Tải bản đầy đủ (.pdf) (192 trang)

Những yếu tố tâm lý tác động đến việc sinh con thứ ba trở lên của người dân huyện Gia Lâm - Hà Nội : Luận văn ThS. Tâm lý học: 60 31 80

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.11 MB, 192 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----***-----

NGUYỄN THỊ NGỌC PHƯƠNG

NHỮNG YẾU TỐ TÂM LÝ
TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC SINH CON THỨ BA TRỞ LÊN
CỦA NGƯỜI DÂN HUYỆN GIA LÂM - HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----***-----

NGUYỄN THỊ NGỌC PHƯƠNG

NHỮNG YẾU TỐ TÂM LÝ
TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC SINH CON THỨ BA TRỞ LÊN
CỦA NGƯỜI DÂN HUYỆN GIA LÂM - HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Chuyên ngành : TÂM LÝ HỌC
Mã số
: 60.31.80

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. VŨ DŨNG



HÀ NỘI - 2009


MỤC LỤC
Ký hiệu các từ viết tắt
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
5. Phạm vi nghiên cứu
6. Giả thuyết khoa học
7. Phương pháp nghiên cứu
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới
1.1.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
1.2. Một số vấn đề lý luận cơ bản về các yếu tố tâm lý tác động đến việc
sinh con thứ ba trở lên
1.2.1. Nhận thức của người dân về vấn đề sinh con thứ ba trở lên
1.2.2. Thái độ của người dân về vấn đề sinh con thứ ba trở lên
1.2.3. Hành vi của người dân về vấn đề sinh con thứ ba trở lên
1.3. Một số vấn đề cơ bản của công tác Dân số- kế hoạch hoá gia đình
1.3.1. Chính sách dân số
1.3.2. Việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình
1.3.3. Quyền sinh sản của các cặp vợ chồng
1.3.4. Giá trị của con cái
CHƢƠNG 2

TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nghiên cứu lý luận
2.1.1. Mục đích của nghiên cứu lý luận
2.1.2. Nội dung của nghiên cứu lý luận
2.1.3. Phương pháp của nghiên cứu lý luận
2.2. Nghiên cứu thực tiễn

1
1
3
3
3
4
4
5
6
6
6
8
12
12
20
25
28
29
31
35
37
42
42

42
42
42
43


2.2.1. Mục đích của nghiên cứu thực tiễn
2.2.2. Nội dung của nghiên cứu thực tiễn
2.2.3. Phương pháp của nghiên cứu thực tiễn
2.3. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
2.4. Mẫu nghiên cứu
2.4.1. Chọn mẫu nghiên cứu
2.4.2. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
2.5. Tiến trình nghiên cứu thực tiễn
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng nhận thức của ngƣời dân huyện Gia Lâm về việc sinh
con thứ ba trở lên và tác động của nó đến việc sinh con thứ ba trở
lên
3.1.1. Thực trạng nhận thức của người dân huyện Gia Lâm về việc sinh con
thứ ba trở lên
3.1.2. Tác động của nhận thức đến việc sinh con thứ ba trở lên của người dân
huyện Gia Lâm
3.2. Thực trạng thái độ của ngƣời dân huyện Gia Lâm về việc sinh con
thứ ba trở lên và tác động của nó đến việc sinh con thứ ba trở lên
3.2.1. Thực trạng thái độ của người dân huyện Gia Lâm về việc sinh con thứ
ba trở lên
3.2.2. Tác động của thái độ đến việc sinh con thứ ba trở lên của người dân
huyện Gia Lâm
3.3. Hành vi sinh con thứ ba trở lên của ngƣời dân huyện Gia Lâm

3.3.1. Thực trạng sinh con thứ ba trở lên của người dân huyện Gia Lâm qua
số liệu thống kê
3.3.2. Một số hành vi cụ thể về việc sinh con thứ ba trở lên cuả người dân
huyện Gia Lâm
3.4. Các nghiên cứu trƣờng hợp điển hình
3.4.1. Gia đình anh Nguyễn H. H.
3.4.2. Gia đình chị Nguyễn T. L.
3.4.3. Gia đình anh Nguyễn V.T.

43
43
43
46
48
48
49
53
55
55

57
95
97
97
119
120
121
123
130
130

133
135


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
2. Kiến nghị
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO

138
138
139


KÝ HIỆU CÁC TỪ VIẾT TẮT

- ĐTB

: Điểm trung bình

- XH

: Xếp hạng

- TLH

: Tâm lý học

- KHHGĐ


: Kế hoạch hóa gia đình

- SCT3+

: Sinh con thứ ba trở lên

- DS

: Dân số

- BPTT

: Biện pháp tránh thai

- UBND

: Uỷ ban nhân dân

- SKSS

: Sức khoẻ sinh sản

- SS

: Sinh sản


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Dân số và sự gia tăng dân số từ lâu đã trở thành mối quan tâm của nhiều
quốc gia trên thế giới, đặc biệt đối với các nƣớc đang phát triển có tốc độ gia tăng
dân số nhanh. Các vấn đề thuộc về dân số luôn đi liền với các vấn đề về phát triển
bền vững của các quốc gia, tƣơng lai của dân tộc phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm
và sự nỗ lực của mỗi cá nhân. Việt Nam sẽ sống trong nghèo đói hay phồn vinh,
trong bất công hay bình đẳng, trong bệnh tật hay khỏe mạnh, trong môi trƣờng suy
thoái, cạn kiệt hay môi trƣờng mà con ngƣời và thiên nhiên đƣợc sống trong sự
phát triển bền vững… điều đó liên quan chặt chẽ đến sự quan tâm của chúng ta tới
công tác dân số/KHHGĐ. Nhƣ một nhà hiền triết đã từng nói “Trái đất này không
phải chúng ta thừa hưởng của các bậc tiền bối mà chúng ta mượn trước của thế hệ
mai sau, làm tốt công tác dân số có nghĩa là chúng ta để lại cho con cháu chúng ta
một trái đất xanh tươi, nơi mà con người và thiên nhiên phát triển một cách hài
hòa và cân đối”.
Việt Nam hiện là quốc gia đông dân thứ 13 trên thế giới với mật độ dân số
gấp 1,8 lần Trung Quốc, gấp 10 lần các nƣớc đang phát triển và gấp 5 lần mật độ
dân số thế giới. Theo Liên hợp quốc, để cuộc sống thuận lợi bình quân trên 1km2
chỉ nên có từ 35 – 40 ngƣời, mật độ dân số của Việt Nam là 254 ngƣời/km2, gấp 7
lần mật độ chuẩn, mật độ dân số của thành phố Hà Nội là 3.490 ngƣời/km2, gấp
100 lần mật độ chuẩn. Hàng năm Việt Nam có thêm 1,6 triệu trẻ em ra đời và mức
sinh vẫn tiếp tục tăng, số phụ nữ trong độ tuổi sinh sản cũng đang không ngừng
tăng lên. Chất lƣợng cuộc sống phụ thuộc trực tiếp vào những việc chúng ta làm
nhằm hạn chế sự gia tăng dân số. Ý thức đƣợc tầm quan trọng của công tác Dân số
- kế hoạch hóa gia đình nên ngay từ năm 1993 Đảng ta đã nhận định: Dân số là
một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, một trong những vấn


đề kinh tế - xã hội hàng đầu, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống…
(3).
Sinh con là điều mong muốn của tất cả các cặp vợ chồng, tuy nhiên việc
quyết định sinh bao nhiêu con đặc biệt việc sinh nhiều lại là vấn đề quan tâm của

toàn xã hội. Thời gian vừa qua, việc sinh con thứ ba trở lên đang trở thành vấn đề
“nóng” ở Việt Nam nói chung và huyện Gia Lâm nói riêng, nó không chỉ gây ảnh
hƣởng rất lớn đến hạnh phúc mỗi gia đình mà còn ảnh hƣởng đến chất lợng cuộc
sống của toàn xã hội.
Chúng tôi muốn nhấn mạnh đến vấn đề sinh con thứ ba trở lên bởi sự tăng
mạnh nhƣ vậy trong thời gian qua không chỉ gây ảnh hƣởng rất lớn đến tình hình
xã hội nói chung và chính sách sinh đẻ của Nhà nƣớc ta nói riêng mà còn gây nên
biến động mạnh về quy mô dân số và ảnh hƣởng chung đến tình hình kinh tế, văn
hoá xã hội. Từ năm 2003 đến nay, huyện Gia Lâm cũng không tránh khỏi tình
trạng chung của cả nƣớc, tỷ lệ sinh con thứ ba tăng đột biến và có nhiều trƣờng
hợp là cán bộ công chức, giáo viên, đảng viên. Vậy đâu là nguyên nhân thực sự của
thực trạng đó, Pháp lệnh dân số ra đời là nguyên nhân chính hay chỉ là cái cớ cho
sự gia tăng dân số đột biến này? Ngay cả các nhà Dân số học đã thừa nhận không
thể cắt nghĩa đƣợc các xu thế hiện đại của dân số chỉ bằng các nhân tố lịch sử, kinh
tế xã hội và nhân khẩu, hay coi đó là kết quả của của một chính sách dân số nào
đó, vấn đề gia tăng dân số nói chung và hành vi sinh đẻ nói riêng còn chịu tác động
trực tiếp của các yếu tố tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội.
Qua việc tìm hiểu các tài liệu và các nghiên cứu có liên quan, chúng ta thấy
những vấn đề các yếu tố tác động đến hành vi sinh đẻ, đến mức sinh và đến sự gia
tăng dân số đƣợc nghiên cứu khá nhiều ở nhiều góc độ: dân số học, xã hội học,
kinh tế học và tâm lý học…. Tuy nhiên, nghiên cứu về các yếu tố tâm lý tác động
đến việc ngƣời dân quyết định sinh con thứ ba trở lên thì chƣa có một nghiên cứu


cụ thể nào.
Xuất phát từ những vấn đề đã nêu ở trên, chúng tôi - những ngƣời nghiên
cứu khoa học rất tâm huyết với công tác Dân số/KHHGĐ- nhận thấy cần phải có
trách nhiệm góp phần vào việc nghiên cứu và kiến nghị tìm giải pháp để thực hiện
công tác Dân số/KHHGĐ tốt hơn. Trong giới hạn nghiên cứu, chúng tôi chọn đề
tài là “Những yếu tố tâm lý tác động đến việc sinh con thứ ba trở lên của người

dân huyện Gia Lâm”. Với mong muốn từ kết quả thu đƣợc không chỉ có ý nghĩa
khảo sát thực tiễn mà còn giúp những ngƣời làm công tác dân số – KHHGĐ nhận
thức đƣợc những yếu tố tâm lý thực sự tác động đến ngƣời dân trong việc quyết
định sinh thêm con thứ ba trở lên, từ đó đề ra đƣợc những kiến nghị về giải pháp
nhằm hạn chế đƣợc mức sinh con thứ ba trở lên cao trên cơ sở tác động tích cực
vào những yếu tố tâm lý đó. Ngoài ra, chúng tôi còn hy vọng qua nghiên cứu này
góp phần bổ xung cơ sở lý luận của một hƣớng nghiên cứu mới cho phân ngành
tâm lý học dân số.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những yếu tố tâm lý: nhận thức, thái độ và hành vi
sinh con thứ ba trở lên của ngƣời dân huyện Gia Lâm, đề tài đề xuất một số kiến
nghị và giải pháp nhằm góp phần làm giảm và hạn chế việc sinh con thứ ba trở lên
trên địa bàn huyện.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu đề tài đƣa ra những nhiệm vụ sau:
3.1. Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản (các khái niệm nhận thức,
thái độ, hành vi sinh sản, các yếu tố ảnh hƣởng đến việc sinh con thứ ba trở lên).
3.2. Tiến hành khảo sát thực tiễn để tìm hiểu về những yếu tố nhận thức, thái
độ tác động đến hành vi sinh con thứ ba trở lên của ngƣời dân huyện Gia Lâm.


3.3. Đề xuất một số kiến nghị góp phần vào việc xây dựng các giải pháp làm
giảm và hạn chế việc sinh con thứ ba trở lên.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những yếu tố tâm lý tác động đến hành vi sinh con thứ ba trở lên của ngƣời
dân huyện Gia Lâm (Hà Nội).
4.2. Khách thể nghiên cứu
- 150 ngƣời dân đã sinh con thứ ba trở lên, trong độ tuổi từ 25-49 tuổi trên
địa bàn huyện Gia Lâm .

- 10 cán bộ làm công tác DS – KHHGĐ cấp xã, cấp huyện, thành phố.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
5.1. Về nội dung nghiên cứu
Có nhiều yếu tố tâm lý tác động đến việc sinh con thứ ba trở lên nhƣng đề
tài nghiên cứu chỉ tập trung vào các yếu tố tâm lý nhƣ : Nhận thức, thái độ và hành
vi.
5.2. Về địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu tại các xã, thị trấn khác nhau trên địa bàn huyện Gia Lâm với
các đặc trƣng:
+ Thị trấn (đại diện là Thị trấn Trâu Quỳ).
+ Làng nghề (đại diện là xã Ninh Hiệp).
+ Làng thuần nông (đại diện là xã Dƣơng Quang).
5.3. Về khách thể nghiên cứu


150 ngƣời đã sinh con thứ ba trở lên trong độ tuổi sinh đẻ (từ 25 đến 49
tuổi).
6. Giả thuyết khoa học
6.1. Các yếu tố nhận thức, thái độ là những yếu tố tâm lý tác động đến hành
vi sinh con thứ ba trở lên của ngời dân huyện Gia Lâm tuy nhiên trên thực tế có
nhiều trƣờng hợp giữa nhận thức, thái độ và hành vi có khoảng cách nhất định
(nhận thức tốt, thái độ tốt nhƣng vẫn sinh con thứ ba trở lên).
6.2. Nếu chúng ta có những biện pháp tuyên truyền, giáo dục về nhận thức
cho ngƣời dân một cách phù hợp về những ảnh hƣởng tiêu cực của việc sinh con
thứ ba trở lên và có chế tài xử lý nghiêm khắc những trƣờng hợp vi phạm thì có thể
góp phần đáng kể vào việc thực hiện tốt chính sách dân số – kế hoạch hoá gia đình
trên địa bàn huyện.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu trên, chúng tôi đề ra các phƣơng pháp cụ
thể bao gồm:

7.1. Phƣơng pháp nghiên cứu văn bản tài liệu.
7.2. Phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi (anket).
7.3. Phƣơng pháp phỏng vấn sâu.
7.4. Phƣơng pháp xin ý kiến chuyên gia.
7.5. Phƣơng pháp nghiên cứu trƣờng hợp.
7.6. Phƣơng pháp thống kê toán học.


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Sinh đẻ là yếu tố chính cho sự thay thế sinh học để duy trì xã hội loài ngƣời.
Việc dân số đƣợc thay thế thông qua hành vi sinh đẻ là một quá trình phức tạp và
chịu ảnh hƣởng của rất nhiều yếu tố, do vậy có rất nhiều các nghiên cứu khoa học
ở các lĩnh vực khác nhau hƣớng đến việc lý giải tại sao con ngƣời không ngừng gia
tăng hành vi sinh đẻ hoặc vào sự hạn chế số lƣợng con cái, kể cả việc khƣớc từ
hoàn toàn việc sinh đẻ. Những kết luận mà các nhà khoa học đƣa ra là rất khác
nhau.
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới, nghiên cứu ảnh hƣởng của các yếu tố tác động đến hành vi
sinh sản và mức sinh đƣợc đề cập đến khá nhiều.
Nhà dân số học Ronald Freedman đã đƣa ra lƣợc đồ phân tích các yếu tố ảnh
hƣởng đến mức sinh, ông chia ra thành 3 nhóm yếu tố: yếu tố tác động trực tiếp
đến khả năng sinh đẻ (việc chấp nhận hay không chấp nhận sử dụng các biện pháp
tránh thai, tỷ lệ kết hôn…), yếu tố trung gian (chuẩn mực xã hội về quy mô gia
đình, số con mong muốn của các cặp vợ chồng, quan niệm xã hội về hôn nhân…),
yếu tố hạ tầng (mức độ chết, điều kiện kinh tế xã hội…).Theo ông, ba nhóm yếu tố
này có quan hệ mật thiết với nhau và thông thƣờng nhóm yếu tố hạ tầng tác động
lên nhóm yếu tố trung gian rồi cùng tác động lên nhóm yếu tố trực tiếp và cuối
cùng tác động đến mức sinh (18).

Dựa trên luận điểm của Kingsley Davis và Judith Blake, John Bongaarts đã
xác lập những yếu tố quyết định đến mức sinh nhƣ: Hiệu quả sử dụng các biện


pháp tránh thai, tỷ trọng ngƣời phụ nữ đã kết hôn, mức độ nạo hút thai tự nguyện,
mức độ vô sinh sau đẻ, khả năng sinh đẻ
Tuy nhiên, nhìn từ một góc độ khác, Kingsley Davis và Judith Blake qua các
nghiên cứu của mình lại đƣa ra mô hình có 11 biến trung gian (chia thành 3 nhóm)
ảnh hƣởng đến mức sinh. Các yếu tố xã hội sẽ thông qua các biến này để tác động
đến tất cả các giai đoạn của quá trình sinh sản: yếu tố ảnh hƣởng đến giao hợp, yếu
tố ảnh hƣởng đến thụ thai, yếu tố ảnh hƣởng đến thai nghén và sinh đẻ (18).
Với cách tiếp cận kinh tế, các nghiên cứu đều khẳng định mối tƣơng quan
nghịch giữa mức sống và sinh đẻ. Các nhà nhân khẩu học đã chứng minh rằng: đời
sống thấp thì mức sinh đẻ cao và ngƣợc lại. A. Smith cũng đƣa ra một kết luận
tƣơng tự “ Nghèo đói tạo khả năng cho sự sinh đẻ”. Còn K.Marx, khi nghiên cứu
mối quan hệ giữa thu nhập và sinh đẻ cũng khẳng định “số sinh tỷ lệ nghịch với
quy mô của cải mà người dân có” (7).
Theo quan điểm kinh tế đơn thuần, trẻ em không phải là một lĩnh vực đầu tƣ
tốt, chi phí nuôi dƣỡng cao mà lợi ích kinh tế thấp, trong đó xã hội ngày càng phát
triển thì lƣơng và trợ cấp cho ngƣời già đảm bảo và họ không cần đến con. Vì vậy,
David đã khẳng định “ Nếu kinh tế là quyết định thì có lẽ không có một ai trong xã
hội hiện đại sẽ có con nữa”. Tuy nhiên, với lý thuyết động lực kinh tế, Liebenstein
cho rằng “cha mẹ sẽ tính toán lợi ích và chi phí sinh con sau đó sẽ quyết định số
con mà họ muốn có” (38).
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên không thể cắt nghĩa đƣợc các xu thế hiện đại
của dân số chỉ bằng các nhân tố lịch sử, xã hội, kinh tế và nhân khẩu. Chủ thể và
khách thể của hành vi sinh đẻ là con ngƣời – một thực thể có ý thức và ý chí, có
những đặc điểm tâm lý nhất định, sống trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định
cho nên các nhân tố tâm lý nhƣ ý thức, nhu cầu, động cơ, thuộc tính nhân cách ảnh
hƣởng rất lớn đến hành vi sinh đẻ của con ngƣời.



J.T. Fawceet (1970) khi nghiên cứu các nhân tố ảnh hƣởng đến sinh đẻ đã
chỉ ra các giá trị và phong cách sống của cá nhân, các chức năng của trẻ con đối
với con ngƣời ở các trình độ khác nhau của xã hội, các động cơ sinh đẻ và nhu cầu
về con cái (24, tr 25).
K.Lungwitz (CHDC Đức) đã liệt kê các yếu tố ảnh hƣởng đến hành vi sinh
đẻ bao gồm: sự không thỏa mãn về các điều kiện nhà ở, phạm vi sinh hoạt làm tăng
thêm sự sử dụng một cách có ý thức các phƣơng pháp tránh thai, sự mâu thuẫn
giữa các quyền lợi xã hội và cá nhân về dân số những nguyên nhân làm giảm tỷ lệ
sinh đẻ không mang tính chất nhân khẩu (24, tr 21).
Nhà nghiên cứu ngƣời Hungari R.Andoocka coi giáo dục và tôn giáo thuộc
những hiện tƣợng tâm lý xã hội ảnh hƣởng đến tỷ lệ sinh đẻ (28).
E.Xabađi (Hungari) chỉ ra tâm thế sinh đẻ, các động cơ điều chỉnh tỷ lệ sinh
sản.
L.Pakhlơ chỉ ra sự phụ thuộc của các động cơ, của chính sách dân số vào
trạng thái của các quá trình dân số.
M.Masura đã coi sự ảnh hƣởng của các đặc điểm kinh tế xã hội và văn hoá
của cha mẹ đến tỷ lệ sinh đẻ, sự phức tạp của cấu trúc gia đình (24, tr 23).
1.1.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Vấn đề mức sinh, một trong những vấn đề cụ thể của công tác dân số, đóng
vai trò chính trong việc tăng hay giảm quy mô dân số, đã rất đƣợc chú ý trong thời
gian qua.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu liên quan đến mức sinh chủ yếu đƣợc tiếp cận
từ góc độ nhân khẩu học, xã hội học và kinh tế học.


Lý giải nguyên nhân làm dân số tăng nhanh, phân tích nhân khẩu học cho
biết: khi mức sinh giảm gần sát mục tiêu, tiệm cận mức sinh thay thể (2.1 con)
trong khi kinh tế phát triển, đời sống nhân dân đƣợc cải thiện thì nhu cầu sinh thêm

con có xu hƣớng tăng lên. Trong nghiên cứu của mình, Đinh Công Thoan đã đƣa ra
các nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó một trong những nguyên nhân
khách quan tác động mạnh đến việc sinh con thứ ba trở lên đó là nhận thức của
nhân dân chƣa thay đổi căn bản, tâm lý muốn đông con, phải có con trai còn nặng
nề (22).
Với đề tài “ Chuyển đổi mức sinh và yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giảm
sinh” các tác giả đã chỉ ra việc sinh con thứ ba trở lên chỉ phụ thuộc vào các đặc
trƣng về khu vực cƣ trú và trình độ học vấn của mẹ, các yếu tố về điều kiện kinh tế
gia đình và chƣơng trình kế hoạch hoá gia đình đều không có ảnh hƣởng (32).
Vận dụng các quan điểm của các nhà dân số học nƣớc ngoài vào tình hình cụ
thể của địa phƣơng, các tác giả Lê Phƣớc Lộc và Nguyễn Thị Minh Huệ đã có
những đánh giá sự tác động của các yếu tố tâm lý đến mức sinh qua đề tài “Các
yếu tố chủ yếu tác động lên mức sinh ở các xã nông thôn, vùng sâu, xa của tỉnh
Cần Thơ”. Tác giả của đề tài rất chú trọng đến phụ nữ và các đặc trƣng có ảnh
hƣởng đến tâm lý ngƣời phụ nữ trong việc quyết định sinh con, đó là: nghề nghiệp,
trình độ học vấn, tình hình tham gia sinh hoạt đoàn thể, tình hình đọc báo của phụ
nữ…(16).
Đề tài “Khảo sát đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh ở một số xã
thuộc vùng công giáo huyện Kim Sơn” của hai tác giả Lê Văn Định và Vũ Mạnh
Lợi, đã chỉ ra yếu tố kinh tế, văn hoá xã hội có ảnh hƣởng rõ rệt đến hành vi sinh
sản của ngƣời phụ nữ trong đó bao gồm: trình độ học vấn, mức sống, sự hiểu biết
về các biện pháp kế hoạch hoá gia đình, sự ràng buộc của giáo lý…(9).


Nhìn nhận một cách toàn diện hơn, các tác giả thực hiện đề tài “Đo lường
ảnh hưởng của các yếu tố tới mức sinh ở Việt Nam” (Nguyễn Văn Phẩm chủ
nhiệm) đã đề cập đến rất nhiều các yếu tố nhƣ: nhân khẩu học, yếu tố sinh học, yếu
tố kinh tế – xã hội, yếu tố tập quán – tâm lý xã hội tác động đến mức sinh. Tuy
nhiên, theo kết quả đánh giá thì các tác giả chƣa nêu nổi bật yếu tố tâm lý tác động
đến mức sinh nhƣ thế nào (18).

Trong khi có tác giả tiếp cận từ góc độ sinh thái và dân số học tộc ngƣời cho
rằng quan niệm về sinh đẻ, nhận thức về số con cần thiết phải có của ngƣời dân tộc
ít ngƣời chịu sự chi phối của văn hoá truyền thống, tâm lý tộc ngƣời, trình độ dân
trí, đời sống kinh tế xã hội (4) thì ngƣời khác lại xuất phát từ quan điểm xã hội học
và giới để chứng minh chất lƣợng dân số của phụ nữ nông thôn phụ thuộc vào
điều kiện sống của hộ gia đình, vị trí và sự bình đẳng của ngƣời phụ nữ trong gia
đình, tình trạng sức khoẻ và sức khoẻ sinh sản của họ (25).
Góp phần tìm hiểu vấn đề “Các yếu tố tác động đến mức sinh ở Việt Nam”
Trung tâm Nghiên cứu dƣ luận xã hội và Truyền thông dân số đã nhấn mạnh sự tác
động đến mức sinh từ nhiều góc độ: mô hình gia đình với tƣ duy hiện đại và truyền
thống, trình độ học vấn, quyền sinh sản của ngƣời phụ nữ, quan niệm về giá trị của
con cái, mức độ giàu nghèo… (19).
Tác giả Lan Thảo trong bài viết “Những ảnh hưởng của tâm lý truyền thống
đến công tác dân số” đã phân tích rõ sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị về
quan niệm số con và chất lƣợng con. Tâm lý truyền thống, quan niệm cũ còn in
đậm trong những ngƣời sống ở nông thôn do tập quán sống và môi trƣờng sống
(20).
Với một cách nhìn rất đầy đủ, nghiên cứu “Mức sinh và các yếu tố ảnh
hưởng đến mức sinh tỉnh Cao Bằng” của tác giả Dƣơng Thị Minh Hiền đề cập tới


4 nhóm yếu tố tác động: yếu tố sinh học, yếu tố tâm lý xã hội, yếu tố kinh tế và các
chính sách xã hội (14).
Theo quan điểm kinh tế, nghiên cứu của Phạm Đại Đồng về “Một số phân
tích về ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế đến mức sinh” đã chỉ rõ các nhân tố
kinh tế có tác động rất phức tạp đến mức sinh và sự phát triển kinh tế tỷ lệ nghịch
với mức sinh. Điều này rất thống nhất với các nghiên cứu của các nhà khoa học
trên thế giới nghiên cứu về lĩnh vực này(37, Tr.27).
Với đề tài “Sự tác động của Phong tục tập quán đến mức sinh và giải pháp
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác DS – KHHGĐ ở Hà Nội” Nguyễn

Quốc Triệu đã nghiên cứu một số phong tục tập quán cũ có tác động tiêu cực đến
mức sinh và công tác DS/KHHGĐ ở Hà Nội và đề xuất giải pháp nhằm khắc phục
những ảnh hƣởng của phong tục tập quán lạc hậu đó (27).
Tác giả Trần Trọng Thuỷ đã chỉ ra hành vi sinh đẻ đƣợc hiểu là một hệ
thống các hành động và thái độ có nguyên nhân xã hội và tâm lý, hƣớng vào việc
sinh đẻ con cái và sự hạn chế số lƣợng con cái kể cả việc khƣớc từ hoàn toàn việc
sinh đẻ (24). Các nhân tố quy định hành vi sinh đẻ bao gồm các nhân tố ở cấp độ
xã hội, các nhóm dân tộc, nghề nghiệp xã hội, lứa tuổi, giới tính, gia đình và cá
nhân.
Đáng lƣu ý, có tác giả tiếp cận vấn đề gia tăng dân số từ góc độ tâm lý học,
đã chỉ ra hàng loạt các yếu tố: Tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ, muốn có đủ trai đủ
gái, tâm lý thích đông con, đông con là nhiều của, nhiều phúc, nhiều lộc, đông con
là có nhiều sức lao động, về già có nơi nƣơng tựa, cần có con trai để có ngƣời nối
dõi tông đƣờng, thờ cúng tổ tiên… (21).
Nghiên cứu của Trần Anh Châu đề cập trực tiếp đến tác động của các yếu tố
tâm lý đến việc sinh con cho thấy áp lực xã hội (tác động chung), mong muốn của


ông bà, họ hàng, mong muốn của vợ chồng (tác động từ gia đình) và tác động của
yếu tố kinh tế có ảnh hƣởng tới số con trong gia đình (5).
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy rằng: vấn đề mức sinh và hành vi sinh đẻ
đƣợc quan tâm nghiên cứu rất nhiều và từ nhiều góc độ, tuy nhiên chủ yếu đƣợc
tiếp cận từ góc độ xã hội học và nhân khẩu học, còn khi xem xét dƣới góc độ tâm
lý học, các tác giả dƣờng nhƣ mới chỉ dừng lại ở việc nêu ra hiện trạng, chƣa có
đƣợc những phát hiện quan trọng liên quan đến việc gia tăng dân số đặc biệt là
hiện tƣợng sinh con thứ ba trở lên.
Từ việc tham khảo công trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau,
chúng tôi nhận thấy rằng chủ thể và khách thể của hành vi sinh đẻ là con ngƣời –
một thực thể có ý thức và ý chí, có những đặc điểm tâm lý nhất định, sống trong
một hình thái kinh tế xã hội nhất định cho nên hành vi sinh con thứ ba trở lên là

hành vi có ý thức và đƣợc hiểu là một hệ thống các hành động và thái độ có
nguyên nhân từ xã hội và gia đình hƣớng vào việc quyết định sinh con thứ ba trở
lên.
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÁC YẾU TỐ TÂM LÝ TÁC
ĐỘNG ĐẾN VIỆC SINH CON THỨ BA TRỞ LÊN
1.2.1. Nhận thức về vấn đề sinh con thứ ba trở lên
1.2.1.1. Khái niệm nhận thức về vấn đề sinh con thứ ba trở lên
a. Khái niệm nhận thức
Nhận thức là một trong 3 mặt cơ bản của đời sống tâm lý con ngƣời (nhận
thức, tình cảm, hành động). Nhận thức là sự phản ánh chủ quan về thế giới khách
quan trong đầu óc con ngƣời. Trong quá trình hoạt động, con ngƣời phải nhận
thức, hiểu biết, phản ánh hiện thực xung quanh và cả hiện thực bản thân mình, trên
cơ sở đó, con ngƣời tỏ thái độ, tình cảm và hành động.


Trong quá trình nhận thức thế giới, con ngƣời có thể đạt tới những mức độ
khác nhau từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Mức độ thấp là nhận thức cảm
tính, đó là cảm giác, tri giác, trong đó con ngƣời nhận biết đƣợc những cái bên ngoài
của sự vật hiện tƣợng đang trực tiếp tác động tới giác quan con ngƣời; mức độ cao là
nhận thức lý tính, còn gọi quá trình tƣ duy, con ngƣời nắm đƣợc cái bản chất bên
trong, những mối quan hệ có tính quy luật, bản chất của sự vật và hiện tƣợng. Các quá
trình này bổ sung cho nhau, chi phối lẫn nhau trong cùng một hoạt động nhận thức
thống nhất của con ngƣời (10, tr117).
Từ điển Tâm lý học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên định nghĩa: “nhận thức
là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy, nhận
biết và hiểu biết thế giới khách quan”(34, tr 256).
Quá trình ấy diễn ra ở các mức độ:
- Kinh nghiệm hàng ngày về sự vật, hiện tƣợng và ngƣời khác, mang tính tự
phát, thƣờng hỗn hợp với tình cảm, thành kiến, thiếu hệ thống.
- Khoa học các khái niệm đƣợc kiến tạo một cách chặt chẽ có hệ thống, với

ý thức về phƣơng pháp và những bƣớc đi của tƣ duy để chứng nghiệm đúng sai.
Theo V.I.Lênin thì nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc
con người. Sự phản ánh này không đơn giản, thụ động mà là quá trình biện chứng
dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ với khách thể. Tính tích cực
của chủ thể nhận thức thể hiện không chỉ ở sự tác động của chủ thể diễn ra trong
quá trình thực tiễn xã hội mà còn ở sự phản ánh khách thể nhƣ là một quá trình
sáng tạo trong đó chủ thể ngày càng nắm bắt đƣợc quy luật, bản chất của khách thể
(33, tr.18)
Dƣới góc độ Tâm lý học, nhận thức là sự phản ánh những thuộc tính của sự vật,
hiện tƣợng, mối quan hệ của chúng trong hiện thực khách quan thông qua hoạt động


thực tiễn của con ngƣời. Sống trong điều kiện tự nhiên và môi trƣờng xã hội, đòi hỏi
con ngƣời phải nhận thức đƣợc những quy luật của tự nhiên và các quy luật của xã hội
để hoạt động nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân con ngƣời
(34, tr.256).
Các quan niệm của các nhà Tâm lý học cho chúng ta thấy rằng: nhận thức là
sự phản ánh chủ quan về thế giới khách quan trong đầu óc con ngƣời, bao gồm các
quá trình từ biết (nhận biết, ghi nhớ, nhắc lại), đến hiểu (có thể áp dụng kiến thức
vào giải quyết tình huống mới). Quá trình nhận thức vận động, phát triển liên tục
không ngừng, mang bản chất xã hội, lịch sử. Kết quả cuối cùng của quá trình nhận
thức cho ta hiểu biết và kiến thức giúp con ngƣời ngày càng tiếp cận hiện thực, tiếp
cận chân lý. Kiến thức là những hiểu biết của con ngƣời về thế giới tự nhiên và xã
hội, nhờ học tập trong trƣờng và từng trải trong thực tế cuộc sống mà có. Kiến thức
của loài ngƣời là kết quả của quá trình nhận thức. Kiến thức phong phú và đa dạng
vì nó phản ánh đúng sự vật hiện tƣợng và các quan hệ có tính quy luật của hiện
thực khách quan, nhƣng cũng chứa đựng những hiểu biết nông cạn không thật
chính xác (23, tr.9).
Các nhà tâm lý học theo quan điểm nhận thức là hành động cho rằng họat động
nhận thức có hai dạng: Hoạt động nhận thức cảm tính và hoạt động nhận thức lý tính.

Hoạt động nhận thức cảm tính bao gồm hoạt động cảm giác, tri giác cho ta hình ảnh
cảm tính, họat động nhận thức lý tính bao gồm hoạt động tƣ duy, tƣởng tƣợng cho ta
khái niệm. Hoạt động nhận thức cảm tính và hoạt động nhận thức lý tính có quan hệ
chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, chi phối lẫn nhau trong cùng một hoạt động
nhận thức thống nhất của con ngƣời (11, tr. 98).
Tâm lý học xem nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý
con ngƣời. Nhận thức có mối quan hệ với thái độ và hành vi. Trong đó nhận thức
vừa là cơ sở, vừa là điều kiện, tiền đề, phƣơng tiện hình thành thái độ và hành vi.


Nhận thức đúng là cơ sở của thái độ đúng và hành vi đúng. Nhận thức là một hoạt
động gồm nhiều quá trình khác nhau, biểu hiện ở những mức độ khác nhau và
mang lại những sản phẩm khác nhau về hiện thực khách quan. Nhận thức bao gồm
các quá trình cảm giác, tri giác, trí nhớ, tƣ duy, tƣởng tƣợng. Quá trình này phản
ánh và tái tạo lại hiện thực ở trong tƣ duy của con ngƣời. Nhƣ vậy, quá trình nhận
thức đƣợc hiểu là quá trình tiếp cận, tiến gần đến chân lý nhƣng không bao giờ
ngừng ở một trình độ nào vì không bao giờ nắm hết toàn bộ hiện thực. Quá trình
này diễn ra liên tục và không bao giờ ngừng bởi hiện thực khách quan là vô cùng
và luôn luôn phát triển.
Trong quá trình nhận thức, cá nhân không chỉ nắm vững kiến thức mà còn
hoàn thiện dần cách suy nghĩ của mình. Quá trình nhận thức là quá trình tích cực
và có ý thức. Trong quá trình nhận thức, con ngƣời không chỉ là khách thể chịu sự
tác động của yếu tố bên ngoài mà còn là chủ thể tham gia một cách tích cực, chủ
động.
Tổng hợp những phân tích lý luận về nhận thức ở trên, trong nghiên cứu của
mình, chúng tôi sử dụng khái niệm nhận thức nhƣ sau: nhận thức là sự hiểu biết
của con người về sự vật, hiện tượng nào đó ở các mức độ khác nhau, làm cơ sở
cho việc định hướng và điều chỉnh thái độ, hành vi của họ.
b. Khái niệm nhận thức về vấn đề sinh con thứ ba trở lên
Sinh con là một việc làm thực sự quan trọng, nó thể hiện mọi ý nguyện của

các cặp vợ chồng. Trƣớc khi có quyết định sinh con, các cặp vợ chồng không thể bỏ
qua việc phải nhận thức lại những yếu tố thuận lợi hay không thuận lợi của bản thân
khi sinh con. Việc sinh một đứa con đã là một thử thách nhƣng nuôi dƣỡng, giáo dục
nó lên ngƣời còn là thử thách lớn hơn, đó không chỉ là trách nhiệm của riêng các cặp
vợ chồng mà còn là trách nhiệm của gia đình và xã hội.Việc sinh con là quyền lợi
của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, nhƣng sinh bao nhiêu con, sinh vào thời


điểm nào, khoảng cách giữa các lần sinh là bao lâu… thì phải phù hợp với những
qui định của pháp luật, phù hợp với điều kiện kinh tế, hoàn cảnh riêng của từng
ngƣời, chỉ có nhƣ vậy mới đảm bảo đƣợc việc chăm sóc và giáo dục cho cả bà mẹ
và trẻ em đƣợc tốt nhất.
Những cặp vợ chồng sinh con thứ ba trở lên đã nhận thức rõ những giá trị và cả
những khó khăn mà việc sinh con mang lại cho gia đình, qua việc chăm sóc hai đứa
con trƣớc. Nếu nhƣ nhu cầu về đứa con đầu lòng ở đa số ngƣời thể hiện nhƣ một
tâm thế về sự tất yếu của mỗi ngƣời phải có con để nối dõi thì nhu cầu về đứa con
thứ ba lại khác. Đối với các cặp vợ chồng mới kết hôn, việc có đứa con đầu lòng nhƣ
một sự kiện đánh dấu kết quả tình yêu của họ, hơn nữa họ đang ở giai đoạn “trăng
mật” của hôn nhân, gia đình, dƣ luận xã hội thƣờng ủng hộ việc sinh con. Do đó,
việc họ đối chiếu giữa nhu cầu có con với các điều kiện mà họ có, trong đó có điều
kiện kinh tế là việc làm cần thiết nhƣng đó không phải là yếu tố quyết định trong
việc họ sinh đứa con đầu tiên. Với lần sinh con thứ ba, cuộc hôn nhân của họ đã diễn
ra trong một thời gian dài, mỗi thành viên (vợ hoặc chồng) đều đã có thời gian để
kiểm nghiệm vai trò, vị trí, tình cảm của mình, cộng thêm dƣ luận xã hội, chính sách
dân số của nhà nƣớc có thể là thuận lợi có thể là ngƣợc lại, làm cho việc thực hiện
mong muốn có đứa con thứ ba phải đƣợc cân nhắc rất kỹ, nói cách khác họ nhận
thức rõ việc làm của mình.
Vậy nhận thức về việc sinh con thứ ba trở lên đƣợc hiểu nhƣ sau:
Nhận thức về việc sinh con thứ ba trở lên là sự hiểu biết của các cặp vợ chồng
về chính sách dân số, việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình, quyền sinh sản của các

cặp vợ chồng và giá trị của con cái ở các mức độ khác nhau, làm cơ sở cho việc
định hướng và điều chỉnh thái độ, hành vi sinh con thứ ba trở lên của họ.
1.2.1.2. Những biển hiện nhận thức về vấn đề sinh con thứ ba trở lên


a. Các mức độ nhận thức trong tâm lý học
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong Tâm lý học về mức độ nhận thức.
Căn cứ vào tính chất phản ánh, các nhà Tâm lý học Mác xít chia toàn bộ
hoạt động nhận thức thành nhiều mức độ khác nhau, từ thấp lên cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ nông đến sâu, từ hiểu biết chƣa đầy đủ đến đầy đủ, từ nhận thức
cảm tính đến nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính:
Là quá trình nhận thức đầu tiên, ở mức độ thấp nhất, sơ đẳng nhất trong toàn bộ
hoạt động nhận thức của con ngƣời. Đặc điểm chủ yếu của nhận thức cảm tính là
chỉ phản ánh những thuộc tính bề ngoài, cụ thể của sự vật, hiện tƣợng đang trực
tiếp tác động vào giác quan của con ngƣời.
Nhận thức cảm tính bao gồm 2 quá trình là cảm giác và tri giác. Cảm giác là
hình thức phản ánh thấp nhất, khởi đầu, là hình thức định hƣớng đầu tiên của cơ
thể trong thế giới. Trên cơ sở nảy sinh các cảm giác ban đầu mà có tri giác. Tri
giác là hình thức phản ánh cao hơn trong cùng bậc thang nhận thức cảm tính. Cảm
giác và tri giác có mối quan hệ chặt chẽ và tri phối lẫn nhau trong mức độ nhận
thức “trực quan sinh động” thế giới.
Sản phẩm hoạt động nhận thức cảm tính là những hình ảnh cụ thể, trực quan về
thế giới, chứ chƣa phải là những khái niệm và quy luật về thế giới. Mặc dù vậy,
nhận thức cảm tính có vai trò quan trọng trong đời sống tâm lý con ngƣời, nó cung
cấp nguyên liệu cho các hoạt động tâm lý cấp cao.
Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính là mức độ cao hơn nhận thức cảm tính. Nhận thức lý tính
phản ánh những thuộc tính bên trong, những mối liên hệ bản chất của sự vật hiện



tƣợng trong hiện thực khách quan mà con ngƣời chƣa biết. Nhận thức lý tính bao
gồm 2 mức độ: tƣ duy, tƣởng tƣợng.
Đặc điểm chung của nhận thức lý tính: Thuộc thang nhận thức cao, có những
đặc điểm mới về chất so với nhận thức cảm tính. Đó là tính có vấn đề, tính khái
quát, tính gián tiếp. Trên thực tế, nhận thức lý tính chỉ nảy sinh khi gặp những
hoàn cảnh, những tình huống mà bằng vốn hiểu biết cũ, bằng phƣơng pháp hành
động cũ đã có, con ngƣời không thể giải quyết đƣợc. Để nhận thức, con ngƣời cần
phải vƣợt ra khỏi phạm vi những hiểu biết cũ và đi tìm những cái mới đạt mục đích
mới.
Khác với nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính có khả năng đi sâu vào sự vật,
hiện tƣợng nhằm vạch ra những thuộc tính chung, những mối quan hệ có tính quy
luật giữa chúng. Chính nhờ phản ánh cái khái quát, cái quy luật mà nhận thức lý
tính giúp con ngƣời không chỉ nhận thức thế giới mà còn có khả năng cải tạo thế
giới. Đến mức độ nhận thức lý tính, con ngƣời nhận thức thế giới một cách gián
tiếp – nhận thức bằng ngôn ngữ. Nhờ phƣơng tiện ngôn ngữ và khả năng phản ánh
khái quát, phản ánh gián tiếp thế giới, mà con ngƣời có khả năng vạch ra đƣợc các
thuộc tính bản chất, các mối quan hệ có tính quy luật, dự đoán đƣợc chiều hƣớng
phát triển và diễn biến của chúng để nhận thức và cải tạo chúng.
Đánh giá các mức độ nhận thức B.S.Bloom, năm 1956 và cộng sự biên soạn tài
liệu: “Hệ phân loại các mục tiêu Sư phạm, lĩnh vực nhận thức”. Ông đƣa ra 3 khía
cạnh đánh giá: nhận thức, thái độ, hành vi. Ông chia nhận thức thành nhiều mức
khác nhau, phân loại mục tiêu nhận thức ra 6 mức độ từ thấp đến cao. Mỗi mức
đặc trƣng cho một hoạt động trí tuệ (2, tr.12).
Mức 1: Biết (Knowledge) đƣa vào trí nhớ và phục hồi lại thông tin của cùng
một đối tƣợng nhận thức, ghi nhớ, có thể nhắc lại các sự kiện, định nghĩa các khái
niệm, nội dung các định luật…


Mức 2: Hiểu (Comprehension) có thể thuyết minh, giải thích, chứng minh

những kiến thức đã lĩnh hội (phục hồi ngữ nghĩa thông tin trong những đối tƣợng
khác nhau, thiết lập liên hệ ở những đối tƣợng khác nhau).
Mức 3: Vận dụng (Application) có thể áp dụng kiến thức vào những tình huống
mới, khác với trong bài học (sử dụng các quy tắc, nguyên tắc, những phác đồ giải
quyết một vấn đề nào đó).
Mức 4: Phân tích (Analysis) biết phân chia một toàn thể thành các bộ phận, một
vấn đề lớn thành những vấn đề nhỏ hơn, làm sáng tỏ những mối quan hệ giữa các
bộ phận (đồng nhất những bộ phận tạo nên cái tổng thể, từ đó phân biệt các ý
tƣởng trong đối tƣợng đó).
Mức 5: Tổng hợp (Synthesis) biết sắp xếp các bộ phận thành toàn thể thống
nhất, ghép các vấn đề nhỏ thành các vấn đề lớn hơn, tạo thành một tổng thể mới
liên kết tất cả các bộ phận tạo nên tổng thể).
Mức 6: Đánh giá (Evaluation) có thể nhận định, phán đoán về giá trị, ý nghĩa
của mỗi kiến thức (tạo thành những phán đoán về số lƣợng cũng nhƣ chất lƣợng
thao tác tạo nên chất lƣợng của trí tuệ).
Hai mức đầu là nhận thức ở mức thấp. Bốn mức sau gọi là nhận thức ở mức
cao, vì chúng đề cập đến các thao tác tƣ duy phức tạp hơn, huy động 3 thao tác
phân tích, tổng hợp, đánh giá.
Hạn chế của cách phân loại của B.S.Bloom là 3 mức phân tích, tổng hợp, đánh
giá rất khó tách bạch trong nhận thức vì vậy rất khó đo đâu là phân tích, tổng hợp,
đánh giá mặc dù Bloom có giới thiệu cách đánh giá mục tiêu nhận thức (2, tr.86).
b. Những biển hiện nhận thức về vấn đề sinh con thứ ba trở lên
Trong nghiên cứu này, căn cứ vào các mức độ nhận thức của các cặp vợ chồng
về vấn đề sinh con thứ ba trở lên chúng tôi chia ra bốn mức độ sau: nhận thức sai;


×