Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Chương 1: KHOA HỌC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.73 KB, 39 trang )

Chương 1
KHOA HỌC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I.

II.

III.

KHOA HỌC
1.
Khái niệm
2. Ý nghĩa của khái niệm
3. Quá trình phát triển của khái niệm
4. Động lực phát triển của khái niệm
5. Vai trị của sự kiện trong tư duy và lí luận
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1.
Khái niệm
2. Những công việc chủ yếu của nghiên cứu khoa học
3. Những yêu cầu đối với người nghiên cứu khoa học
CÁC LỈNH VỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1.
Nghiên cứu cơ bản
2. Nghiên cứu ứng dụng
3. Nghiên cứu triển khai
4. Nghiên cứu dự báo

MỞ ÐẦU
Ðộng lực để xã hội tiến bộ không ngừng là tri thức và sự phát triển của nó. Sự hiểu
biết thế giới và xã hội lồi người ngày càng sâu sắc là do chính con người tạo ra. Kho tàng
tri thức ấy là khoa học. Sự tạo ra ngày càng nhiều tri thức là do sự nghiên cứu khoa học, nó


đã khơng ngừng nhân kho tàng tri thức của con người lên gấp bội. Ngày nay số lượng người
nắm vững tri thức và biết nhân nó lên hàng ngày đơng đảo hơn bao giờ hết.
Nếu nói rằng lực lượng những người làm khoa học, mà cụ thể là những người làm
công tác nghiên cứu khoa học (NCKH) hầu hết là có trình độ đại học trở lên là không sai. Ở
nước ta, số người này cũng khơng nhỏ. Chỉ nói từ sau giải phóng Miền Nam (1975), số
người tốt nghiệp Ðại học mỗi năm có đến vài chục vạn người. Sự đóng góp của họ trong
lĩnh vực phát triển khoa học công nghệ ngày một gia tăng theo đà cấp số.
Tuy nhiên, không phải ai có trình độ đại học đều có thể NCKH được. Ngồi trình độ
chun mơn, người làm cơng tác NCKH cịn cần rất nhiều yếu tố khác, như: lòng đam mê
khoa học, đam mê nghề nghiệp, sống chết vì nghề nghiệp, có khả năng tư duy độc lập và đặc
biệt là phải biết phương pháp NCKH.
Thật vậy, một người có trình độ (thậm chí có thể trên Ðại học), có lịng nhiệt tình
nhưng có thể khơng biết làm sao để có một đề tài nghiên cứu, bắt đầu sự nghiên cứu từ đâu,
sản phẩm sẽ là cái gì, khi bắt tay vào nghiên cứu thì khơng biết làm cái gì trước, cái gì sau,
khi đã phát hiện ra cái mới (ví dụ như vậy) thì khơng biết trình bày nó như thế nào cho mọi
người hiểu v.v... Kết quả là: tốn công, tốn sức, tốn thời gian, tốn tiền bạc mà nói hồi, viết
hồi người ta vẫn khơng hiểu cơng việc và kết quả của mình.


Nhiều năm trước, do nhiều lí do mà mơn học PPNCKH khơng được đặt nặng ở
trường Ðại học. Có trường dạy PPNCKH cho sinh viên, trường thì chỉ giới thiệu mang tính
chất ngoại khóa, có trường khơng hề dạy cho sinh viên mơn học này. Khơng ít người đã nghĩ
rằng môn khoa học này chỉ dành riêng cho những người ra trường làm công tác nghiên cứu ở
các cơ quan nghiên cứu. Khi vào vị trí cơng tác, họ sẽ quen dần, học hỏi dần và sẽ làm được.
Thế nhưng, như trên đã nói, nhiều người đã nghiên cứu tốt nhưng rồi khơng biết trình bày
thế nào cho mọi người hiểu. Phải qua một thời gian dài họ mới hiểu được rằng NCKH
khơng phải chỉ có sản phẩm. Khơng ít những bài viết, của những tác giả có bằng cấp hẳn hoi
mà trong đó ta vẫn tìm thấy nhiều thiếu sót về logic học hoặc những lỗi tối thiểu của việc thể
hiện một cơng trình khoa học.
Trong đào tạo, một nghiên cứu sinh, một sinh viên Cao học hoặc sinh viên Ðại học

trước khi tốt nghiệp phải một luận án hoặc luận văn. Khơng nói đến q trình nghiên cứu,
chỉ đề cập đến các bản luận văn ấy cũng thấy được rất nhiều thiếu sót sơ đẳng của tác giả,
như: không biết giới hạn đề tài, không biết đặt tên đề tài cho chính xác với nội dung, khơng
biết trích dẫn, định nghĩa sai, không biết sắp xếp tài liệu tham khảo, thiếu mở đầu, thiếu kết
luận... Cái thiếu sót lớn nhất của đa số tác giả là bài viết lan man, không làm cho người đọc
tập trung vào nội dung chính (cái mà mình muốn đem đến cho người đọc).
Vì những lí do trên mà hiện nay có khơng ít tài liệu với nhan đề Phương pháp nghiên
cứu khoa học. Tùy vào từng đối tượng, tùy vào mỗi ngành, nghề mà các tác giả đi vào
những nội dung có độ nông sâu khác nhau. Qua thực tế giảng dạy cho một số khóa học Cao
học và sinh viên Sư phạm, chúng tôi cũng xác định được đối tượng của mình cũng như
những nhu cầu tối thiểu của họ trong lĩnh vực NCKH. Với thời lượng hạn hẹp cho phép đối
với học trình này, chúng tơi lựa chọn những nội dung cơ bản nhất cho bài giảng của mình.
Bài giảng sẽ hỗ trợ cho người học những công đoạn nghiên cứu khi đã có đề tài và đặc biệt
là cơng đoạn trình bày kết quả nghiên cứu của mình.
Bài giảng PPNCKH này được chia làm 4 phần:
Phần 1: Khoa học và nghiên cứu khoa học (3 tiết).
Phần 2: Các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục (7 tiết).
Phần 3: Các hình thức nghiên cứu khoa học (6 tiết).
Phần 4: Logic học và nghiên cứu khoa học (4 tiết).
Ðối với sinh viên, chương trình sẽ được nối tiếp theo 10 tiết học về Thư viện, phần này
sẽ do Thư viện đảm trách. Ðối với các đối tượng khác (Cao học và NCS), bài giảng này sẽ
được bố sung thêm nội dung, chủ yếu là trình bày luận văn phù hợp với đối tượng và chuyên
môn từng ngành, và luyện tập PPNC. Vì vậy họ có thể lấy bài giảng này làm tài liệu tham
khảo chính được.

Chương 1


KHOA HỌC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Từ khóa: - Khoa học

- NCKH
- Sự kiện
- Sáng tạo
- Lĩnh vực nghiên cứu khoa học
Tóm tắt nội dung:
Phần này sẽ giới thiệu tóm tắt các khái niệm cơ bản về khoa học và nghiên cứu khoa
học để người học có cái nhìn tổng quan về những công việc và yêu cầu đối với một người
làm công tác nghiên cứu khoa học. Trong khái niệm về khoa học, ý nghĩa và quá trình phát
triển của nó sẽ được đề cập đến để đoạn sau nói đến cơng việc của nhà nghiên cứu, trong
đó chú trọng đánh giá mối quan hệ giữa sự kiện và tư duy cũng như những điều kiện để có
tư duy sáng tạo.
Yêu cầu sinh viên:
- Nắm một cách khái quát công việc và yêu cầu đối với người làm công tác NCKH.
- Xác định được tầm quan trọng của sự kiện trong mối quan hệ giữa chúng với tư
duy lí luận, của những điều kiện cho tư duy sáng tạo.
1. KHOA HỌC:
1. Khái niệm:

TOP

Khoa học (KH) là hệ thống những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy, về những
qui luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy, hệ thống tri thức này hình
thành trong lịch sử và khơng ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội.
Trong định nghĩa này cần chú ý đến các ý sau:
- Hệ thống tri thức về tự nhiên, kĩ thuật, công nghệ, xã hội, tư duy.
- Hệ thống tri thức về qui luật khách quan.
- Hình thành qua lịch sử, phát triển từ thực tiễn đó là các logic khoa học chuyên
ngành, ngay cả khoa học chính trị, quân sự.
Nếu hiểu KH là một lĩnh vực (không chỉ là tri thức) hoạt động nghiên cứu nhằm mục
đích sản xuất ra những tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư duy thì nó bao gồm: Nhà KH,

cơ quan, trang thiết bị KH, các phương pháp nghiên cứu v.v....[9].


2. Ý nghĩa của KH:

TOP

Người ta vẫn nói rằng KH là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, làm cho con
người ngày càng văn minh hơn, nhân ái hơn, sống tốt hơn và vững tin hơn vào chính bản
thân mình trong cuộc sống. Cụ thể những nội dung đó là:
- Con người hiểu được tự nhiên, nắm được các qui luật biến đổi, chuyển hóa của vật
chất, chinh phục tự nhiên theo qui luật của nó.
- Con người nắm được các qui luật vận động của chính xã hội mình đang sống và
vận dụng chúng để thúc đẩy xã hội ấy phát triển nhanh chóng hơn.
- Con người ngày càng có ý thức, càng thận trọng hơn trong việc nhận thức KH:
không vội vã, không ngộ nhận, không chủ quan, tiến vững chắc đến chân lí của tự nhiên.
- Khoa học chân chính chống lại những quan điểm sai trái (mê tín dị đoan, phân biệt
chủng tộc...).
- Khoa học làm giảm nhẹ lao động của con người, cải thiện chất lượng cuộc sống.
Vấn đề 1-1: Tìm ví dụ cụ thể chứng minh cho các ý nghĩa đã đưa ra ở trên.
3. Quá trình phát triển của KH:
1.3.1. Các dấu hiệu về hình thức của sự phát triển:
- Từ không biết đến biết.
- Từ đơn giản đến phức tạp.
- Từ hình thức đến bản chất.
- Từ rời rạc đến hệ thống.
- Từ ít đến nhiều.
- Từ chậm đến nhanh.
1.3.2. Các dấu hiệu về bản chất của sự phát triển:
- Sự đấu tranh (con người với thiên nhiên, con người với con người).

- Sự riêng biệt và thống nhất (sự phân chia và sự nối liền các ngành khoa học).
- Sự tăng tốc.
1.3.3. Nguyên nhân của sự phát triển:

TOP


- Nhu cầu của con người (ghi chép, truyền đạt, lao động).
- Nhu cầu của chính khoa học.
- Phát hiện sự kiện (do nghiên cứu, do giao lưu, viễn chinh).
- Sự xuất hiện của ngôn ngữ.

4. Ðộng lực phát triển của KH:

TOP

1/ Thực tiễn con người và tự nhiên:
- Lao động sản xuất để phát triển cuộc sống.
- Tìm hiểu tự nhiên để cùng sống với tự nhiên.
2/ Thực tiễn xã hội và sự phát triển của lịch sử:
- Các quan hệ trong xã hội.
- Phương thức sản xuất thay đổi.
3/ Thực tiễn quan hệ giữa con người và con người:
- Giáo dục.
- Tâm lí.
- Y tế.
- Chiến tranh.
4/ Thực tiễn sự phát triển của khoa học:
- Sự kích thích của khoa học đối với các nhà khoa học. (đôi khi khoa học đi trước
nhu cầu của thực tiễn).

- Sự kế thừa của các nhà khoa học.
- Sự đấu tranh giữa các quan điểm.
Kết luận: Thực tiễn là nguồn gốc và là chân lí của khoa học.
5. Vai trị của sự kiện trong tư duy và lí luận:

TOP


( Sự kiện, đó là những gì xảy ra trong tự nhiên, xã hội do quá trình vận động và phát triển
của tư duy mà con người quan sát được hoặc trực tiếp (bằng các giác quan) hoặc gián tiếp
(bằng phương tiện hỗ trợ).
Ðặc điểm của sự kiện là:
- Mới lạ (về thời gian, không gian hoặc bản chất).
- Hiện thực (quan sát được).
- Tuân theo qui luật nhân quả rất rõ rệt.
- Phức tạp.
( Lí luận, đó là sản phẩm của tư duy của con người (thể hiện qua các hệ thống tín hiệu)
nó phản ánh, sắp xếp lại sự kiện có trật tự , móc nối các sự kiện có liên quan lại với nhau để
tìm ra qui luật của tự nhiên, xã hội. Ví dụ: Sự phát triển của xã hội lồi người, phản xạ có
điều kiện, khơng điều kiện, các định luật vật lí, hóa học, sinh học, các định lí tốn học....
( Sự kiện và lí luận được gắn liền nhau bởi q trình hoạt động tư duy tích cực của con
người. Q trình ấy có thể là:
- Làm lộ rõ sự kiện chính (do phân tích) để tìm ra cái bản chất của nó. Ví dụ: phân
loại động thực vật, các kết quả quan sát trên bầu trời và hệ thống Nhật tâm của Copernic,
chiến tranh phi nghĩa và chiến tranh chính nghĩa.
- Làm đơn giản hóa sự kiện (trừu tượng hóa, mơ hình hóa). Các thí nghiệm nhà
trường, các loại bản đồ, các mơ hình, mẫu vật, các đặc trưng cho một hình thái xã hội....
- Ðưa ra những kết luận cần thiết hoặc tìm thấy những qui luật mới (tổng hợp, trừu
tượng hóa, khái quát hóa v.v...).
Bản thân sự kiện chỉ là một mớ nguyên liệu, chưa phải là khoa học. Nhờ có tư duy

tích cực dựa vào các qui luật triết học (tư duy lí luận) mà con người tìm ra những mối liên hệ
tất yếu của các sự kiện. Ðó là các kết luận khái quát: các qui luật, các tính chất, các hình
thái.... Nếu nó là quả (theo ngun lí nhân quả) thì người ta sẽ tìm ra cái nhân. Ngược lại, từ
sự kiện đang được nghiên cứu, người ta có thể nhìn thấy trước những quả tiếp theo. Hệ
thống lí luận ấy là sản phẩm của tư duy của con người, là khoa học.
Tuy nhiên, KH cũng nghiên cứu những sự kiện ngẫu nhiên vì ngẫu nhiên cũng là một
trong những hình thức hoặc yếu tố của sự biểu hiện cái có qui luật.
Kết luận: Sự kiện khơng có tư duy lí luận thì sẽ khơng có khoa học, hoặc xem nhẹ tư
duy lí luận thì sẽ làm con người mất khả năng đi sâu vào bản chất của tự nhiên và xã hội.
Ngược lại, coi thường hoặc khơng cần sự kiện thì tư duy lí luận sẽ trở thành duy ý chí.


II. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC:
1. Khái niệm:

TOP

Kho tàng tri thức của loài người ngày một nhiều là do các thế hệ con người nối tiếp
nhau làm nên, trong đó, chủ yếu là kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học. Vậy, nghiên
cứu khoa học là gì ?
Nghiên cứu là một cơng việc mang tính chất tìm tịi, xem xét cặn kẽ một vấn đề nào
đó để nhận thức nó hoặc để giảng giải cho người khác rõ. Ví dụ: nghiên cứu một bài tốn,
nghiên cứu một câu nói để hiểu nó, nghiên cứu bảng giờ tàu để tìm chuyến đi thích hợp cho
mình.
Nghiên cứu có hai dấu hiệu:
-

Con người làm việc (tìm kiếm) tự lực (cá nhân hoặc nhóm)

-


Tìm ra cái mới cho chủ thể, cho mọi người.

Học tập ở nhà trường là quá trình thu lượm tri thức mà lồi người đã có. Tuy những
vấn đề học tập luôn là mới mẻ với bản thân người học song việc tự học tìm tịi, xem xét là
rất ít. Học sinh cần sự chỉ bảo của người thầy. Trong quá trình học tập, học sinh có thể
nghiên cứu những vấn đề nho nhỏ có tính chất tập sự làm việc tự lực. Cũng chính vì vậy mà
ngày nay, trong cơng cuộc cải tiến PPDH, người ta hay nhắc đến cụm từ dạy học khám phá.
Ngoài ý nghĩa về việc phát triển tư duy cho học sinh một cách tích cực, cịn có ý nghĩa khác,
người thầy phải tập cho học sinh có tác phong nghiên cứu ngay từ lúc ngồi trên ghế nhà
trường, trong từng bài giảng. Bậc học càng cao, sự tự lực càng nhiều. Ở bậc đại học, sinh
viên có thể tự làm những vấn đề lớn hơn, những nhiệm vụ học tập mà thầy giáo cho. Cũng
có thể gọi là nghiên cứu.
Con người làm việc, tạo ra sản phẩm (vật chất và tinh thần) cho xã hội. Những sản
phẩm ấy là kết quả của một chương trình đã được định trước. Ví dụ: người cơng nhân sản
xuất ra hàng hóa, người nhạc cơng tập những bài nhạc của nhạc sĩ, nhà kinh tế đi nghiên cứu
một thị trường.... Nếu những sản phẩm ấy do một người, một nhóm người tạo nên là mới mẻ
thì đó là kết quả của cơng việc mang tính chất nghiên cứu. Ví dụ: một mẫu cho sản phẩm
mới, một phong cách biểu diễn mới của nhạc công, một kết luận mới về nhu cầu của thị
trường....
Nếu đối tượng của công việc là một vấn đề khoa học thì cơng việc ấy gọi là nghiên
cứu khoa học. Nếu con người làm việc, tìm kiếm, tuy xét một vấn đề nào đó một cách có
phương pháp thì cũng có thể gọi là nghiên cứu khoa học.
Vậy, nghiên cứu khoa học (NCKH) là việc tìm kiếm, xem xét, điều tra (kể cả làm thí
nghiệm) để từ những dữ kiện có được (số liệu, tài liệu, kiến thức đã có ...) đạt đến một kết
quả mới hơn, cao hơn, giá trị hơn.
Con người muốn NCKH tốt phải có kiến thức và cái chính là phải rèn luyện làm việc
một cách tự lực, một cách có phương pháp từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường.



2. Những công việc chủ yếu của nghiên cứu khoa học:

TOP

1) Thu thập dữ liệu:
Sau khi xác định cho mình một đề tài nghiên cứu thì việc trước tiên là phải tìm
thấy những sự kiện có liên quan đến đề tài. Bằng các phương pháp: điều tra, quan sát, đo
đạc, làm thí nghiệm để có những tài liệu, số liệu cần thiết cho cơng việc phục vụ cho một
mục đích nào đó tiếp theo. Những việc làm ấy được gọi là thu thập dữ liệu. Dữ liệu là sự
kiện được thu gọn lại trong các hình ảnh, con số, văn bản... vì vậy nếu việc thu thập dữ liệu
khơng tốt (khơng thật, khơng chính xác, khơng đa dạng...) thì những kết quả của NCKH sẽ
không trung thực, sai lệch với thực tiễn và tất nhiên sẽ không trở thành khoa học.
2) Sắp xếp dữ liệu:
Qua những hoạt động nghiên cứu ban đầu, ta thu được rất nhiều dữ liệu. Cần sắp
xếp chúng lại theo hệ thống, thứ, loại, thậm chí có thể sàng lọc bớt những dữ liệu khơng cần
thiết hoặc quyết định bổ sung thêm dữ liệu mới để cơng việc cuối cùng được đơn giản hơn.
3) Xử lí dữ liệu:
Ðây là công việc quan trọng nhất, giá trị nhất của NCKH. Một lần nữa, nhà nghiên
cứu phải phân tích các dữ liệu để có thể đốn nhận, khái quát hóa thành kết luận. Nếu dữ
liệu là những con số, cần xử lí bằng thống kê, rút ra kết quả từ các đại lượng tính được. Tư
duy khoa học bắt từ đây.
4) Khái qt hóa tồn bộ cơng trình, rút ra kết luận chung cho đề tài nghiên cứu:
(Việc trình bày đề tài NCKH sẽ là cơng việc cuối cùng và sẽ được trình bày ở
phần 3).
3. Những yêu cầu đối với người NCKH:

TOP

Ai là người có thể NCKH ? Ðó là những người:
1) Có trình độ chun mơn:

Khơng thể nói rằng NCKH là cơng việc của những người có học thức song những
người chưa đủ trình độ học vấn tối thiểu thì khơng thể NCKH được. Nếu vì lí do nào đó mà
những người nay cần NCKH thì chắc chắn họ phải đọc thêm, học hỏi thêm về chun mơn.
Nếu khơng thì những gì họ tìm thấy (là mới, là đúng) thì cũng chỉ dừng lại ở kinh nghiệm.
Những kinh nghiệm quí báu ấy cần được kiểm tra, xác định phạm vi ứng dụng... của người
có chun mơn. Ðôi khi người NCKH không những cần kiến thức của lĩnh vực mình mà cịn
cần kiến thức trong những lĩnh vực gần gũi hoặc có liên quan.
Ngồi ra, người làm cơng tác NCKH cần có kĩ năng sử dụng máy móc, thiết bị kĩ
thuật để cơng việc được tiến triển nhanh hơn, kết quả chính xác hơn.
2) Có phương pháp làm việc khoa học:


Ðó là:
- Khả năng và phương pháp tư duy.
- Khả năng phát hiện vấn đề và nhìn nhận vấn để bắt đầu nghiên cứu.
- Khả năng thu và xử lí, số liệu: thu số liệu bằng phương tiện gì, cách thu số liệu,
cách phân tích, lọc lựa số liệu....
- Khả năng vạch kế hoạch làm việc thật khoa học, tiết kiệm thời gian và kinh tế.
- Khả năng trình bày vấn đề khoa học: có kĩ thuật, rõ, dễ hiểu.
3) Có các đức tính của một nhà khoa học chân chính:
- Say mê khoa học.
- Nhạy bén với sự kiện xảy ra.
- Cẩn thận khi làm việc.
- Kiên trì nghiên cứu.
- Trung thực với kết quả.
III. CÁC LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC:
1. Nghiên cứu cơ bản:

TOP


Nghiên cứu cơ bản là những hoạt động nghiên cứu tìm ra những qui luật chung
những hướng đi lớn (nghiên cứu nguồn gốc của sự sống, nghiên cứu hệ thống giáo dục quốc
dân, nghiên cứu mơ hình kinh tế, nghiên cứu vật lí, hóa học...) tìm ra loại ngun liệu mới,
tìm ra những cơng cụ toán học mới v.v... kết quả của nghiên cứu cơ bản cịn nằm trong
phịng thí nghiệm, trong tài liệu viết, trong tủ kính (hàng mẫu). Nghiên cứu cơ bản ln đi
trước các loại hình nghiên cứu khác.
2. Nghiên cứu ứng dụng:

TOP

Ðây là công việc của lực lượng đông đảo nhất của các nhà khoa học với xu hướng là
đưa các kết quả của nghiên cứu cơ bản vào phục vụ cho xã hội lồi người. Khơng có họ, mọi
nghiên cứu khoa học đều vô nghĩa. Tuy nhiên các kết quả ứng dụng cũng vẫn cịn trong
phịng thí nghiệm, nó còn một khoảng cách khá xa để đến với xã hội bởi vì tính kinh tế, tính
thuận tiện, tính địa phương cũng như khả năng sản xuất hàng loạt đã chưa cho phép.
3. Nghiên cứu triển khai:

TOP


Ðây mới là ý nghĩa chính của khoa học. Khoa học đã đến với từng người trong xã
hội (cuốn sách giáo khoa, tủ lạnh, máy tính, bộ quần áo...). Khi triển khai, người ta chia làm
hai giai đoạn:
- Triển khai thí điểm (hoặc trình diễn)
- Triển khai đại trà.
Ví dụ:
a) Nghiên cứu SGK:
- Nhà lí luận dạy học nghiên cứu quá trình dạy học, các nguyên tắc dạy học...
(NCCB).
- Các nhà lí luận dạy học bộ mơn vận dụng vào việc tìm kiếm một cấu trúc sách

giáo khoa với nội dung phù hợp cho lứa tuổi, cho thời đại ... (NC ứng dụng).
- Các nhà lí luận dạy học, giáo viên... triển khai bộ SGK ở một số trường, một số
khu vực. Họ tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh... để có bộ SGK cho tồn quốc (NC triển khai).
b) Nghiên cứu chất siêu dẫn:
- Nhà vật lí tìm ra chất siêu dẫn (NCCB).
- Các nhà vật lí và kĩ thuật cố gắng đưa chất siêu dẫn vào thực tế kĩ thuật và đời
sống. Trước tiên, cần tạo ra mẫu siêu dẫn trong PTN phù hợp với thực tiễn (nâng nhiệt độ
chất siêu dẫn lên). Tuy nhiên, hiện nay các kết quả nghiên cứu ứng dụng vẫn còn nằm trong
PTN và đang được các nhà khoa học cải tiến thêm để có thể đưa vào sản xuất và sử dụng đại
trà.
- NC triển khai: chưa !
4. Nghiên cứu dự báo:

TOP

Càng ngày càng xuất hiện nhiều những nhà khoa học nghiên cứu, phán đoán những
vấn đề trong tương lai thuộc nhiều lĩnh vực: xã hội, môi trường, dân số, kiến trúc... Những
nghiên cứu của họ đều xuất phát từ những sự kiện hiện tại, sự tiến triển có logic, có hệ thống
trong lịch sử, những tính tốn và suy luận khoa học, Những cơng trình của họ có ý nghĩa rất
quan trọng cho xã hội lồi người, giúp cho con người có cái nhìn rộng hơn, xa hơn, định
hướng cho sự phát triển của xã hội, của ngành mình... cũng như tránh khỏi những hiểm họa
có thể có do chính con người gây ra. Những cơng trình nghiên cứu dự báo cũng rất có ý
nghĩa đối với sự nghiệp giáo dục, khơng chỉ riêng ở một quốc gia nào. Bởi trong sự phát
triển chung của xã hội cũng như sự đòi hỏi của chính xã hội đối với giáo dục, hiện nay có rất
nhiều các cơng trình nghiên cứu dự báo về nội dung, hình thức tổ chức giáo dục, phương
tiện và phương pháp giáo dục trong tương lai.

Chương II



CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC
I.

II.

III.
IV.

V.

VI.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.
Khoa học giáo dục
2. Các hướng nghiên cứu của khoa học giáo dục
3. Đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục
4. Các quan điểm cơ bản về phương pháp luận NCKHGD
PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT
1.
Khái niệm
2. Chức năng của PPQSSP
3. Các công việc của PPQSSP
4. Hai kiểu quan sát
5. Đặc điểm của phương pháp quan sát
6. Những điểm cần chú ý
PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA GIÁO DỤC
1.
Khái niệm
2. Các bước đi của phương pháp điều tra giáo dục

PHƯƠNG PHÁP TỔNG KẾT KINH NGHIỆM(PPTKKN)
1.
Mục đích của PPTKKN
2. Các bước tiến hành
3. Chú ý
4. Các ví dụ về PPTKKN
PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM(PPTNSP)
1.
Khái niệm
2. Đặc điểm của PPTNSP
3. Tổ chức TNSP
XỬ LÝ THƠNG TIN BẰNG THỐNG KÊ VÀ BIỂU ĐỒ
1.
Mã hố số liệu
2. Phương pháp thống kê (PPTK) để xử lý thông tin
3. Việc dùng đồ thị, biểu đồ cho kết quả

Chương II
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC

Từ khóa:

- Khoa học giáo dục
- Ðề tài nghiên cứu khoa học giáo dục
- Quan sát sư phạm
- Ðiều tra giáo dục
- Tổng kết kinh nghiệm


- Thực nghiệm sư phạm

Tóm tắt nội dung:
Phần này sẽ tập trung vào một số phương pháp nghiên cứu khoa học sư phạm định
tính. Thật ra, các phương pháp này khơng dành riêng cho ngành sư phạm mà có thể được
dùng cho tất cả các ngành khoa học xã hội. Nếu vận dụng chúng, xét các ví dụ với nội dung
xã hội nói chung thì đó là các phương pháp nghiên cứu định tính các ngành khoa học xã
hội. Các phương pháp được giới thiệu ở đây sẽ là: phương pháp quan sát, phương pháp
điều tra (hay thăm dò), phương pháp tổng kết kinh nghiệm và phương pháp thực nghiệm sư
phạm. Gọi là các phương pháp nghiên cứu định tính bởi vì chúng dựa vào các thơng tin thu
thập được để suy luận, rút ra những kết luận là cơ sở cho những đề tài tiếp theo hoặc những
kết luận trên bình diện hẹp của vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên điều đó khơng có nghĩa là
khơng nói đến tốn học. Các thơng tin bằng số hoặc được mã hóa bằng số, đặc biệt là các
thông tin của phương pháp thực nghiệm sẽ phải được biểu diễn bằng các đại lượng thống
kê đơn giản, bằng đồ thị, biểu bảng... Vì vậy, ở cuối phần này sẽ được trình bày sơ lược vài
vấn đề toán học thống kê đơn giản. Việc tính tốn thống kê ở những đề tài với qui mô lớn và
phức tạp sẽ được giới thiệu ở các giáo trình tốn học thống kê, thống kê xã hội học (phương
pháp nghiên cứu khoa học định lượng).
Yêu cầu đối với sinh viên:
Sinh viên cần nắm các yêu cầu của các phương pháp nghiên cứu, luyện tập nhiều
để có những kĩ năng tối thiểu cho các hoạt động nghiên cứu khoa học được đề cập tới trong
bài giảng.
I. NHỮNG VẤN ÐỀ CHUNG:
1. Khoa học giáo dục:

TOP

Phương pháp dạy học, phương pháp giáo dục cũng như việc tổ chức dạy học đã có
cách đây hàng ngàn năm. Song những cơng việc đó, trong một thời gian dài, chỉ dừng lại ở
tài năng và kinh nghiệm cá nhân, không thành một vấn đề khoa học cần được nghiên cứu
một cách nghiêm túc. Không rõ Nhà trường được xuất hiện trên thế giới từ lúc nào song có
lẽ khi đó mới bắt đầu các nhà sư phạm nghiên cứu về công việc của nhà trường. Lí do là:

- Nhà trường phải đáp ứng yêu cầu của giai cấp thống trị là tạo ra mẫu người phù
hợp nhất phục vụ cho giai cấp ấy.
- Nhà trường phải luôn phát triển bởi sự phát triển của xã hội (về tư tưởng), bởi sự
phát triển của khoa học (về nội dung dạy học), bởi sự phát triển của kĩ thuật (về cơ sở vật
chất, phương tiện dạy học).
- Nhà trường nói chung, các thầy giáo nói riêng ln muốn chứng tỏ rằng mình có
khả năng đào tạo tốt nhất.
Nhiều tư tưởng về giáo dục (ở đây chỉ nói thuần túy về việc dạy người) đã được đề
cập từ cổ chí kim, từ Tây sang Ðơng xuất phát từ kinh nghiệm cũng như từ những triết lí về


con người. Bắt đầu từ thế kỉ thứ XI, việc nghiên cứu giáo dục mới thật sự trở thành một
ngành khoa học, được đánh giá từ thời điểm các nhà giáo dục biết đưa khoa học tâm lí vào
q trình dạy học. Dạy học và phát triển con người là hai mặt của việc đào tạo con người,
gắn bó mật thiết với nhau. Con người, nếu muốn trở thành con người cần phải có học vấn
(Comenxki). Ngược lại, dạy học mà không chú ý đến sự phát triển của con người thì khó đạt
hiệu quả cao.
Hơn một thế kỉ nay, khoa học sư phạm đã khẳng định được mình là một ngành khoa
học có nét đặc thù riêng, khơng những nó tận dụng được mọi thành tựu của các ngành khoa
học xã hội, tự nhiên và kĩ thuật mà nó còn là nơi nghiên cứu để tạo ra những lớp người trở
lại làm việc thúc đẩy các ngành khoa học ấy phát triển cho tới ngày hôm nay.
2. Các hướng nghiên cứu của khoa học giáo dục:

TOP

Nhà trường trên thế giới phát triển rất nhanh cho nên việc nghiên cứu KHGD khơng
bó gọn trong mơi trường trường học nữa mà tự nó cũng thấy được, q trình giáo dục, q
trình dạy học phải nằm trong một hệ thống giáo dục thống nhất của một quốc gia, chịu sự
chỉ đạo trực tiếp của những người quản lí giáo dục. Hay nói khác đi, những vấn đề vĩ mô
của giáo dục phải được nghiên cứu cặn kẽ mang tính chiến lược giáo dục quốc gia. Vì vậy

có 4 hướng nghiên cứu KHGD hiện nay:
Hướng 1: Nghiên cứu hệ thống giáo dục quốc dân.
Trong sự phát triển của xã hội cũng như sự tăng lên theo cấp số nhân về tri
thức, hệ thống trường, lớp cũng phải thay đổi theo. Nhu cầu của xã hội về số lượng người
đào tạo, sự phát triển tâm sinh lí của học sinh... cũng làm cho các nhà KHGD suy nghĩ, tìm
tịi các loại hình trường, các dạng đạo tạo, số năm đào tạo v.v... Ðó là các đề tài của hướng
nghiên cứu 1.
Hướng 2: Nghiên cứu quá trình giáo dục.
Quá trình giáo dục (QTGD) hiểu theo nghĩa hẹp: các hoạt động của giáo viên
chủ nhiệm cũng như việc tổ chức phong trào thi đua của lớp, trường. Hoặc có thể hiểu theo
nghĩa rộng: Các mối liên kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc xây dựng toàn
diện một nhà trường (kể cả trong dạy học) song không đi sâu vào phương pháp dạy học.
Ðối với người giáo viên, việc nghiên cứu giáo dục học sinh cá biệt (kém, giỏi) và tổ
chức phong trào của lớp chủ nhiệm là hai mảng đề tài thường gặp và cần thiết nhất. Cơ sở
cho các cơng trình nghiên cứu này là tâm lí học, các nguyên lí giáo dục, các quan niệm vềì
con người trong xã hội.
Hướng 3: Nghiên cứu quá trình dạy học.
Hướng đề tài này có nội dung rất phong phú. Q trình dạy học là q trình
chính yếu của mọi nhà trường. Các nội dung nghiên cứu sẽ là:
-

Nghiên cứu nội dung dạy học.


-

Nghiên cứu các phương pháp dạy học.

-


Nghiên cứu sử dụng, cải tiến, chế tạo dụng cụ dạy học.

-

Nghiên cứu đào tạo học sinh giỏi cũng như nâng kết quả học tập của học sinh

-

Nghiên cứu các hình thức tổ chức dạy học.

kém.

...
Hướng 4: Nghiên cứu quản lí giáo dục.
Hướng đề tài này cũng bao gồm các công việc nghiên cứu mang tầm vĩ mơ.
Quản lí giáo dục khơng tốt sẽ không đem đến kết quả theo ý muốn đối với bất cứ nền giáo
dục nào. Nội dung nghiên cứu không những nhằm vào các trường học mà còn vượt ra ngồi
chúng, nghĩa là nhằm vào các cơ quan quản lí giáo dục cũng như cán bộ quản lí giáo dục các
cấp.
Theo sự phân chia trên, các nhà nghiên cứu giáo dục dễ dàng định cho công việc
nghiên cứu cũng như trao đổi thông tin với nhau. Tuy nhiên, mọi sự phân chia trong khoa
học, đặc biệt là khoa học giáo dục đều mang tính tương đối, dù cho cơ sở để phân chia là
giống nhau. Có nghĩa là, có những đề tài liên kết hai hoặc nhiều hướng nghiên cứu với nhau,
đặc biệt là các chương trình nghiên cứu có tầm cỡ quốc gia.
Ví dụ: Khi nghiên cứu tìm hệ thống giáo dục phù hợp cho một quốc gia thì không thể
tách rời việc nghiên cứu về cơ sở vật chất ở các trường học, nội dung sách giáo khoa cũng
như khơng thể khơng nói đến đội ngũ quản lí giáo dục....
3. Ðề tài nghiên cứu khoa học giáo dục:

TOP


Thực chất của một đề tài NCKHGD là một câu hỏi và tiếp theo là những giải đáp.
Câu hỏi xuất phát từ những mâu thuẫn nhận thức, hành động nảy sinh từ lí luận hay thực tiễn
QTGD mà trước đây chưa ai trả lời được.
Cần chú ý:
- Câu hỏi: không phải là một câu hỏi thông thường để người ta trả lời vài ba câu là
xong mà là một tình huống, một vấn đề địi hỏi có thời gian nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu...
và cuối cùng là một loạt những kết luận được rút ra.
- Cũng có thể câu hỏi đó đã được giải quyết ở nơi khác, trong điều kiện khác nhưng
tại địa phương lại nảy sinh những mâu thuẫn mới cần giải quyết tiếp cho phù hợp điều kiện
thực tiễn.
- Nhiệm vụ của đề tài là: giải đáp những điều chưa rõ, đem lại cái hoàn thiện hơn, có
thể phát hiện qui luật hoặc những kết luận mang tính phổ biến, có thể phát hiện cái mới hoặc
cách làm nào đó hợp qui luật hơn.


Tóm lại, một đề tài NCKHGD chỉ được chấp nhận khi nó hướng đúng vào giá trị lí
luận, thực tiễn nhất định và có ý nghĩa đối với giáo dục.
4. Các quan điểm cơ bản về phương pháp luận NCKHGD:

TOP

Một đề tài nghiên cứu KHGD muốn được chặt chẽ, mang tính thuyết phục thì cần
phải tn thủ các mối quan hệ cũng như những qui định sau (gọi là các quan điểm):
1) Quan điểm hệ thống - cấu trúc:
Một vấn đề nảy sinh trong bất cứ lĩnh vực nào, thời điểm nào đều được qui định
bởi hoàn cảnh, sự vật, sự việc xung quanh. Hay nói khác đi, bản chất sự vật là khơng riêng lẻ
mà nó là bộ phận của toàn thể, ta vẫn gọi là một chỉnh thể chứa đựng vấn đề ấy. Ðiều đó cho
thấy khơng thể kéo riêng sự việc, vấn đề ra để nghiên cứu mà là phải nghiên cứu nó trong
một mạng lưới với các mối liên hệ ràng buộc. Ta gọi đó là hệ thống của vấn đề nghiên cứu.

Khi phân tích sâu hơn, các mối liên hệ, sự phụ trên dưới (loại, hạng), mối liên hệ
hàng ngang, sự phụ thuộc bản chất, không bản chất... người ta sẽ thấy một cấu trúc rõ ràng
của cái gọi là mạng lưới, đã được nói ở trên.
Vậy là: Hệ thống các vấn đề có liên quan ln mang tính cấu trúc và ngược lại, cấu
trúc các sự vật là nhằm thống nhất chúng trong một hệ thống tồn tại khách quan. Quan điểm
này nhằm chỉ đạo người nghiên cứu một sự nhất quán trong tư duy cũng như tôn trọng sự
tồn tại khách quan của vấn đề nghiên cứu.
Mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa hệ thống và cấu trúc còn cần được thể hiện
ở cách trình bày vấn đề sau khi đã được giải quyết (bài viết). Kĩ năng này sẽ được nhắc đến
ở phần 3 của bài giảng này.
2) Quan điểm lịch sử - logic:
Ở đây muốn nói đến sự tồn tại tất yếu của mọi sự vật, sự việc trong diễn biến của
thời gian. Ðó chính là lịch sử sự hình thành và phát triển của vấn đề. Những thể hiện hiện tại
của vấn đề đều mang đậm dấu ấn của thời gian và môi trường (xã hội, tự nhiên). Lịch sử là
phức tạp, là muôn màu muôn vẻ và nhiều ngẫu nhiên song vẫn bị chi phối bởi cái tất nhiên.
Cái tất nhiên ấy chính là logic khách quan của sự vật, sự việc. Khơng chú ý đến tính lịch sử,
tức là khơng tơn trọng sự hình thành và phát triển tất yếu của sự việc trong một quá trình, tức
là không tôn trọng qui luật khách quan của tự nhiên và xã hội (xem thêm các qui luật của
logic học - phần 4).
Cho nên, lịch sử chính là logic. Như Anghen đã viết: Phương pháp logic chẳng qua là
phương pháp lịch sử, chỉ có khác là nó đã thốt khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu
nhiên pha trộn. Lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tư duy cũng bắt đầu từ đó..
3) Quan điểm thực tiễn:
Nguyên lí giáo dục cơ bản của Ðảng ta là: lí thuyết gắn liền với thực tế. Ðiều này
có thể diễn dịch ra rằng, mọi vấn đề nghiên cứu phải xuất phát từ thực tiễn và quan trọng


hơn nữa, chúng phải phục vụ cho thực tiễn. Vì vậy giá trị của một cơng trình NCKHGD
được thể hiện ở sự kết hợp hài hịa giữa lí luận chung với kinh nghiệm của thế giới và thực
tiễn địa phương.

Vấn đề 1-2:
Giả sử có một học sinh cá biệt kém trong lớp chủ nhiệm. Ðể giáo dục, đưa em học
sinh đó vào quĩ đạo hoạt động của lớp, cần chú ý thể hiện các quan điểm trên vào công việc
nghiên cứu của bạn như thế nào?
II. PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT:
TỪ KHĨA: QUAN SÁT - THƠNG TIN - PHIẾU QUAN SÁT - ÐỐI TƯỢNG
QUAN SÁT - CHỦ THỂ QUAN SÁT
Quan sátchụp hình - Quan sát tổng hợp

1. Khái niệm:

TOP

Phương pháp quan sát (PPQS) được dùng cho mọi lĩnh vực nghiên cứu của KHXH,
kể cả một số lĩnh vực của khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật.
- KHXH: Quan sát các động tác lao động của người công nhân, quan sát khơng khí
học tập, quan sát các nút giao thơng, quan sát tiếp thị...
- Khọc học tự nhiên: quan sát sự phát triển của một loại cây, quan sát diễn biến và
kết quả thí nghiệm....
- Khoa học kĩ thuật: quan sát kết quả xử lí ở các ruộng lúa, vừa quả, quan sát vận
hành máy móc....
Trong khoa học sư phạm, PPQS tỏ ra có hiệu quả rõ rệt bởi vì những ý đồ sư phạm,
hiệu quả sư phạm được biểu hiện rất rõ nét trong nhà trường. Hơn nữa, việc tổ chức quan sát
khơng gặp nhiều khó khăn, mỗi trường học, bản thân đã là một mơi trường sẵn có cho người
làm công tác giáo dục đến làm việc.
Vậy: QSSP là phương pháp thu thập thơng tin về q trình giáo dục trên cơ sở tri
giác trực tiếp các hoạt động sư phạm cho ta những tài liệu sống về thực tiễn giáo dục để có
thể khái quát nên những qui luật nhằm chỉ đạo tổ chức quá trình giáo dục được tốt hơn.
Phương tiện để quan sát chủ yếu là tri giác trực tiếp. Nếu có khả năng có thể dùng
các phương tiện kĩ thuật hỗ trợ để tài liệu quan sát được xem xét kĩ hơn (máy chụp hình,

quay phim, thu âm...).
2. Chức năng của PPQSSP:

TOP


- Thu nhận thông tin, phát hiện vấn đề từ trong thực tiễn QTGD.
- Kiểm chứng các lí thuyết về giáo dục loại kết quả của phương pháp TNSP.
- Mở đầu cho một PPNCKHSP khác.
3. Các công việc của PPQSSP:

TOP

1) Xác định rõ mục đích quan sát:
Việc xác định mục đích rõ ràng sẽ làm cho người lập phiếu quan sát cũng như
người đi quan sát tập trung hơn vào các nội dung quan sát. Nghĩa là cần trả lời câu hỏi: Quan
sát để làm gì ?
Ví dụ: Cùng một công việc là quan sát sự học tập của một lớp học sinh. Nếu với mục
đích là quan sát sự chú ý của học sinh trong lớp học thì các quan sát sẽ tập trung chủ yếu vào
học sinh. Nhưng, nếu với mục đích là quan sát phương pháp dạy của thầy sao cho thu hút sự
chú ý của học sinh thì các dữ liệu quan sát chủ yếu là ở người thầy, các dữ liệu của học sinh
(ánh mắt, nét mặt...) là để chứng minh cho việc ghi chép hoạt động của thầy nhằm thu hút sự
chú ý của học sinh.
2) Xác định nội dung quan sát và phương pháp quan sát:
Câu trả lời tiếp câu hỏi: quan sát cái gì, quan sát như thế nào và bằng cái gì. Nếu
mục đích quan sát rõ ràng thì nội dung quan sát sẽ dễ dàng được ấn định.
Nội dung quan sát thể hiện qua việc lựa chọn đối tượng quan sát (mẫu quan sát), số
lượng mẫu, định thời điểm quan sát và độ dài thời gian quan sát. Căn cứ vào qui mô của đề
tài và độ phức tạp của mẫu mà quyết định phương pháp, phương tiện quan sát.
3) Chuẩn bị cho người đi quan sát:

a. Lập phiếu quan sát:
Ðể việc quan sát được chủ động và thống nhất giữa các lần quan sát hoặc
giữa những cộng tác viên quan sát, chủ đề tài phải thiết kế bảng yêu cầu các nội dung cụ thể
khi đi quan sát. Bảng này gọi là phiếu quan sát. Phiếu quan sát được cấu trúc thành 3 phần:
- Phần thủ tục: Ðối tượng, địa chỉ, ngày giờ quan sát, người quan sát.
- Phần nội dung: Ðây là phần quan trọng nhất của phương pháp, nó quyết định sự
thành cơng của đề tài nghiên cứu. Có thể gọi đây là phần yêu cầu ghi chép, thu hình cụ thể
khi đi làm việc. Vì vậy các yêu cầu phải thật cụ thể, sao cho người đi quan sát có thể đo,
đếm, ghi được bằng số bằng chữ có hoặc khơng (khơng mang tính chất nhận định cá nhân).
Ví dụ: + Có bao nhiêu người qua lại...?
+ Bao nhiêu học sinh phát biểu ý kiến ?


+ Thầy có thực hiện bước mở bài khơng ? v.v...
Tránh những câu hỏi khơng đếm được, ví dụ:
+ Học sinh có chú ý nghe giảng khơng ?
+ Thầy giảng có nhiệt tình khơng ?
- Phần bổ sung bằng câu hỏi phỏng vấn: Phần này do chủ đề tài quyết định để có thể
xác minh, làm rõ hơn một số thơng tin có thể chưa được rõ khi quan sát. Ví dụ: Khi quan sát
một giờ giảng, để biết được học sinh có ghi chép đầy đủ ý của thầy trên bảng hay khơng, có
thể hỏi thêm: Em có nhìn rõ chữ trên bảng khơng? Em nghe thầy giảng có rõ khơng (về lời
nói, ngữ điệu).
Mọi câu hỏi phải được ghi trước và yêu cầu người quan sát chỉ hỏi theo các câu ấy.
b. Kiểm tra phương tiện quan sát:
c. Tập huấn cộng tác viên: Phương pháp và nội dung.
4) Tiến hành quan sát:
Khi tập huấn xong, người quan sát chỉ cần làm theo mọi yêu cầu trong phiếu quan
sát. Cần chú ý ghi nhận đầy đủ và trung thực.
5) Xử lí:
Tập hợp các phiếu quan sát, sắp xếp số liệu, phân tích để đi đến một nhận định

khoa học.
4. Hai kiểu quan sát:

TOP

a. Quan sát kiểu chụp hình:
Ghi nhận đầy đủ các hoạt động của đối tượng theo thứ tự thời gian.
b. Quan sát kiểu tổng hợp:
Ghi nhận có trọng tâm các hoạt động của đối tượng. Ở kiểu này, người
quan sát cũng ghi các hoạt động theo thời gian nhưng có thể tổng kết một số hoạt động cùng
loại để tính bằng số sau khi kết thúc buổi quan sát.
5. Ðặc điểm của phương pháp quan sát:

TOP

- Các hoạt động sư phạm là rất phức tạp nên người quan sát phải hết sức tập trung và
trung thành với phiếu quan sát.


- Kết quả quan sát có thể bị chi phối bởi chủ thể như: tình trạng sức khỏe, tình cảm,
tính chủ quan hoặc những ảo giác về tâm lí khi làm việc căng thẳng.
6. Những điểm cần chú ý:

TOP

- Khi quan sát, đối tượng được quan sát có thể được báo trước hoặc không, tùy người
chủ đề tài và nội dung quan sát.
- Tránh thời điểm không thuận tiện cho tâm lí, sức khỏe người quan sát.
- Tuyệt đối khơng ghi nhận được có tính chất cá nhân và phiếu quan sát.
BÀI TẬP

Hãy lập phiếu quan sát cho các đề tài nghiên cứu, sau khi các đề tài đó được xác
định mục đích như dưới đây:
1) Quan sát sân trường để đánh giá chủ trương của nhà trường và ý thức của học
sinh về vệ sinh môi trường giáo dục.
2) Quan sát thầy (cô) giảng trong một tiết học để nhận xét các cách mà thầy (cô) thể
hiện nhằm tập trung sự chú ý của học sinh vào bài học.
3) Quan sát một lớp học để có nhận xét về bầu khơng khí học tập của lớp ấy.
4) Quan sát để đánh giá sơ bộ chất lượng một buổi tự học của bạn mình (hoặc em
mình, anh mình) ở kí túc xá (hoặc ở nhà).
5) Quan sát một buổi học của sinh viên một lớp học nào đó (hoặc lớp mình) để sơ bộ
đánh giá kỉ cương học tập của lớp.
6) Quan sát việc học tập của sinh viên tại phòng đọc của thư viện để nhận xét về thư
viện, về tình hình sinh viên sử dụng thư viện.
Chú ý: Cần tập trung vào nội dung của phiếu quan sát (tức là yêu cầu người quan
sát ghi cái gì). Mỗi đề tài quan sát với mục đích trên, viết ít nhất bốn yêu cầu dưới dạng câu
hỏi (xem mục 2.2.3)
III. PHƯƠNG PHÁP ÐIỀU TRA GIÁO DỤC:
Tư khóa: Ðiều tra - Mẫu điều tra - Câu hỏi điều tra - Bảng câu hỏi (bảng hỏi)
1. Khái niệm:

TOP

Cũng như trong nghiên cứu khoa học xã hội, phương pháp điều tra trong giáo dục
được dùng thường xuyên. Khác với phương pháp quan sát, phương pháp này thể hiện qua


việc tác động trực tiếp của người nghiên cứu vào đối tượng nghiên cứu thơng qua câu hỏi để
có những thơng tin cần thiết cho cơng việc của mình.
Tùy theo tính chất quan trọng hoặc tính qui mơ của đề tài nghiên cứu mà người
nghiên cứu có thể hỏi trực tiếp hoặc gián tiếp qua điện thoại, bưu điện bằng một vài câu hỏi

hoặc một bảng câu hỏi.
3.1.1. Mục đích của phương pháp:
Phương pháp này nhằm mục đích thu nhận số liệu, sự suy nghĩ, quan điểm v.v..
trên một số lượng lớn đối tượng nào đó để từ đó có thể phán đốn, tìm ra ngun nhân, tính
phổ biến hoặc biện pháp giải quyết một vấn đề trong giáo dục.
3.1.2. Hai đặc điểm chính của phương pháp:
+ Phương pháp được thực hiện trên số lượng lớn đối tượng.
+ Tuy có số lượng lớn đối tượng, mang tính thống kê nhưng kết quả vẫn chưa phải là
chân lí. Có hai yếu tố ảnh hưởng đến kết quả: chủ quan người trả lời và chủ quan nhận định
của người nghiên cứu. Vì vậy, trước tiên, người nghiên cứu phải có một số kĩ năng và kinh
nghiệm cần thiết, đặc biệt là kĩ năng hỏi và óc suy luận tốt thì mới hạn chế được các nhược
điểm ấy. Ðôi khi, đối với những vấn đề quan trọng cần phải tổ chức thực nghiệm để kiểm
chứng.
3.1.3. Hai loại điều tra:
- Ðiều tra cơ bản trong giáo dục: học vấn chung, kết quả học tập, chỉ số thông minh ở
học sinh, quan điểm của giáo viên (về nhiều vấn đề), tình hình học sinh bỏ học, ý kiến của
phụ huynh học sinh (về nhiều vấn đề), ý thức học sinh với một số vấn đề trong xã hội v.v....
Loại này thường điều tra bằng bảng hỏi.
- Trưng cầu ý kiến về một quan điểm, một cách làm trong giáo dục. Loại này thường
điều tra bằng phỏng vấn trực tiếp.
3.1.4. Các hình thức điều tra trong giáo dục:
- Phỏng vấn có chuẩn bị trước (bằng bảng hỏi): Theo phương cách làm này, nhà
nghiên cứu in sẵn bảng câu hỏi rồi giao cho đối tượng (giao trực tiếp, giao qua cộng tác viên
hoặc qua bưu điện). Tất nhiên nhà nghiên cứu phải làm sao để đối tượng hiểu được mục
đích câu hỏi mà trả lời cho đúng và đúng sự thật.
- Phỏng vấn không chuẩn bị trước: Theo cách này, người nghiên cứu phải có sẵn chủ
đề phỏng vấn để khi làm việc không hỏi lan man. Người phỏng vấn phải là nhà nghiên cứu
lão luyện để có thể ứng phó, tự điều chỉnh hướng trao đổi và đặc biệt là có thể có ngay
những câu hỏi sắc bén, khéo léo và tế nhị. Phương cách này có thể thực hiện cả bằng điện
thoại.



- Nhóm trọng điểm (phương pháp não cơng - Brain Storming): Ðây là một kiểu điều
tra đặc biệt nhằm tìm kiếm những ý tưởng sáng tạo trong công việc. Tiến trình của phương
pháp làm này như sau: Ðể giải quyết một khó khăn nào đó đang bị bế tắc, nhà nghiên cứu tổ
chức một cuộc trao đổi trong một nhóm các nhà chuyên môn (không nhất thiết phải giống
nhau). Những người này rất giàu trí tưởng tượng. Họ được quyền đề xuất bất kì lời giải nào,
thậm chí những đề xuất ấy có vẻ như ngơ nghê, khơng nghiêm túc. Khơng ai được bình luận,
phê phán. Có hai thơ kí ghi trọn vẹn cuộc trao đổi (kéo dài vài giờ).
Nhà nghiên cứu lấy các đề xuất ấy và tổ chức một cuộc trao đổi khác trong nhóm các
chuyên gia giỏi bình luận và nhận xét. Lại một lần nữa, nhà nghiên cứu lắng nghe họ nói để
lọc lựa ý tưởng hay từ nhóm này.
Ðối với cách này, nhà nghiên cứu cần phải đặt vấn đề thật giản dị, dễ hiểu (ở nhóm
trước), biết lắng nghe, ít nói, đồng thời biết gợi ý, hướng các cuộc trao đổi đi đúng hướng và
đặc biệt là biết tìm các chuyên gia cho các nhóm khác nhau.
2. Các bước đi của phương pháp điều tra giáo dục:

TOP

Sau khi xác định được đề tài NC, nhà nghiên cứu phải làm những việc sau:
3.2.1. Chọn mẫu điều tra:
Mẫu điều tra (mẫu khách thể) là số lượng cá thể hay đơn vị được chọn để trả lời câu
hỏi của nhà nghiên cứu. Vì yêu cầu của việc nghiên cứu là phải khách quan, đảm bảo tin cậy
nên mẫu phải thỏa mãn:
- Chọn phần tử phải thật khách quan.
- Kích thước mẫu (số phần tử trong mẫu) phải đủ lớn.
Một số khái niệm cần biết về mẫu:
- Mẫu tổng: Tất cả mọi đối tượng mà nhà nghiên cứu hướng tới. Ví dụ: Trong cuộc
điều về chất lượng học tập của sinh viên trường Ðại học Cần thơ thì mọi sinh viên đều nằm
trong mẫu tổng.

- Mẫu tiêu biểu: Mẫu gồm các thành viên được chọn ra từ mẫu tổng để nghiên cứu.
- Mẫu đặc trưng: Mẫu bao gồm mọi phần tử có nét đặc trưng cần nghiên cứu.
Việc chọn các thành viên để nghiên cứu gọi là lấy mẫu.
1) Lấy mẫu phi xác suất:
Thực tế việc lấy mẫu này chỉ là để thử bảng câu hỏi, nghiên cứu sơ bộ, nên việc chọn
mẫu vẫn mang tính chất ngẫu nhiên, số phần tử khơng nhiều. Có các hình thức như:


a) Lấy mẫu thuận tiện: Khơng chú ý đến tính đại diện, chỉ cần thuận tiện (dễ,
gần, nhanh) cho nhà nghiên cứu.
b) Lấy mẫu tích lũy nhanh: chọn một số phần tử ban đầu, từ các phần tử ấy nhân
ra số phần tử thứ cấp. Ví dụ: chọn 10 học sinh trong lớp, yêu cầu 10 học sinh đó, mỗi em
chọn thêm 3 em khác... Tùy theo số phần tử định nghiên cứu, có thể số phần tử thứ cấp ấy
lại tiếp tục chọn thêm nữa để đủ số lượng phần tử của mẫu.
2) Lấy mẫu xác suất:
a) Lấy mẫu ngẫu nhiên thông thường:
- Bằng cách rút thăm.
- Bằng bảng ngẫu nhiên.
Ngày nay, máy tính sẽ cho phép ta dễ dàng chọn mẫu ngẫu nhiên này.
b) Lấy mẫu hệ thống:
Trường hợp này dành cho các đối tượng điều tra giống nhau, khác với lấy mẫu theo
phân lớp (mục d). Ví dụ: Ðiều tra dân số có đối tượng là mọi người dân; Ðiều tra về học
sinh một trường có đối tượng là mọi học sinh đang học trường đó. Các bước làm như sau:
- Lập danh sách tất cả các phần tử hiện có.
- Tùy kích thước mẫu mà chọn bước nhảy k (tức là: cách mấy số lấy 1 số)
- Lấy các phần tử theo bước nhảy k với phần tử xuất phát là tùy ý, cho đến khi
đủ kích thước mẫu.
3) Lấy mẫu theo nhóm ngẫu nhiên:
Ðơi khi cuộc điều tra trên diện rộng về địa bàn hoặc nhiều đơn vị khác nhau, ta
có thể chọn mẫu theo kiểu này. Ví dụ, khi điều tra về học vấn của mọi người dân của một

tỉnh (mẫu tổng thể - MTT), ta không thể phỏng vấn tất cả dân trong tỉnh đó mà chỉ chọn mẫu
ngẫu nhiên (mẫu nghiên cứu - MNC). Nếu chọn như các kiểu trên thì rất bất tiện. Ta có cách
chọn khác: Giả sử Tỉnh có 3 Huyện, các Huyện có số xã khác nhau (sơ đồ). Nếu 3 Huyện có
mọi điều kiện tương đương nhau thì chúng ta có thể chọn 2 hoặc 1 Huyện làm MNC. Tuy
nhiên không thể lấy hết tất cả các xã ra NC. Vậy là phải chọn ngẫu nhiên các xã. Ở mỗi xã


cũng chọn ngẫu nhiên ấp rồi tiếp tục chọn ngẫu nhiên gia đình.. (xem mục Lấy mẫu xác

suất).

4) Qui mơ mẫu (kích thước mẫu):

Các nhà thống kê đã đưa ra những bảng tính sẵn (dựa vào độ tin cậy và sai số ấn
định trước) để các nhà nghiên cứu lựa chọn kích thước mẫu phù hợp từng loại đề tài. Dưới
đây là một loại bảng như vậy dùng cho trường hợp nghiên cứu sản lượng trung bình, điểm
trung
bình
hoặc
những
nội
dung
tương
tự.

Ví dụ: Ðiều tra để biết mục đích học tập của học sinh trong tỉnh nào đó với độ tin cậy
là 90% và sai số là 0,003 , ta đối chiếu hàng 3 cột 2 của bảng trên, mẫu cần có 755 phần tử.
(Dĩ nhiên khi điều tra, các câu hỏi phải được mã hóa để tính - Xem mục 2.6)
Trong nhiều trường hợp, kích thước mẫu cịn lấy theo kinh phí của đề tài. Ví dụ: đề
tài chỉ nhận được 10.000.000đ trong khi chi phí cho mỗi mẫu điều tra là 15.000đ. Sau khi trừ



mọi chi phí, cịn lại 5.000.000đ, ta quyết lấy mẫu có kích thước là 5.000.000đ: 15.000đ =
333 phần tử.
3.2.2. Thiết kế bảng câu hỏi:
Bảng câu hỏi là một loạt các câu hỏi đưa ra để các cá nhân, đơn vị trở lời. Kết quả trả
lời sẽ được xử lí để có thể nhận định cho mục tiêu đã được đề ra của đề tài nghiên cứu. Vì
vậy, vấn đề chính ở đây là các câu hỏi.
a) Hai loại câu hỏi thường dùng:
1) Câu hỏi đóng: Câu hỏi đóng là loại câu hỏi yêu cầu người trả lời chỉ đánh dấu vào
các khả năng cho trước. Có nhiều loại câu hỏi đóng.
- Loại 2 khả năng trả lời: Bảng câu hỏi chỉ u cầu trả lời có hoặc khơng.

2) Câu hỏi mở: Ðây là loại câu hỏi mà người trả lời có thể nói (viết) vài câu để giải
trình một vấn đề gì đó. Mục đích của câu hỏi này là bổ sung cho các câu hỏi đóng hoặc nhà
nghiên cứu cần hiểu sâu hơn về tâm tư, tình cảm, thái độ của người trả lời đối với vấn đề
đang nghiên cứu.


Chú ý: u cầu người trả lời khơng nói (viết) dài. Nếu là bảng câu hỏi, chừa chỗ viết
cho người trả lời sao cho đủ chứa khoảng 5 câu viết là tối đa.
Ví dụ: Sau khi dùng các câu hỏi đóng về vấn đề học tập của một lớp học mà giáo
viên chủ nhiệm là người trả lời, có thể hỏi thêm một hoặc vài câu hỏi mở:
+ Bạn cho biết thêm về tính phức tạp của lớp.
+ Truyền thống của lớp này (về học tập) từ năm học trước đến bây giờ.
+ Các giáo viên chuyên môn đánh giá về lớp này thế nào?
b) Những chú ý về việc đặt câu hỏi:
·

Câu hỏi phải đơn giản, thích hợp với mục đích nghiên cứu, dễ trả lời.

Tránh việc đặt câu hỏi dài, khơng cần thiết, câu hỏi hình tượng
Ví dụ:
+ Bạn tốt nghiệp đại học sư phạm năm nào ? (tốt)

+ Trường này có nhiều giáo viên lâu năm, có kinh nghiệm, bạn có cho rằng,
bạn thuộc loại giáo viên đó chăng ? (dài dịng khơng cần thiết).
+ Mọi người cho rằng bạn là cây đa cây đề của trường, bạn có đồng ý khơng ?
(hình tượng khơng cần thiết).
·

Khơng dùng những từ ngữ, khái niệm khó hiểu, vượt quá khả năng người trả lời,
từ ngữ nước ngồi...
Ví dụ:
+ Bạn lấy bằng Diplom (hoặc Master) khi nào?
+ Hình như thí nghiệm của bạn là thí nghiệm mơ phỏng?

·

Câu hỏi phải đơn trị (chỉ có một ý trả lời đúng).
Ví dụ:

+ Bạn có định nâng cao trình độ lấy bằng Thạc sĩ khơng? (Nâng cao trình độ
khơng trùng nghĩa với bằng Thạc sĩ. Ðây là câu đa trị)
+ Bạn trở thành giáo viên năm nào? (Có nhiều khả năng: khi kiến tập, thực
tập, dạy bổ túc văn hóa, giáo viên chưa hết tập sự và đã hết tập sự... đều có thể trả lời được Câu đa trị).


×