [8].
II. Quy trình thanh toán quốc tế tại các ngân hàng:
1. Khái niệm quy trình thanh toán quốc tế (QTTTQT) :
Từ hai khái niệm về thanh toán quốc tế ở trên, ta có thể hiểu QTTTQT chính
là các chương trình đã được quy định về nghiệp vụ thanh toán quốc tế, được Tổng
Giám Đốc ngân hàng ban hành nhằm thống nhất trình tự và thủ tục thực hiện
nghiệp vụ thanh toán quốc tế của ngân hàng đó, từ đó nâng cao chất lượng dịch vụ
và đảm bảo an toàn cho hệ thống [1, tr.11],[10].
2. Quy trình thanh toán quốc tế ở các ngân hàng Việt Nam hiện nay:
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế ở các ngân hàng Việt Nam hiện nay được quy
định bởi các quy trình sau:
- Quy trình phát hành thư tín dụng.
- Quy trình thanh toán thư tín dụng trả ngay (IB)
- Quy trình thanh toán thư tín dụng trả chậm (UB).
- Quy trình phát hành bảo lãnh nhận hàng theo thư tín dụng (SG).
- Quy trình ký hậu vận đơn khi chứng từ chưa về đến ngân hàng (AE)
- Quy trình nhờ thu đến (IC).
- Quy trình nhờ thu đi (OC).
- Quy trình chiết khấu bộ chứng từ (BP).
- Quy trình thông báo bảo lãnh (AG)
3. Hoàn thiện quy trình thanh toán quốc tế là gì.

Trước đây khi sự phát triển của Internet và công nghệ chưa bùng nổ, hầu hết các
giao dịch TTQT đều được thực hiện thông qua các chứng từ giấy. Liên lạc giữa
khách hàng và ngân hàng cũng chỉ giới hạn trong một số phương tiện như fax, điện
thông báo, điện thoại cố định. Đây là một hạn chế rất lớn. Các chứng từ giấy quá
nhiều khiến ngân hàng không những phải vất vả phân loại và lưu trữ, mà mỗi khi
có chỉnh sửa cũng tốn kém không ít thời gian và công sức. Hơn nữa quy trình
TTQT là một nghiệp vụ phức tạp đòi hỏi cán bộ thanh toán phải nắm vững chuyên
môn, do đó nếu có sai sót nào xảy ra, hậu quả đưa đến sẽ là giao dịch của khách
hàng thất bại còn ngân hàng mất uy tín. Vì vậy áp lực đặt ra cho các ngân hàng là
làm thế nào để chuẩn hóa quy trình, ban hành chuẩn mực và thứ tự các công việc
phải làm cho từng nghiệp vụ thanh toán, phân chia rõ ràng trách nhiệm của từng
cán bộ và phải đổi mới không ngừng, đơn giản hóa các bước thực hiện, nhằm giảm
thời gian thực hiện và nâng cao chất lượng giao dịch. Tất cả những công việc này
chính là nhằm hoàn thiện QTTTQT [4, tr. 12].

×