Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Hứng thú học tập các môn cơ sở của sinh viên Khoa sư phạm kỹ thuật Trường Cao đẳng Nông Lâm - Bắc Giang : Luận văn ThS. Tâm lý học: 60 31 80

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 152 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

NGUYỄN VIỆT ĐỨC

HỨNG THÚ HỌC TẬP CÁC MÔN CƠ SỞ
CỦA SINH VIÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG LÂM - BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC
Mã số : 60.31.80

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN NGỌC PHÚ

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC

HÀNỘI - 2011


1

Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN NGỌC PHÚ

Phản biện 1:GS. T.S. Nguyễn Quang Uẩn

Phản biện 2:GS. TS. Lê Khanh

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận thạc sĩ họp tại:


Khoa Tâm Lý – Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
Vào lúc 08 giờ 30 phút ngày 08 tháng 02 năm 2012

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội


ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSP

: Đại học sư phạm

ĐVHT

: Đơn vị học trình

GDHĐC

: Giáo dục học đại cương

GDTC

: Giáo dục thể chất

GDQP

: Giáo dục quốc phòng


GTSP

: Giao tiếp sư phạm

GV

: Giáo viên

HĐDH

: Hoạt động dạy học

HĐGD

: Hoạt động giáo dục

HTHT

: Hứng thú học tập

HV

: Hành vi

LLDH

: Lý luận dạy học

MTXH


: Môi trường xã hội

NT

: Nhận thức

PPDHKTCN

: Phương pháp dạy học kỹ thuật công nghiệp

PPDHKTNN

: Phương pháp dạy học kỹ thuật nông nghiệp

PL

: Phụ lục

LLDH

: Lý luận dạy học

SPKT

: Sư phạm kỹ thuật

THCS

: Trung học cơ sở


TLH ĐC

: Tâm lý học đại cương

TLHLT&SP

: Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm

TSTB

: Trị số trung bình

VC,PTKT

: Vật chất, phương tiện kỹ thuật

XC-TC

: Xúc cảm – tình cảm


iii

MỤC LỤC

Lời cam đoan

i

Danh mục các chữ viết tắt


ii

Mục lục

iii

PHẦN MỞ ĐẦU

1

1

Tính cấp thiết của đề tài

1

2

Mục đích nghiên cứu.

3

3

Đối tượng nghiên cứu

3

4


Khách thể nghiên cứu:

3

5

Giả thuyết khoa học

3

6

Nhiệm vụ nghiên cứu

4

7

Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4

8

7.1

Cơ sở phương pháp luận

4


7.2

Phương pháp nghiên cứu

5

Cấu trúc của luận văn

Chương 1:

5

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU

HỨNG THÚ HỌC TẬP CÁC MÔN CƠ SỞ CỦA SINH VIÊN
KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG
LÂM – BẮC GIANG

6

1.1 Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề.

6

1.1.1

Các nghiên cứu ở nước ngoài về hứng thú

6


1.1.2

Các nghiên cứu ở trong nước về hứng thú

13

1.2 Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1

Khái niệm hứng thú

17
17


iv

1.2.2

Khái niệm hứng thú nhận thức

22

1.2.3

Hứng thú học tập

26


1.3 Các thành tố cơ bản của hứng thú học tập các môn cơ sở của sinh
viên khoa Sư phạm kỹ thuật – Trường Cao đẳng Nông Lâm
1.3.1

28

Thành tố nhận thức trong hứng thú học tập các môn cơ sở của
sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật – Trường Cao đẳng Nông
Lâm Bắc Giang

1.3.2

28

Thành tố xúc cảm – tình cảm trong hứng thú học tập các môn
cơ sở của sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật – Trường Cao
đẳng Nông Lâm Bắc Giang

1.3.3

29

Thành tố hành vi trong hứng thú học tập các môn cơ sở của
sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật – Trường Cao đẳng Nông
Lâm Bắc Giang

29

1.4 Đặc điểm hoạt động học tập các môn cơ sở của sinh viên khoa sư
phạm – Trường Cao đẳng Nông lâm – Bắc Giang.


30

1.4.1

Một số đặc điểm về môn học

30

1.4.2

Một số đặc điểm về người học

31

1.4.3

Đặc điểm về người dạy

34

1.5 Những yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập các môn cơ sở của
sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật – Trường Cao đẳng Nông Lâm –
Bắc Giang

35

1.5.1

Đặc điểm môn học


35

1.5.2

Phương pháp giảng dạy của giáo viên.

36

1.5.3

Động cơ học tập, xu hướng nghề nghiệp sư phạm của sinh viên.

37

1.5.4

Phương pháp học- tự học của sinh viên.

38

1.5.5

Cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật dạy học.

39

1.5.6

Các tác động tích cực của môi Trường giáo dục


40


v

Chương 2 TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU

42

2.1 Vài nét về khách thể nghiên cứu

42

2.2 Tổ chức nghiên cứu

46

2.3 Phương pháp nghiên cứu

47

2.3.1

Phương pháp nghiên cứu tài liệu

47

2.3.2


Phương pháp quan sát.

48

2.3.2

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

49

2.3.4

Phương pháp phỏng vấn.

50

2.3.5

Phương pháp thống kê toán học

51

Chương 3 THỰC TRẠNG HỨNG THÚ HỌC TẬP CÁC MÔN CƠ
SỞ CỦA SINH VIÊN KHOA SƯ PHẠM KỸ THUẬT TRƯỜNG
CAO ĐẲNG NÔNG LÂM BẮC GIANG. ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP
TÂM LÝ KÍCH THÍCH HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO SINH
VIÊN

52


3.1 Phân tích kết quả điều tra thực trạng hứng thú học tập các môn cơ
sở của sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật – Trường Cao đẳng Nông
Lâm Bắc Giang
3.1.1

Kết quả xác định các thành tố của Hứng thú học tập

3.1.2

Thực trạng thành tố nhận thức trong hứng thú học tập các

52
52

môn cơ sở của sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật – Trường
Cao đẳng Nông Lâm Bắc Giang
3.1.3

56

Thực trạng thành tố xúc cảm – tình cảm trong hứng thú học
tập các môn cơ sở của sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật –
Trường Cao đẳng Nông Lâm Bắc Giang.

3.1.4

60

Thực trạng thành tố hành vi trong hứng thú học tập các môn

cơ sở của sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật – Trường Cao
đẳng Nông Lâm Bắc Giang.

64


vi

3.1.5

So sánh các thành tố nhận thức, xúc cảm – tình cảm, hành vi
trong hứng thú học tập các môn cơ sở của sinh viên khoa Sư
phạm kỹ thuật – Trường Cao đẳng Nông Lâm Bắc Giang.

67

3.2 Phân tích so sánh hứng thú học các môn cơ sở của sinh viên khoa
Sư phạm kỹ thuật Trường Cao đẳng Nông lâm Bắc Giang

70

3.3 Phân tích kết quả điều tra những yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú
học tập các môn cơ sở của sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật –
Trường Cao đẳng Nông Lâm Bắc Giang

72

3.3.1

Kết quả điều tra, khảo sát ở sinh viên.


73

3.3.2

Kết quả điều tra, khảo sát ở giáo viên.

74

3.4 Đề xuất biện pháp tâm lý kích thích hứng thú học tập các môn cơ
sở của sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật – Trường Cao đẳng Nông
Lâm Bắc Giang trong quá trình học tập tại Trường
3.4.1

Thường xuyên định hướng, giáo dục và xây dựng hệ động cơ
đúng đắn cho sinh viên trong quá trình học tập các môn cơ sở

3.4.2

82

Sử dụng đa dạng phương pháp dạy học trong giờ giảng, chú
trọng các phương pháp kích thích hứng thú học tập của sinh viên

3.4.5

79

Xây dựng nội dung, chương trình các môn cơ sở bám sát mục
tiêu, yêu cầu đào tạo


3.4.4

78

Nâng cao chất lượng toàn diện đội ngũ giảng viên giảng dạy
các môn cơ sở

3.4.3

78

82

Tăng cường sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại trong dạy
học các môn cơ sở

83

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

85

1

Kết luận

85

2


Kiến nghị

87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

88


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ của nền kinh tế tri thức,
của công nghệ thông tin, của hội nhập và phát triển. Yêu cầu này đặt ra cho sự
nghiệp giáo dục nói chung, giáo dục Đại học – Cao đẳng nói riêng nhiệm vụ vô
cùng nặng nề. Mỗi cơ sở giáo dục cần có sự đổi mới toàn diện và sâu sắc, trong
đó tập trung vào biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo đáp ứng yêu
cầu sự phát triển kinh tế xã hội trong hiện tại và tương lai.
Giáo dục cao đẳng là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, đóng
góp một phần đáng kể vào việc đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đó là đào tạo lao động ở trình độ cao
đẳng, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, kỹ thuật viên, cán bộ thực hành có
tay nghề cao, góp phần hoàn chỉnh, hợp lý về cơ cấu nguồn nhân lực giữa các
bậc Đại học – Cao đẳng – Trung học – Công nhân kỹ thuật của cả nước.
Trường Cao đẳng nông lâm trước đây là Trường Trung học nông – lâm
Trung ương. Trường đã có quyết định trở thành Trường Cao đẳng từ ngày 28
tháng 05 năm 1999. Thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc

đào tạo đạt chuẩn đáp ứng yêu cầu của xã hội, nhà Trường đã chú trọng công
tác đào tạo và xây dựng về mọi mặt, trong đó có chú ý đến xây dựng hứng thú
học tập, củng cố xu hướng nghề nghiệp cho sinh viên trong toàn Trường.
Khoa sư phạm kỹ thuật – Trường cao đẳng Nông lâm là khoa non trẻ trong
nhà Trường, được thành lập theo quyết định số 1532 ngày 14 tháng 04 năm
2000 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo với chức năng và nhiệm vụ là đào
tạo giáo viên dạy các môn công nghệ cho các Trường Trung học cơ sở, trung
tâm khuyến nông, trung tâm dạy nghề. Những đòi hỏi về chất lượng giáo dục –


2

đào tạo trong thời kỳ mới đã đề ra những yêu cầu cao về tổ chức dạy học ở khoa
sư phạm trong nhà Trường kỹ thuật, trong đó chú trọng đổi mới nội dung và
phương pháp dạy học các môn kiến thức cơ sở. Nắm chắc nhiệm vụ quan trọng
này cần nghiên cứu toàn diện quá trình dạy học ở nhà Trường và khoa Sư phạm
kỹ thuật, trong đó đặc biệt chú ý đến hứng thú học tập các môn cơ sở của sinh
viên khoa Sư phạm kỹ thuật.
Đã có một số nghiên cứu xem xét nhiều khía cạnh khác nhau của việc đổi
mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động dạy học các môn cơ sở trong
khoa sư phạm của nhà Trường kỹ thuật Nông Lâm nghiệp. Dưới góc độ tâm lý
học, các nhà nghiên cứu quan tâm tới hình thành và phát triển hứng thú học tập
cho sinh viên. Sở dĩ như vậy vì, hứng thú học tập luôn gắn liền với sự say mê,
tìm tòi, tích cực học hỏi của sinh viên trong quá trình học tập. Do vậy, hình
thành hứng thú học tập cho sinh viên không chỉ góp phần đổi mới phương pháp,
nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động dạy học mà còn có ý nghĩa trong
việc phát triển nhân cách của sinh viên và hoàn thiện quá trình sư phạm trong
nhà Trường kỹ thuật. Hứng thú không những được đề ra trong nội dung giáo
dục, giáo dưỡng mà còn chiếm một vị trí quan trọng trong phương pháp dạy
học...Điều gì người học hứng thú học thì học được nhanh và nhớ lâu.

Hơn nữa, quá trình dạy học các môn cơ sở ở các nhà Trường kỹ thuật, các
khoa sư phạm kỹ thuật hiện nay còn khá nhiều hạn chế về nội dung, phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học; cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện kỹ thuật
dạy học...khiến cho sinh viên chưa thực sự hứng thú trong quá trình học tập.
Đây là một thực trạng chung, vừa là một trong những nguyên nhân cơ bản làm
giảm chất lượng dạy học các môn cơ sở ở các khoa sư phạm trong các nhà
Trường kỹ thuật.
Trong những năm gần đây, một số nhà Trường, một số khoa sư phạm kỹ
thuật đã có những nghiên cứu về hứng thú học tập của sinh viên đối với một số


3

môn học. Tuy nhiên đây chỉ là những nghiên cứu bước đầu về hứng thú học tập
của sinh viên trong phạm vi của mỗi khoa, mỗi Trường. Vì vậy việc nghiên cứu
một cách toàn diện, có hệ thống về hứng thú nhận thức, trên cơ sở đó đi nghiên
cứu sâu vào làm rõ hứng thú học tập các môn cơ sở của sinh viên khoa sư phạm
kỹ thuật là vấn đề có ý nghĩa .
Xuất phát từ những lý do cơ bản trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu
“Hứng thú học tập các môn cơ sở của sinh viên khoa sư phạm kỹ thuật, Trường
cao đẳng Nông lâm – Bắc Giang”với tư cách là đề tài luận văn Thạc sỹ khoa
học tâm lý học.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề hứng thú học tập các môn cơ
sở của sinh viên khoa sư phạm Trường cao đẳng Nông lâm - Bắc Giang, trên
cơ sở đó đề xuất các biện pháp tâm lý sư phạm kích thích hứng thú học tập của
sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cho các sinh viên khoa sư
phạm kỹ thuật, Trường cao đẳng Nông lâm – Bắc Giang hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Hứng thú học tập. Đề tài đi vào xem xét hứng thú học tập các môn học

cơ sở của sinh viên khoa sư phạm kỹ thuật thuộc Trường Cao đẳng.
4. Khách thể nghiên cứu:
- Đề tài nghiên cứu 170 sinh viên khoa sư phạm kỹ thuật – Trường Cao
đẳng Nông lâm – Bắc Giang, trong đó có 30 sinh viên năm thứ nhất, 50 sinh
viên năm thứ 2 và 90 sinh viên năm thứ 3 trong quá trình học tập các môn cơ sở.
- 40 cán bộ giảng dạy (thuộc Khoa sư phạm kỹ thuật và các khoa khác
tham gia giảng dạy tại khoa)
5. Giả thuyết khoa học
Hứng thú học tập các môn cơ sở của sinh viên khoa sư phạm – Trường Cao
đẳng Nông lâm bao gồm các thành tố cơ bản như: Nhận thức, xúc cảm và hành


4

vi, đồng thời chịu ảnh hưởng của các yếu tố như: Đặc điểm môn học; Phương
pháp giảng dạy của GV; Động cơ học tập, xu hướng nghề nghiệp sư phạm của
sinh viên; Phương pháp học- tự học của sinh viên; Cơ sở vật chất và phương
tiện kỹ thuật dạy học; Các tác động tích cực của môi Trường giáo dục…Nếu chỉ
rõ các thành tố và các yếu tố ảnh hưởng thì sẽ cắt nghĩa được nguyên nhân thực
trạng hứng thú học tập các môn cơ sở của sinh viên khoa sư phạm kỹ thuật –
Trường cao đẳng Nông lâm – Bắc Giang. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp
và kiến nghị nhằm kích thích hứng thú học tập các môn cơ sở cho sinh viên
khoa sư phạm kỹ thuật – Trường cao đẳng Nông lâm, góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo của khoa Sư phạm – Trường cao đẳng Nông lâm – Bắc Giang
trong điều kiện hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Khái quát hóa và hệ thống hóa những vấn đề lý luận về hứng thú nói
chung, hứng thú học tập các môn cơ sở của sinh viên khoa sư phạm kỹ thuật –
Trường cao đẳng Nông lâm – Bắc Giang nói riêng.

- Chỉ rõ các thành tố cơ bản của hứng thú học tập, các yếu tố ảnh hưởng
đến hứng thú học tập các môn cơ sở của sinh viên khoa sư phạm kỹ thuật –
Trường cao đẳng Nông lâm – Bắc Giang.
- Tổ chức khảo sát hứng thú học tập các môn cơ sở của sinh viên khoa sư
phạm kỹ thuật – Trường cao đẳng Nông lâm – Bắc Giang. Trên cơ sở đó đề
xuất các biện pháp tâm lý sư phạm kích thích hứng thú học tập các môn cơ sở
cho sinh viên khoa sư phạm kỹ thuật Trường Cao đẳng Nông lâm – Bắc Giang
trong điều kiện hiện nay.
7. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Cơ sở phương pháp luận


5

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử; hệ thống các nguyên tắc, phương pháp luận của Tâm lý học Mácxít, các
nghị quyết của Đảng, nghị quyết trung ương V khóa X, các nghị quyết của
Trung ương Đảng và Bộ Chính trị về đổi mới, cải cách giáo dục hiện nay.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng phối kết hợp các phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thống kê toán học ( sử dụng phần mềm thống kế SPSS –
phiên bản 15.0 nhằm giúp thống kê số liệu thu được, đồng thời thực hiện các
phép kiểm định thống kê trong xử lý, phân tích dữ liệu nghiên cứu.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, . Nội dung

luận văn được kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hứng thú học tập các môn cơ sở
của sinh viên khoa sư phạm kỹ thuật – Trường Cao đẳng Nông lâm – Bắc
Giang.
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng hứng thú học tập các môn cơ sở của sinh viên khoa
sư phạm kỹ thuật Trường Cao đẳng Nông lâm – Bắc Giang. Đề xuất một số
biện pháp tâm lý kích thích hứng thú học tập của sinh viên .


6

Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU HỨNG THÚ
HỌC TẬP CÁC MÔN CƠ SỞ CỦA SINH VIÊN KHOA SƯ PHẠM
KỸ THUẬT TRƯỜNG CAO ĐẲNG NÔNG LÂM – BẮC GIANG
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề.
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài về hứng thú
Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu về hứng thú nói chung và hứng
thú nhận thức nói riêng đã tiến hành từ rất sớm, trong đó có nhiều công trình
nghiên cứu của các nhà tâm lý học Mỹ, Thụy Sỹ, Đức, đặc biệt là các công trình
nghiên cứu của các nhà Tâm lý học Xô Viết trước đây.
John Dewey (1859-1952), nhà tâm lý- giáo dục học người Mỹ, ngay từ
năm 1896 đã sáng lập Trường thực nghiệm, trong đó các học sinh được ưu tiên
hoạt động tập trung vào những hứng thú hoặc nhu cầu đặc trưng cho từng lứa
tuổi. Theo Ông: “hứng thú thực sự xuất hiện khi cái tôi đồng nhất hoá với một ý
tưởng hoặc một vật thể, khi nó tìm thấy ở chúng phương tiện biểu lộ và chúng
trở thành thức ăn thiết yếu cho sự hoạt động của nó” [dẫn theo 28,tr. 180].
J. F. Herbart (1776-1841), nhà tâm lý học và giáo dục học nổi tiếng
người Đức. Ông là người xây dựng tâm lý học như một hệ thống các khoa học

dựa trên phép siêu hình, kinh nghiệm và toán học. Trong huấn luyện và giáo
dục, Herbart đã đưa ra 4 mức độ (nguyên tắc) của việc dạy học là: tính sáng tạo,
tính liên tưởng, tính hệ thống và phương pháp. Ông đặc biệt quan tâm đến việc
“phải chú ý đến những thời kỳ của sự phát triển, đến cá tính của học sinh hoặc
nhất là đến hứng thú - yếu tố quyết định của các phương pháp hiện nay” [dẫn
theo 27,tr. 287].
J. Piaget ( 1896-1989 ), nhà tâm lý học nổi tiếng người Thụy Sỹ đã dày
công nghiên cứu hoạt động trí tuệ của trẻ và đã đi đến nhiều kết luận quan trọng


7

thông qua các thực nghiệm do Ông tự thiết kế. Trong nhiều lần, Piaget đặc biệt
nhấn mạnh đến vai trò của hứng thú trong lĩnh hội tri thức. Ông viết: “Nhà
Trường mới yêu cầu hoạt động nhận thức phải dựa trên cơ sở nhu cầu và hứng
thú cá nhân” [28, tr. 180].
Trong một văn cảnh khác, Piaget nhấn mạnh “Cũng giống như người
lớn, đứa trẻ là một thực thể hoạt động mà hoạt động bị chi phối bởi quy luật
của hứng thú hoặc của nhu cầu, sẽ không đem lại hiệu suất đầy đủ nếu người ta
không động viên tới những động cơ tự do của hoạt động ấy” [28, tr. 182].
Khi phân tích trí thông minh của trẻ và những đòi hỏi của một nền giáo
dục mới, Piaget đã có sự phân tích hết sức tài tình “Hứng thú không chút nào
loại bỏ sự nỗ lực… một sự giáo dục chuẩn bị cho cuộc sống không bao hàm
việc thay thế những nỗ lực tự phát bằng sự lao dịch…. Các phương pháp hoạt
động không hề dẫn đến một chủ nghĩa cá nhân vô chính phủ; trái lại, nhất là
khi nó kết hợp được công việc của cá nhân với công việc theo nhóm, nó sẽ dẫn
đến sự giáo dục kỷ luật tự giác và sự nỗ lực tự nguyện” [28, tr.107].
Năm 1931, nhà Tâm lý học người Mỹ E. K. Strong ( Trường đại học tổng
hợp Stanford) nghiên cứu “Sự biến đổi hứng thú theo lứa tuổi”( Change of
interest with age) đã đưa ra kết luận được đánh giá cao: Sự phát triển của hứng

thú thường gắn liền với sự phát triển lứa tuổi. Điều đó dễ hiểu vì muốn hình
thành một hứng thú nào đó, cần phải có một mức độ phát triển tâm lý cũng như
một mức độ tri thức và kinh nghiệm sống nhất định.
Về lĩnh vực hứng thú, đặc biệt là hứng thú nhận thức, các nhà tâm lý học
Liên xô trước đây đã có những đóng góp đặc biệt to lớn.
Từ những năm đầu của thế kỷ XX, trong cuốn chuyên khảo Hứng thú công
bố năm 1914. X .A Ananhin đứng trên quan điểm chức năng luận, có quan điểm
cho rằng: “Không có hứng thú với tư cách là một hiện tượng tâm lý độc lập
trong đời sống tâm lý của cá nhân” [dẫn theo 3, tr. 225]. Với quan điểm như


8

vậy, Ananhin đã quy hứng thú về nhu cầu ( Hứng thú chính là nhu cầu được
nhận thức). Một số tác giả khác lại đồng nhất hứng thú với xu hướng, chú
ý...Trên thực tế, hứng thú có quan hệ mật thiết với nhu cầu, chú ý nhưng không
đồng nhất với với các hiện tượng tâm lý này, mà có tính độc lập tương đối với
những đặc điểm riêng.
Vào những năm 50 của thế kỷ trước, V. G. Ackhipov đã có những nghiên
cứu về hứng thú với tư cách là một hiện tượng trong đời sống tâm lý của cá
nhân, trong đó đi sâu nghiên cứu Hứng thú học tập của học sinh. Tác giả cho
rằng: Hứng thú là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy học sinh tích
cực trong quá trình học tập. Đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng tới hứng thú học
tập của học sinh, Ackhipov cho rằng: Sự hiểu biết ban đầu của học sinh về môn
học ( tên môn học, giáo viên đảm nhiệm, hình thức tổ chức học tập...) có ảnh
hưởng nhất định đến sự hình thành, phát triển nhân cách của học sinh đối với
môn học.
Năm 1956, V . G. Ivanôv nghiên cứu về Giáo dục phát triển hứng thú học
tập cho học sinh trong các nhà Trường. Trên cơ sở làm rõ vai trò, vị trí của
hứng thú đối với hoạt động học tập của học sinh, tác giả nhấn mạnh: Giáo dục

phát triển hứng thú học tập cho học sinh phải được coi là một nhiệm vụ quan
trọng của quá trình dạy học. Điều này có nghĩa là, hoạt động dạy học không chỉ
có nhiệm vụ trang bị cho học sinh những tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo,
mà còn có nhiệm vụ phát triển hứng thú cho học sinh trong quá trình tiếp thu tri
thức, rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo.
Năm 1966, N. I. Ganbirô, trong luận án tiến sỹ: Vận dụng tính hứng thú
trong giảng dạy tiếng Nga. Tác giả cũng đánh giá cao vai trò của hứng thú
trong học tập nói chung, học tập môn tiếng Nga nói riêng. Ông cho rằng: Hứng
thú không chỉ là điều kiện mà còn là phương tiện để nâng cao chất lượng giảng
dạy tiếng Nga trong các nhà Trường. Ở đây, hứng thú được xem là một


9

phương tiện về mặt tinh thần, tư tưởng có tính độc lập trong nâng cao chất
lượng giảng dạy môn học.
Trong cuốn Tâm lý học cá nhân ( tập 1), tác giả A. G. Côvaliốp đã dành
một chương trình với tiêu đề: Hứng thú, nhân tố kích thích hoạt động của cá
nhân. Ông cho rằng: “ Hứng thú có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống và
hoạt động của con người. Con người cảm thấy sống đầy đủ và hạnh phúc có
những hứng thú. Cùng với nhu cầu, hứng thú kích thích hoạt động, làm cho con
người trở nên tích cực. [4, tr 230].
L. X Xôlôvâytrich – nhà Tâm lý học người Nga nghiên cứu về mối quan
hệ giữa hứng thú với việc phát triển các thuộc tính tâm lý của nhân cách, đặc
biệt là đối với các trình độ phát triển của năng lực. Ông viết “ Hứng thú - đó là
chiếc dù nhỏ mở ra trước tiên, tạo điều kiện tập trung vòm dù chính bao bọc các
năng khiếu, năng khiếu nảy sinh trước hết từ hoạt động nào gây ra hứng thú cao
độ và bao trùm toàn bộ cá tính”. [40, tr 71]. Đối với tài năng và thiên tài X.
Xôlôvâytrích cho rằng: “ Hứng thú mãnh liệt, đắm say thường là dấu hiệu của
những năng lực to lớn. Và ngược lại, tài năng thường kèm theo hứng thú mạnh

mẽ đối với hoạt động. Thiên tài, thường say mê làm việc như ma ám” [40, tr.
88]. Như vậy, để hình thành kỹ năng và phát triển năng lực cho hoạt động cá
nhân với chuyên môn nghề nghiệp, chúng ta không chỉ trang bị kiến thức, hình
thành kỹ năng, kỹ xảo, mà còn quan tâm giáo dục hình thành và phát triển cho
cá nhân có hứng thú với nghề nghiệp chuyên môn đó.
Các nghiên cứu ở nước ngoài về hứng thú khá đa dạng và phong phú. Bên
cạnh những kết quả nghiên cứu vừa nêu trên, còn phải kể đến nhiều tác giả với
những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về hiện tượng tâm lý này:
- Quan điểm sinh vật luận: Đại diện cho phái theo quan điểm sinh vật luận
là: J. F. Herbart, nhà Tâm lý học người Đức. Ông là người mong muốn xây
dựng Tâm lý học như một hệ thống các khoa học dựa trên phép siêu hình, kinh


10

nghiệm và toán học. Khi đề cập đến bản chất của hứng thú Herbart cho rằng:
Hứng thú là thuộc tính bẩm sinh vốn có của con người, được biểu hiện thông
qua thái độ tình cảm của con người vào một đối tượng nào đó trong thế giới
khách quan. Ở đây, Herbart đã chỉ ra được mặt biểu hiện cơ bản của hứng thú,
đó là tình cảm của chủ thể trong mối quan hệ với đối tượng tạo nên sự hứng thú.
Tuy nhiên, Herbart đã lý giải một cách không thỏa đáng về nguồn gốc của hứng
thú. Hứng thú không phải là thuộc tính tâm lý có sẵn mang tính bẩm sinh di
truyền, mà cũng như mọi hiện tượng tâm lý khác trong đời sống tinh thần – tâm
lý của con người, hứng thú được hình thành và phát triển trong hoạt động, thông
qua mối quan hệ tác động qua lại giữa các chủ thể của hứng thú và đối tượng
gây nên hứng thú, dựa trên cơ sở nhận thức và thái độ của chủ thể đối với đối tượng.
- Quan điểm duy tâm:
Người đại diện cho quan điểm duy tâm là R. Annoi, nhà Tâm lý học người
Mỹ. Theo Annoi: Hứng thú là sự sáng tạo của tinh thần tối cao đối với đối
tượng mà người hứng thú tham gia vào. “Tinh thần tối cao” theo quan điểm của

Annoi đó là thần linh, thượng đế hay còn gọi là Lực lượng siêu nhiên. Điều đó
có nghĩa là, hứng thú của cá nhân hoàn toàn do sự mách bảo, sự sắp đặt của
thần linh, thượng đế chứ không phụ thuộc vào các yếu tố thuộc về chủ thể như:
Nhu cầu, động cơ, nhận thức, cảm xúc, tình cảm...Quan điểm của Annoi đã phủ
nhận vai trò của chủ thể của hứng thú, đồng thời góp phần bảo vệ quan điểm
duy tâm trong nghiên cứu đời sống tâm lý của con người.
Ngoài quan điểm của Annoi, một số nhà Tâm lý học như: W. Jame, E. K.
Strong...cũng đứng trên thế giới quan duy tâm khi xem xét hứng thú: Hứng thú
là do thiên định và có thể trở thành nét tính cách của cá nhân. Trên thực tế,
hứng thú không đồng nhất với tính cách, không phải hiện tượng tâm lý bất biến
mà cũng có sự vận động, biến đổi tùy thuộc vào các yếu tố thuộc về chủ thể và
các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.


11

- Quan điểm đồng nhất hứng thú với nhu cầu:
Thông qua một số công trình nghiên cứu có tính chất thực nghiệm, S.
Klaparet đã đi đến kết luận: Hứng thú là dấu hiệu của nhu cầu đòi hỏi cần được
thỏa mãn của cá nhân.
Trước hết cần khẳng định, hứng thú và nhu cầu là hai hiện tượng tâm lý có
mối quan hệ gần gũi và gắn bó rất chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ này,
nhu cầu đóng vai trò là cơ sở, điều kiện của hứng thú. Nói cách khác, nếu không
có nhu cầu về một đối tượng nào đó, thì người ta rất khó hình thành hứng thú
với đối tượng đó. Song không phải bất cứ nhu cầu nào cũng có thể làm nảy sinh
hứng thú. Do vậy, không thể đồng nhất hứng thú với nhu cầu, cũng như tuyệt
đối hóa vai trò của nhu cầu trong sự tồn tại của hứng thú.
- Quan điểm xem xét hứng thú ở khía cạnh thái độ, nhận thức:
Nghiên cứu hứng thú ở khía cạnh thái độ nhận thức, có thể kể đến một số
tác giả sau:

A.N. Lêonchiep – một trong những đại biểu của Trường phái Tâm lý học
hoạt động, khi nghiên cứu về hứng thú đã nhấn mạnh đến tính đặc thù của hiện
tượng tâm lý này. Ông cho rằng: “ Hứng thú là thái độ nhận thức đặc thù của
chủ thể đối với những đối tượng”
X. L. Rubinstêin cũng đưa ra quan điểm về hứng thú khá tương đồng với
quan điểm của Lêônchiep. Theo ông: “ Hứng thú là thái độ nhận thứ của cá
nhân đối với hiện thực, nhằm nhận thức những hiện tượng nhất định của cuộc
sống xung quanh” [dẫn theo 48, tr. 159].
A. G. Ivanôv cho rằng: Hứng thú là thái độ nhận thức tích cực của cá nhân
đối với hiện thực. Theo ông, khi có hứng thú đối với sự vật, hiện tượng trong
thế giới khách quan, chủ thể thường đi sâu tìm hiểu, khám phá bản chất của sự
vật hiện tượng đó.
Như vậy, các tác giả đã quy hứng thú về mặt hoạt động cơ bản của con


12

người, đó là hoạt động nhận thức. Một số tác giả đã vạch ra dấu hiệu cơ bản của
hứng thú nhận thức, trong đó phải kể đến quan điểm của A. N. Lê ônchiep:
Hứng thú là thái độ nhận thức đặc thù của chủ thể đối với đối tượng. Tuy nhiên,
các quan điểm trên chưa thể hiện rõ nguồn gốc, nguyên nhân tạo nên thái độ
nhận thức đặc thù của chủ thể; tức là nguồn gốc, nguyên nhân tạo nên hứng thú.
Hơn nữa, hứng thú của cá nhân được thể hiện rất đa dạng và phong phú trên
nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, ở cách tiếp cận này các tác giả đã vô tình
thu hẹp phạm vi ảnh hưởng của hứng thú trong đời sống hoạt động của con người.
- Quan điểm xem xét hứng thú ở khía cạnh chú ý:
Nghiên cứu hứng thú ở khía cạnh này phải kể đến một số tác giả như: A.
V.Daparôgiet, P. A. Ruđich, B. M. Teplov...xem hứng thú như là hiện tượng
tâm ly trung gian của quá trình tâm lý nhận thức đó là chú ý. Daparôgiet cho
rằng: “ Hứng thú là khuynh hướng chú ý tới những đối tượng nhất định, là

nguyện vọng tìm hiểu chúng một cách càng tỷ mỷ càng hay”. [7, tr. 218].
Ruđich, người đi sâu nghiên cứu về vai trò của hứng thú trong hoạt động của cá
nhân cũng chỉ ra: “ Hứng thú là biểu hiện của của xu hướng chú ý đặc biệt của
cá nhân nhằm nhận thức những hiện tượng nhất định của cuộc sống xung
quanh, đồng thời biểu hiện thiên hướng tương đối cố định của con người đối
với các hoạt động nhất định”. [33, tr. 35].
Có thể nói rằng, trạng thái chú ý ( sự tập trung chú ý) là dấu hiện đặc trưng
của hứng thú nhận thức, hơn nữa, hứng thú nhận thức sẽ kích thích chủ thể đi
sâu tìm hiểu, khám phá bản chất bên trong của đối tượng, nhưng hứng thú
không thể đồng nhất với chú ý. Sở dĩ như vậy là vì, chú ý chỉ là trạng thái tâm
lý mang tính nhất thời và thường xuyên biến đổi. Trong khi đó, hứng thú là hiện
tượng tâm lý tương đối ổn định. Thực tế cũng cho thấy, vì những lý do khách
quan, cá nhân có thể tập trung vào một hoặc một số đối tượng, nhưng họ không
hề có hứng thú với những đối tượng đó.


13

Hơn nữa, chú ý có thể là có chủ định hoặc không có chủ định, trong đó
hứng thú thường được chủ thể ý thức về đối tượng một cách khá rõ ràng. Vì
vậy, không thể đồng nhất hứng thú với chú ý, trên thực tế chú ý chỉ được xem
như là một biểu hiện cụ thể mang tính tính đặc trưng của hứng thú.
Có thể thấy rõ, nghiên cứu ở nước ngoài về hứng thú khá đa dạng, phong
phú và được tiếp cận trên nhiều phương diện khác nhau, thể hiện sự quan tâm
của các nhà khoa học về hiện tượng tâm lý đặc thù này. Tuy nhiên, do ảnh
hưởng của thế giới quan và phương pháp luận đã dẫn đến những cách nhìn nhận
khác nhau về bản chất, đặc điểm của hứng thú.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước về hứng thú
Ở trong nước có khá nhiều nghiên cứu về hứng thú, trong đó tập trung ở
phương diện hứng thú nhận thức, hứng thú học tập các môn học, có thể kể đến

các nghiên cứu sau:
Năm 1960, dựa trên cơ sở lý luận chung về hứng thú, tổ Tâm lý học nhân
cách thuộc khoa Tâm lý giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã triển
khai đề tài: “ Điều tra hứng thú học tập của sinh viên cấp III Hà Nội” do giảng
viên Trương Anh Tuấn làm chủ nhiệm. Kết quả điều tra đã chỉ ra thực trạng và
nguyên nhân hứng thú của học sinh đối với các môn học, qua đó giúp cho các
nhà giáo dục và quản lý giáo dục trên địa bàn Hà Nội có sự nhìn nhận khách
quan hơn về thái độ của học sinh với từng môn học, trên cơ sở đó có những
biện pháp quản lý, tổ chức học tập các môn học một cách có hiệu quả hơn.
Hướng nghiệp cho học sinh cấp III là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của quá trình giáo dục, đào tạo ở các nhà Trường. Phạm Tất Dong ( năm
1973) trong luận án tiến sỹ với đề tài: Hứng thú nghề nghiệp của học sinh cấp
III đã khái quá và làm rõ những đặc điểm và biểu hiện của hứng thú nghề
nghiệp của học sinh cấp III. Trong đó, hứng thú học là một trong những biểu
hiện nổi bật thể hiện xu hướng nghề nghiệp của học sinh. Có thể căn cứ vào


14

biểu hiện này để nhận biết khả năng của từng học sinh, trên cơ sở đó tiếp tục
giáo dục, định hướng xu hướng nghề nghiệp cho các em.
Phạm Huy Thụ nghiên cứu đề tài: Hiện trạng hứng thú học tập các môn
học của học sinh cấp II ở một số Trường tiên tiến (1977). Đề tài đã tiến hành
điều tra hứng thú học tập các môn học của học sinh ở 3 Trường cấp II tiêu biểu.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, nguyên nhân, tác giả đề xuất một số biện pháp
giáo dục cơ bản nhằm nâng cao hứng thú học tập của học sinh cấp II, đó là:
- Thứ nhất, giáo viên phải nâng cao lòng yêu người, yêu nghề, yêu sự
nghiệp trồng người.
- Thứ hai, nâng cao tay nghề sư phạm cho đội ngũ giáo viên
- Thứ ba, tăng cường tổ chức hoạt động ngoại khóa cho học sinh trong quá

trình học tập các môn học.
- Thứ tư, thường xuyên tổ chức các giờ giảng mẫu
Các biện pháp tác giả đưa ra trên một khía cạnh nào đó đã đem lại hiệu quả
thiết thực đối với việc nâng cao hứng thú học tập của học sinh. Tuy nhiên, các
biện pháp này chủ yếu xuất phát từ phía giáo viên mà chưa kết hợp với các biện
pháp từ phía học sinh, môn học, cơ sở vật chất, phương tiện dạy học...
Tác giả Nguyễn Khắc Mai (1987) đã làm rõ thái độ của sinh viên đối với
các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội thông qua đề tài: Bước đầu tìm hiểu thực trạng hứng thú rèn luyện nghiệp
vụ sư phạm thường xuyên tại Trường của sinh viên khoa Tâm lý giáo dục. Quá
trình tìm hiểu thực trạng về vấn đề nghiên cứu, tác giả tìm ra ba nguyên nhân cơ
bản tạo ra hứng thú cho sinh viên đối với các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm tại nhà Trường là:
Thứ nhất, do ý nghĩa của môn học
Thứ hai, do trình độ của sinh viên
Thứ ba, do phương pháp giảng dạy của giáo viên


15

Ngoài những tác giả nêu trên, trong một số năm gần đây các nghiên cứu về
hứng thú, đặc biệt là hứng thú học tập của học sinh, sinh viên ngày càng da
dạng và phong phú, có thể đề cập đến một số tác giả sau đây:
Nguyễn Thanh Bình với đề tài nghiên cứu: Bước đầu tìm hiểu nguyên nhân
gây hứng thú học tập môn Tâm lý của sinh viên khoa tự nhiên Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội. Đề tài đi sâu phân tích làm rõ những nguyên nhân chủ quan
và nguyên nhân khách quan gây nên hứng thú học tập môn Tâm lý của sinh
viên khoa tự nhiên Trường Đại học sư phạm Hà Nội. Trong đó tác giả nhấn
mạnh đến động cơ học tập của sinh viên và phương pháp giảng dạy của giáo
viên, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp khá đồng bộ nhằm phát triển hứng

thú học tập cho sinh viên đối với môn Tâm lý học, bao gồm:
- Giáo dục động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên.
- Giảng dạy phải gắn liền với thực tiễn
- Đảm bảo các điều kiện về giáo trình, tài liệu tham khảo
- Bồi dưỡng năng lực giảng dạy cho giáo viên...
Dương Thị Thanh Nhàn với công trình: Nghiên cứu hứng thú học tập môn
Toán của học sinh lớp 4 tiểu học. Ở đây tác giả không chỉ đi sâu làm rõ thực
trạng, nguyên nhân gây hứng thú học tập môn Toán của học sinh lớp 4 tiểu học,
mà còn chỉ rõ ra những biểu hiện đặc trưng hứng thú học Toán của các em. Cụ
thể là
- Tập trung chú ý nghe giảng
- Hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài
- Làm đầy đủ bài tập về nhà
- Xem bài mới trước khi lên lớp
- Làm thêm các bài toán nâng cao
- Nêu thắc mắc ngay nếu chưa hiểu bài
- Cố gắng tự suy nghĩ để giải bài toán khó


16

- Tìm đọc và giải toán ở các sách báo
- Tự giác học toán.
Trước thực tế hứng thú học tập các môn lý luận của sinh viên ở nhiều cơ sở
đào tạo có những biểu hiện giảm sút, một số tác giả đi vào nghiên cứu thực
trạng hứng thú học tập của sinh viên đối với những môn học này. Trong đó có
thể kể đến nghiên cứu của Lê Thị Thu Hằng với đề tài: Thực trạng hứng thú
học tập các môn lý luận của sinh viên Trường Đại học Thể dục thể thao Trung
ương I. Kết quả nghiên cứu đã khái quát: Đa số sinh viên trong phạm vi nghiên
cứu không có hứng thú trong quá trình học tập các môn lý luận. Thực trạng như

vậy xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một nguyên nhân cơ
bản là do sinh viên chưa nhận thức đúng đắn về các môn học. Một số sinh viên
còn cho rằng học các môn lý luận vừa khô, vừa khó và vừa khổ.
Hiện nay, các phương tiện kỹ thuật hiện đại như: Máy tính điện tử, máy
quét, máy quay video số, các phần mềm dạy học...đang được ứng dụng rộng rãi
trong giảng dạy các môn học, có tác động tích cực đến người học trên nhiều
phương diện, trong đó có hứng thú học tập. Tác giả Dương Thị Kim Oanh đi
sâu nghiên cứu về vai trò và sự ảnh hưởng của các phương tiện kỹ thuật dạy học
hiện đại đối với hứng thú học tập của người học thông qua đề tài: Nghiên cứu
ảnh hưởng của việc sử dụng đa phương tiện trong giảng dạy tới hứng thú học
tập của sinh viên Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Bằng thực nghiệm sử
dụng đa phương tiện trong giảng dạy, tác giả đi đến kết luận, “sử dụng đa
phương tiện trong dạy học sẽ huy động được nhiều giác quan của người học
trong việc tiếp thu – lĩnh hội tri thức, nhờ đó người học hứng thú với hoạt động
học tập và đạt kết quả cao hơn [25].
Nguyễn Ngọc Phú, khi nghiên cứu về hoạt động học tập của học viên các
nhà Trường quân sự đã nhấn mạnh tới hứng thú nhận thức của người học: “
Trong hình thành động cơ đúng đắn cho người học, việc hình thành hứng thú


17

nhận thức của người học có một ý nghĩa nổi bật” [30]. Ông cho rằng: “ Các
biểu hiện của hứng thú nhận thức được diễn ra trong hoạt động học, trong chính
quá trình người học có những hoạt động tương ứng với đối tượng cần lĩnh hội,
“vật lộn” với nó. Điều chủ yếu là các chủ thể - người học tự ý thức về trách
nhiệm nghĩa vụ học tập...xuất hiện ở người học nhu cầu muốn nắm vững, làm
chủ tri thức [31]. Đồng thời, ông cũng chỉ ra mặt biểu hiện và các nhân tố tác
động ảnh hưởng đến hứng thú nhận thức. Có thể xem đây là cơ sở cho việc xem
xét nội dung, đánh giá mức độ hứng thú và xây dựng các biện pháp hình thành

hứng thú nhận thức cho học viên trong quá trình học tập.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về hứng thú nói chung, hứng thú nhận
thức nói riêng ở nước ngoài cũng như trong nước khá đa dạng và phong phú,
qua đó góp phần tìm hiểu, khám phá và từng bước làm rõ Hứng thú với tư cách
là một hiện tượng tâm lý đặc thù trong đời sống tâm lý của con người. Đây vừa
là nguồn động viên, vừa là cơ sở quan trọng để cho đề tài kế thừa và phát triển
thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm hứng thú
Hứng thú là thuật ngữ được sử dụng một cách khá phổ biến trong cuộc
sống sinh hoạt hàng ngày
Theo Tiếng Anh hứng thú nghĩa là sự thú vị, sự thích thú, sự yêu thích,
quan tâm của chủ thể vào một đối tượng nào đó.
Tiếng Việt hứng thú được coi là sự khoái cảm, thích thú, ham mê của chủ
thể đối với đối tượng, luôn gắn liền với những hành động tích cực của chủ thể.
A. G. Côvaliốp – nhà Tâm lý học người Nga, trong cuốn Tâm lý học cá
nhân đã đưa ra khái niệm về hứng thú như sau: “ Hứng thú là thái độ đặc thù
của cá nhân đối với một đối tượng nào đó, do ý nghĩa của nó trong đời sống và
do sự hấp dẫn về ặt tình cảm của nó” [4, tr 228]


18

Trong cuốn Tâm lý học đại cương, tác giả Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: “
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý
nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân
trong quá trình hoạt động” [39 ].
Tác giả Nguyễn Phúc Ân trong khi nghiên cứu mối quan hệ giữa hứng thú
với nhu cầu đã đưa ra quan điểm về hứng thú như sau: “ Hứng thú là sự ham
thích, sự tập trung cao độ, sự say mê mãnh liệt với những xúc cảm tích cực của

cá nhân”.
Thông qua các kết quả nghiên cứu trên chúng ta thấy Hứng thú có một số
đặc điểm cơ bản sau đây:
* Thứ nhất, hứng thú là thái độ đặc thù của chủ thể vì:
- Thái độ của hứng thú không đồng nhất với thái độ của tình cảm, nếu thái
độ của tình cảm được hình thành, phát triển dựa trên cơ sở của sự khái quát hóa,
hệ thống hóa từ những xúc cảm dương tính hoặc âm tính; thì hứng thú được
hình thành phát triển dựa trên cơ sở của sự nhận thức kết hợp với những xúc
cảm tích cực ( dương tính) cùng loại. Do đó, khi đề cập đến hứng thú, người ta
thường đề cập đến mặt tích cực trong thái độ của chủ thể về đối tượng. Trong
khi đó, thái độ nói chung thường có sự phân cực một cách khá rõ ràng.
- Thái độ bên trong và hành vi bên ngoài của hứng thú thường thống nhất
với nhau và được bộc lộ một cách khá rõ ràng, bằng trực giác chúng ta có thể
cảm nhận được. Trong khi đó, thái độ nói chung không phải khi nào cũng được
biểu hiện ra bên ngoài, thậm chí giữa thái độ bên trong với hành vi bên ngoài có
sự mâu thuẫn với nhau.
* Thứ hai: Hứng thú bao giờ cũng có đối tượng. Đó là những sự vât, hiện
tượng tồn tại trong thế giới vật chất và tinh thần mà chúng ta đang sống. Tuy
nhiên, không phải sự vật, hiện tượng nào cũng là đối tượng của hứng thú. Một
sự vật, hiện tượng chỉ có thể tạo nên hứng thú khi chúng thỏa mãn những điều


×