Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Phong cách thơ Anh Thơ : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 34

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 144 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------ĐINH THỊ LỆ THỦY

phong cách thơ anh thơ

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------ĐINH THỊ LỆ THỦY

phong cách thơ anh thơ

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Lưu Khánh Thơ

Hà Nội – 2010


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1



1. Lý do chọn đề tài

1

2. Lịch sử vấn đề

1

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4

3.1. Đối tượng nghiên cứu

4

3.2. Phạm vi nghiên cứu

4

4. Phương pháp nghiên cứu

5

5. Đóng góp của luận văn

5

6. Cấu trúc luận văn


5

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT.

6

ANH THƠ TỪ THƠ MỚI ĐẾN THƠ CÁCH MẠNG

1. Những vấn đề chung về phong cách nghệ thuật

6

2. Anh Thơ trong hành trình thơ nữ Việt Nam hiện đại

8

2.1. Tác giả Anh Thơ

8

2.2. Anh Thơ quan niệm về nghệ thuật và cuộc đời

9

2.3. Anh Thơ trong phong trào Thơ mới

12


2.3.1. Khái quát về phong trào Thơ mới

12

2.3.2. Đôi nét về các nhà thơ nữ trong phong trào Thơ mới

15

3. Anh Thơ và những chặng đường thơ sau Cách mạng

22

3.1. Thơ ca kháng chiến chống Pháp và những đóng góp của Anh Thơ

22

3.2. Anh Thơ và đội ngũ thơ nữ trong giai đoạn chống Mĩ

25

CHƯƠNG II: PHONG CÁCH ANH THƠ NHÌN TỪ NỘI DUNG TRỮ TÌNH

30

1. Đối tượng thẩm mĩ trong thơ Anh Thơ

30

1.1. Cảnh quê, tình quê trong thơ Anh Thơ trước Cách mạng


30

1.1.1. Cảnh sắc thiên nhiên mang đậm hương vị làng quê

33


1.1.2. Cảnh sinh hoạt lao động nơi làng quê

46
Trang

1.1.3. Những lễ hội, phong tục mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc

51

1.2. Cảnh quê, tình quê trong thơ Anh Thơ sau Cách mạng tháng Tám

61

1.3. Hình ảnh con người trong thơ Anh Thơ

78

1.3.1. Hình ảnh con người trong Bức tranh quê

79

1.3.2. Hình ảnh con người trên những nẻo đường kháng chiến


85

2. Cái tôi trữ tình trong thơ Anh Thơ

92

2.1. Cái tôi trữ tình lãng mạn trong thơ Anh Thơ

92

2.2. Cái tôi trữ tình cách mạng

96

2.2.1. Từ ý thức cá nhân đến ý thức công dân

96

2.2.2. Vị thế và cách nhìn mới về người phụ nữ

98

CHƯƠNG III: PHONG CÁCH THƠ ANH THƠ NHÌN TỪ NGHỆ THUẬT

106

THỂ HIỆN

1. Thể thơ


106

1.1. Thể thơ tám chữ

106

1.2. Thể thơ tự do

109

1.3. Thể thơ lục bát

111

1.4. Thể thơ bảy chữ

112

1.5. Thể thơ năm chữ

113

2. Ngôn ngữ

114

2.1. Ngôn ngữ bình dị, gần gũi với đời thường

115


2.2. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu tính biểu tượng

117

3. Giọng điệu

121

3.1. Giọng điệu nhẹ nhàng, mềm mại giàu nữ tính

121

3.2. Giọng điệu trữ tình, tha thiết, giàu cảm xúc

123

3.3. Giọng điệu rắn rỏi, tự tin, khúc triết

125

KẾT LUẬN

128


TÀI LIỆU THAM KHẢO

131



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Anh Thơ là nhà thơ sáng tác ở cả hai giai đoạn Thơ Mới và thơ Cách
mạng. Mỗi giai đoạn, Anh Thơ đều có những đóng góp nhất định đối với tiến
trình thơ ca dân tộc. Trong phong trào Thơ mới, cùng với Bàng Bá Lân, Đoàn
Văn Cừ, Nguyễn Bính… Anh Thơ đã góp một phần không nhỏ vào thành tựu
của dòng thơ đồng quê.
Những năm sau Cách mạng sức sáng tạo của Anh Thơ vẫn tiếp tục bền bỉ
và dẻo dai. Thơ ca của bà không chỉ thể hiện tình yêu sâu đậm đối với quê
hương đất nước mà còn ca ngợi nét đẹp của con người Việt Nam trong cuộc
kháng chiến, nét đẹp của cuộc sống mới đặc biệt là vẻ đẹp bình dị của người phụ
nữ Việt Nam.
Đóng góp của bà đã phần nào được ghi nhận bằng những giải thưởng có
giá trị như: Giải thưởng của Tự Lực Văn Đoàn trao cho tập Bức tranh quê
(1939); giải thưởng của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ cho truyện thơ Kể
chuyện Vũ Lăng (1956); giải thưởng Nhà nước đợt I về Văn học nghệ thuật năm
2001 và giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2006.
Do đó việc nghiên cứu phong cách thơ Anh Thơ với những đặc trưng
riêng trong cách thức tiếp cận cho phép khám phá cá tính sáng tạo và những nét
độc đáo về mặt nghệ thuật của nhà thơ nhằm xác định vị trí và vai trò của nhà
thơ trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề.
Cũng như hầu hết các nhà Thơ mới, cuộc đời sáng tác của Anh Thơ trải
qua hai chặng đường: những năm trước và sau Cách mạng tháng Tám. Trong
suốt quá trình đó, Anh Thơ đã sáng tác không ngừng nghỉ, điều đó được thể hiện
qua sự xuất hiện của hàng loạt tập thơ.

-1-



Ngay từ khi tập thơ Bức tranh quê xuất hiện trên thi đàn, nó đã trở thành
một hiện tượng mới mẻ, đặc sắc thu hút được sự quan tâm của người đọc. Chúng
tôi xin điểm lại những bài viết cơ bản về thơ Anh Thơ theo trình tự thời gian.
Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam đã có bài viết và nhận
xét về tác giả Anh Thơ, chủ yếu là tập trung nói về Bức tranh quê của nữ sĩ.
Hoài Thanh cho biết: Ông rất kính phục và ngạc nhiên trước tài thơ của Anh
Thơ. Đó là một lối thơ giản dị, mộc mạc, tự nhiên nhưng rất dồi dào cảm xúc mà
không phải ai cũng làm được và ông đã nhận xét về Bức tranh quê: “Tập thơ
này cũng thuộc về lối thơ của người có học” [44, tr189], hay “nhiều lúc tôi
tưởng người đã đi quá xa. Tranh quê có bức chỉ là bức ảnh; cái thản nhiên hàm
xúc của nghệ sĩ đã nhường chỗ cho cái thản nhiên trống rỗng của nhà nghề.
Theo gót thi nhân đến đó, ta thấy uất ức khó thở: Người dẫn ta vào một thế giới
tù túng rồi không cho ta mơ tưởng đến một trời đất nào khác nữa.
Không, thơ phải là một tia sáng nối cõi thực và cõi mộng, mặt đất với các
vì sao. Thơ không cốt tả mà cốt gợi, gợi cảnh cũng như gợi tình. Cho nên mỗi
lần Anh Thơ chịu đi ra ngoài lối tù túng đó để nhìn cảnh vật một cách sâu sắc
hơn, là thơ bỗng trở nên rộng rãi không ngờ và ta thấy khoan khoái biết bao. Sau
câu thơ ta mơ hồ thấy một cái gì: Có lẽ là hồn thi nhân” [44, tr189]. Và Hoài
Thanh đã chọn những bài thơ tiêu biểu để in và Thi nhân Việt Nam như Chiều
Xuân, Trưa hè, Rằm tháng bảy, Bến đò ngày xưa.
Nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến thơ mới nói chung và thơ Anh
Thơ nói riêng.
Việt Nam thi nhân tiền chiến của Nguyễn Tấn Long là một công trình
nghiên cứu khá đồ sộ về Thơ mới. Nguyễn Tấn Long đã tìm hiểu, nhận xét,
thẩm định từng tác giả và đến nữ sĩ Anh Thơ, nhà nghiên cứu đã khẳng định “nữ
sĩ lấy thiên nhiên làm bối cảnh, lấy nếp sống nông thôn làm người sáng tác” [33,
tr1294].

-2-



Trong Thơ Mới - Bình minh thơ Việt Nam hiện đại của Nguyễn Quốc Túy
nghiên cứu tìm hiểu về nguồn gốc ảnh hưởng đối với phong trào Thơ Mới.
Trong bài “Ảnh hưởng của văn hóa dân gian ca dao, dân ca đối với Thơ Mới”
và bài “Có một thế giới cổ tích trong Thơ Mới”, tác giả nhận định: Anh Thơ là
một nhà thơ tiêu biểu với đề tài nông thôn, với cảnh đẹp làng quê.
Trong tác phẩm Một thời đại trong thi ca của Hà Minh Đức đã tập hợp
nhiều bài viết về các tác giả tiêu biểu như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy
Cận… Mặc dù chưa đề cập một cách trực tiếp về Anh Thơ nhưng đã khẳng định
được sự hiện diện của “nhóm thi sỹ đồng quê” trong đó Anh Thơ là một tác giả
tiêu biểu.
Trong cuốn Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca do Giáo sư Hà
Minh Đức và nhà thơ Huy Cận chủ biên, cũng đã tập hợp nhiều bài viết của
nhiều nhà nghiên cứu. Trong bài “Về Thơ mới” Huy Cận khẳng định sự gắn bó
“cội nguồn dân tộc”, “Đất nước và con người được tái hiện trong Thơ mới một
cách đậm đà đằm thắm. Quê hương rõ ràng là máu thịt của hồn thơ trong “Chùa
Hương” của Nguyễn Nhược Pháp, “Bức tranh quê” của Anh Thơ.
Phê bình bình luận văn học của Vũ Tiến Quỳnh, đề cập đến các nhà thơ
nữ tiêu biểu trong đó có Anh Thơ. Công trình nghiên cứu này cho ta thấy vai
trò, vị trí của Anh Thơ trong hành trình thơ nữ Việt Nam và những nét cơ bản
nhất về con người, cuộc đời cũng như những tác phẩm tiêu biểu của Anh Thơ
trước 1945.
Tủ sách văn học trong nhà trường của Lâm Quế Phong, tập hợp những
bài viết nghiên cứu về tác giả Thơ mới: Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Đoàn Văn
Cừ, Anh Thơ. Tập sách đã cho ta một cái nhìn khái quát nhất về toàn bộ sáng
tác của Anh Thơ.
Gần đây ta thấy có một số luận văn viết về Anh Thơ như “Bức tranh quê
trong thơ Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ” của Nguyễn Thị Bình hay
“Dấu ấn văn hóa dân gian trong thơ Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ, Nguyễn


-3-


Nhược Pháp” của Lê Thị Thanh Yên hoặc “Nét đẹp văn hóa làng quê qua sáng
tác của 4 nhà thơ Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, thuộc
phong trào Thơ Mới Việt Nam (1930 - 1945)” của Cao Thị Hảo. Những công
trình nghiên cứu này đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn tổng quát nhất về
tập Bức tranh quê trên nhiều phương diện: con người, thiên nhiên, văn hóa.
Tạp chí Sông Hương, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế,
số 9, năm 2009 có bài viết ca ngợi thơ tình Anh Thơ: “Anh Thơ cũng có thơ tình
nhưng viết theo định hướng nào, không phải là mối tình quê của trai gái vào
buổi hội hè mà chủ yếu là tâm tình của cô gái bước vào tuổi đang yêu. Chỉ có
những tâm trạng và xúc động giàu nữ tính trong buổi đầu đến với tình yêu,
ngượng ngùng, chờ đợi, mong ước và cũng lo lắng băn khoăn” [11, tr20]. Chùm
thơ tình buổi đầu của Anh Thơ góp phần nói lên một phương diện đẹp của tình
cảm Anh Thơ trong phong trào Thơ mới.
Như vậy các công trình nghiên cứu về Anh Thơ trước và sau cách mạng
mới chỉ lướt qua một vài khía cạnh, có tính khái quát mà chưa có những công
trình chuyên sâu nghiên cứu về phong cách thơ Anh Thơ.
Tuy nhiên những ý kiến đánh giá và nhận xét của những nhà nghiên cứu
đi trước là những định hướng quan trọng, đồng thời đó cũng là những gợi ý quý
báu để chúng tôi tham khảo đi vào tìm hiểu thơ Anh Thơ.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu những đặc điểm về nội dung, nghệ thuật và cá tính sáng tạo
của nhà thơ Anh Thơ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
Tìm hiểu các tập thơ chính của Anh Thơ:
Bức tranh quê (1941), Kể chuyện Vũ Lăng (1957), Đảo Ngọc (1963),
Theo cánh chim câu (1965), Hoa Dứa trắng (1967), Mùa xuân màu xanh

(1974), Quê chồng (1977), và những bài thơ lẻ khác đồng thời luận văn còn tìm
-4-


hiểu qua những sáng tác văn xuôi của tác giả để thấy rõ được một cách đầy đủ
về sự nghiệp sáng tác của Anh Thơ. Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành so sánh
thơ Anh Thơ với một số nhà thơ khác để làm nổi rõ hơn những đặc điểm tương
đồng và khác biệt trong phong cách sáng tạo của Anh Thơ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trong quá trình tìm hiểu về phong cách thơ Anh Thơ, luận văn đã sử dụng
những phương pháp nghiên cứu sau đây:
4.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp.
4.2. Phương pháp thống kê.
4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu.
4.4. Phương pháp thi pháp học.
5. Đóng góp của luận văn.
5.1. Về lý thuyết.
Vận dụng lý thuyết phong cách học vào việc nghiên cứu phong cách nghệ
thuật của một tác giả.
5.2. Về thực tiễn.
Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo về phong cách Anh Thơ, đồng thời
vận dụng vào giảng dạy Thơ mới và thơ Anh Thơ trong chương trình phổ thông.
6. Cấu trúc luận văn.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được triển khai trong 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về phong cách nghệ thuật. Anh Thơ từ
Thơ mới đến thơ Cách mạng.
Chương II: Phong cách thơ Anh Thơ nhìn từ phương diện nội dung.
Chương III: Phong cách thơ Anh Thơ nhìn từ phương diện nghệ thuật
thể hiện.


-5-


NỘI DUNG
CHƢƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT.
ANH THƠ TỪ THƠ MỚI ĐẾN THƠ CÁCH MẠNG
1. Những vấn đề chung về phong cách nghệ thuật.
Khi nói đến khái niệm phong cách là nói đến một vấn đề phức tạp bởi từ
trước tới nay chúng ta chưa đi tới một khái niệm phong cách thống nhất, chính
vì vậy có rất nhiều cách hiểu khác nhau về phong cách.
Phong cách được hiểu là những khám phá nghệ thuật mang tính cá nhân
được định hình thành những nét chủ đạo lặp đi lặp lại trong sáng tác của một tác
giả nào đó. Phong cách nghệ thuật trước hết hình thành từ cá tính sáng tạo của
tác giả, nhưng cá tính sáng tạo chưa phải là phong cách. Nhìn chung khái niệm
phong cách thường được dùng để định vị cho những nét nghệ thuật của những
tác giả có đóng góp lớn, trong khi đó bất kỳ nghệ sĩ nào hoạt động trong lĩnh
vực nghệ thuật cũng đòi hỏi cá tính sáng tạo riêng.
Nhà văn Pháp Bufo (Buyffông) định nghĩ: Phong cách chính là người.
Theo Phương Lựu: “Phong cách là cái còn lại hoặc hạt nhân mà sau khi từ
nhà văn chúng ta bóc đi những cái không phải bản thân anh ta và tất cả những
thứ mà anh ta giống với người khác”. Phong cách được ông hiểu có tầm quan
trọng đặc biệt. Một nhà văn không có phong cách tức là anh vẫn còn chưa định
hình được ngòi bút của mình vẫn bị lẫn vào đám đông. Vì quan niệm này, cho
nên nhiều người hiểu khái niệm phong cách bao gồm trong đó sự đánh giá
những đóng góp lớn lao về mặt nghệ thuật.
-6-



Chẳng hạn phong cách của các tác giả lớn trong văn học Việt Nam như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh, Nam Cao, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân…
Tuy nhiên, hiện nay, khái niệm phong cách được hiểu nghiêng nhiều hơn về
phía cá tính sáng tạo và nếu nghệ sĩ có những đóng góp nhất định về nghệ thuật
đều có thể được xem là có phong cách nghệ thuật.
Thực chất của vấn đề phong cách chính là cách nhìn, cách quan niệm của
nhà văn về thế giới và con người.
Nhà văn Pháp M.Proust khẳng định, thực chất của vấn đề phong cách
chính là “vấn đề cái nhìn”.
Cái nhìn này tạo ra những yếu tố trội, làm nên nét riêng của nhà văn, làm
anh ta nổi bật giữa những cá tính và phong cách khác. Vì vậy, nghiên cứu phong
cách nghệ thuật phải chỉ ra đặc trưng văn chương của một tác giả. Nói như Đỗ
Lai Thúy “trong những “bức tranh nghệ thuật” của nhà thơ thế nào cũng có một
yếu tố trội bắt tất cả những yếu tố còn lại phải phục tùng nó, phải phản chiếu ánh
sáng của nó”. Do đó, cần phải sử dụng phương pháp so sánh đồng đại và lịch đại
một cách tinh tế nhằm chỉ ra những yếu tố trội đó.
Theo Raymond Carver, một nhà văn hiện đại xuất sắc Hoa Kỳ thế kỷ XX
thì: “Mỗi nhà văn vĩ đại hay thậm chí mỗi nhà văn rất giỏi đều sáng tạo nên thế
giới phù hợp với chính đặc tính của anh ta”. Nói cách khác, thế giới nghệ thuật
của nhà văn tương thích với phong cách nghệ thuật của nhà văn đó. Mối quan hệ
qua lại này cho phép chúng ta đi từ văn bản nghệ thuật do nhà văn sáng tạo ra để
chỉ ra đặc trưng phong cách nghệ thuật của nhà văn đó… “Đây là dấu ấn không
thể nhầm lẫn và đặc thù của nhà văn trên mọi thứ anh ta sáng tạo. Đấy là thế giới
của riêng anh ta chứ không phải của bất kỳ một ai khác. Đây là một trong những
điều phân biệt nhà văn này với nhà văn nọ (…) một nhà văn thì phải có cách
nhìn đặc biệt nào đó về sự vật và phải in cách diễn đạt nghệ thuật lên cách nhìn
đó” [13, tr356].

-7-



Theo nhà thơ Hoàng Trung Thông: Phong cách và cá tính nhà văn không
phải là cái gì khó hiểu. Đó là biểu hiện của mỗi nhà văn trong khi xây dựng chủ
đề, nhân vật, trong khi vận dụng hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ văn học.
Mỗi nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật phải tự tạo cho mình một phong
cách riêng, một điệu cảm xúc riêng [24, tr14].
Theo Nguyễn Đăng Mạnh, nói đến phong cách phải nói đến tính thống
nhất của nó, tức là tính độc đáo trong việc kết hợp những nét đặc sắc về nội
dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Nó bao gồm các yếu tố như cá tính của
nhà văn, kiến thức, vốn sống, quan điểm sáng tác, nội dung đề tài, nội dung hình
tượng, phương pháp sáng tác, thể loại, ngôn ngữ… mà cụ thể ở đây là cá tính
của chủ thể sáng tạo và sự tự do lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ để thể hiện
nó trong tác phẩm.
Đỗ Lai Thúy, trong Con mắt thơ, với phụ đề: Phê bình phong cách Thơ
mới, trước khi đi vào phân tích từng phong cách cá nhân có lưu ý đến hoàn cảnh
lịch sử - xã hội nảy sinh hiện tượng Thơ mới, khẳng định các nhà Thơ mới có
“một cái nhìn thế giới” khác với các nhà thơ cổ. Điều này cho thấy, phong cách,
xét cho cùng sẽ biểu hiện cụ thể nhất ở “cách nhìn” này. Tuy nhiên, ông cũng
cho rằng, nếu cái nhìn nghệ thuật chung cho cả dòng thơ như một chuẩn, một
phong cách chung cho cả một thời đại thi ca thì từng cái nhìn nghệ thuật riêng
của mỗi thi nhân là một lệch chuẩn. Chính sự lệch chuẩn này tạo nên phong cách
cá nhân của nhà thơ. Như vậy nghiên cứu phong cách thơ Anh Thơ không thể
tách rời với phong trào Thơ mới và thơ ca Cách mạng.
2. Anh Thơ trong hành trình thơ nữ Việt Nam hiện đại.
2.1. Tác giả Anh Thơ.
Anh Thơ tên thật là Vương Kiều Ân, sinh ngày 25/01/1921 tại Ninh
Giang thuộc tỉnh Hải Hưng. Cha là Vương Đan Lộc đỗ tú tài khoa thi Hương
cuối cùng của chế độ nhà Nguyễn. Mẹ là bà Kiều Thị Thư, con gái cụ Phó Bảng

-8-



Kiều Oánh Mậu, người đã có công lớn trong việc hiệu đính và chú giải truyện
Kiều.
Cha nữ sĩ là một công chức nên thường xuyên thuyên chuyển công tác, do
vậy chưa qua cấp tiểu học mà Anh Thơ đã phải thay đổi trường 3 lần (Hải
Dương, Thái Bình rồi Bắc Giang).
Từ bé, chịu ảnh hưởng thơ văn yêu nước của ông ngoại, thấm đậm chất
thơ dân gian trong các chuyện cổ do bà nội kể, bảy tuổi Anh Thơ đã mê thơ và
giấu cha mẹ tập làm thơ và đến năm 14 tuổi bà đã có thơ đăng trên các báo
Đông Phương, Tiểu thuyết thứ Năm, báo Đàn Bà…
Anh Thơ đặt chân vào lãnh địa thơ tiền chiến khoảng năm 1936, giai đoạn
mà phong trào Thơ mới đang ở thời kỳ vàng son. Khi mới bước vào làng thơ, nữ
sĩ lấy bút hiệu là Tuyết Anh, sau đổi thành Hồng Anh và cuối cùng lấy bút hiệu
là Anh Thơ. Bà đã từng công tác trên nhiều tạp chí xuất bản tại Hà Nội từ 1938 1943 có thể kể đến tờ “Tiểu thuyết thứ Năm”, báo “Ngày Nay”, Hà Nội Báo”,
“Phụ nữ”, “Bạn Đường”…
Riêng về thơ trước cách mạng, Anh Thơ chỉ có hai tập là Bức tranh quê
và Xưa. Tập Bức tranh quê được trao giải thưởng của Tự lực văn đoàn và được
xuất bản lần đầu năm 1941 bởi Nhà xuất bản Đời Nay, Hà Nội. Tập “Xưa” xuất
bản năm 1941 cộng tác với Bàng Bá Lân bởi Nhà xuất bản Sông Thương, Bắc
Giang. Ngoài ra, Anh Thơ còn viết tiểu thuyết Răng Đen xuất bản 1943 do Nhà
xuất bản Nguyễn Du.
Năm 1945, Anh Thơ tham gia Cách mạng và bà vẫn tiếp tục sáng tác. Từ
sau Cách mạng tháng Tám cho đến khi mất bà có những tác phẩm sau: Kể
chuyện Vũ Lăng (truyện thơ 1957), Theo cánh chim câu (thơ, 1960), Đảo Ngọc
(thơ, 1964), Hoa dứa trắng (thơ, 1967), Mùa xuân màu xanh (thơ, 1973), Quê
chồng (thơ, 1977), và bộ hồi ký văn học: Từ bến sông Thương (1986), Tiếng
chim tu hú (1995) và Bên dòng chia cắt (2002).
2.2. Anh Thơ quan niệm về nghệ thuật và cuộc đời.


-9-


Trong suốt quá trình sáng tác, từ những tác phẩm đầu tiên là tập Bức tranh
quê cho đến những tác phẩm cuối cùng - tập thơ Cuối mùa hoa, Anh Thơ luôn
trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi để tạo cho mình một phong cách sáng tác riêng, độc
đáo.
Anh Thơ quan niệm: “Thơ phải ngắn gọn, không nên rườm rà, phải nói ít
viết ít mà người đọc lại hiểu nhiều. Thơ hay phải là những gì tinh túy, vĩnh cửu
nhất từ tâm hồn con người. Người làm thơ cũng đừng cầu kì câu chữ quá mà
khiến cho người đọc khi đọc rồi cứ phải suy luận. Thơ là hào quang soi rọi
những bước đường kháng chiến gian khổ nhất. Thơ giải phóng được cuộc đời
bình lặng của lớp người con gái dưới thời phong kiến. Tôi yêu thơ như yêu một
lẽ sống ý nghĩa nhất trong cuộc đời tôi”. Quan niệm này của Anh Thơ được thể
hiện rõ nét trong hầu hết các sáng tác của bà.
Ngay từ khi làm tập thơ Bức tranh quê, Anh Thơ đã phải trải qua rất
nhiều khó khăn, bị cha ngăn cấm, bị cha bắt được và đánh đòn, may nhờ chị Hai
và các em giúp đỡ: “Mỗi buổi trưa, chị Hai bưng quả trầu, thúng khâu lên gác,
các em tôi ngồi suốt dọc cầu thang để canh. Tôi có một quyển sổ nhỏ và chiếc
bút chì. Hễ có động là tôi dễ dấu” [8, tr44].
Và khi có thời gian để làm thơ, Anh Thơ cũng luôn băn khoăn, lúng túng
không biết mình sẽ viết những gì trong thơ đây? Bởi nếu “Thơ tình yêu say mê
như Xuân Diệu? Nhưng tôi đã được yêu và biết yêu đâu? Như Chế Lan Viên
nhớ xứ Chàm nhưng có biết xứ Chàm ở đâu? … Vậy thì viết gì? Tôi lại làm thơ
về phong cảnh xóm làng vậy”. [8, tr44-45]. Vậy là Anh Thơ chỉ có thể viết về
cuộc sống nông thôn; xóm làng có những gì, quê hương có những gì, bà cứ miêu
tả như vậy, chân chất, giản dị mà mộc mạc, dễ đi vào lòng người. Bà tả cảnh bốn
mùa; cảnh mưa nắng; cảnh lụt, cảnh hạn; bà tả phiên chợ, đám cưới, đám ma,
ngày Tết. Cứ nghĩ đến đâu, thích cảnh gì bà làm một bài thơ cảnh đó, cảnh và
người đã thấm sâu vào máu thịt, và rồi ba mươi bài thơ đã được hoàn thành.


- 10 -


Và ngay cả khi tập thơ Bức tranh quê đoạt giải khuyến khích của Tự lực
văn đoàn (thơ không có giải nhất, giải nhì, chỉ có giải khuyến khích dành cho
Anh Thơ và Tế Hanh), Anh Thơ cũng không vì thế mà tự kiêu, tự cho mình là
giỏi mà ngược lại Anh Thơ đã rất khiêm tốn, chân thành. Bà đọc lại những lời
nhận xét, đánh giá của ban giám khảo về những hạn chế cũng như những ưu
điểm đối với tập thơ Bức tranh quê của mình.
Đối với những hạn chế của tập thơ, Anh Thơ đã đọc đi đọc lại rất nhiều
lần, tự rút kinh nghiệm cho bản thân, bà đã nghĩ: “Đến tập thơ thứ hai, tôi sẽ
tránh được những khuyết điểm này” [8, tr56].
Bên cạnh những hạn chế thì tập thơ cũng được đánh giá rất cao. Nhất Linh
(thành viên của ban giám khảo) đã nhận xét: “Những nhận xét của cô Anh Thơ rất
đúng. Có khi đúng đến nỗi làm người ta phải ngạc nhiên và chịu phục (…). Trong
bài “Chợ mùa hè” có hai câu tỏ rõ tài nhận xét của cô Anh Thơ đến cực điểm:
“Chó le lưỡi ngồi thừ nhìn cũi đóng
Lợn trói nằm hồng hộc thở căng giây”. [8, tr54]
Hay Bàng Bá Lân nhận xét: “Thơ cô rất độc đáo (…) cô lại có tài quan
sát, khiến tôi cũng giống Nhất Linh, là rất phục cô” [8, tr77]. Có thể thấy, Anh
Thơ đã viết được như những gì bà quan niệm đó là thơ phải ngắn gọn, giản dị,
dễ hiểu, dễ đi vào lòng người.
Những năm sau cách mạng, cuộc kháng chiến trường kì và gian khổ của
cả dân tộc đã giúp Anh Thơ có thêm cách nhìn mới về cuộc đời, về nghệ thuật.
Đối với bà, bây giờ không phải chỉ ngồi một chỗ để nghĩ và viết ra thơ mà để
sáng tác những bài thơ hay, có giá trị, người nghệ sĩ cần phải đi thâm nhập cuộc
sống, phải lăn lộn với cuộc đời, để hiểu và cảm thông với sự vất vả của cả dân
tộc trong giai đoạn “ngàn cân treo sợi tóc” thì mới ra được những vần thơ hay.
Trong một lần Xuân Quỳnh đem sáng tác của mình đến hỏi Anh Thơ,

Anh Thơ đã tâm sự: “Ai làm thơ qua tập đầu rồi đến tập thứ hai cũng phải chật
vật một thời gian để có vốn sống mới, em ạ. Em nên xin đi thực tế, để lăn lộn

- 11 -


với cuộc sống thơ sẽ bật ra”… hay “Cuộc sống thay đổi càng cho em nhiều vốn
sống để sau này viết em ạ. Các nhà thơ lớn từ đông sang tây có ai được một cuộc
sống ổn định đâu? Như cụ Nguyễn Du đấy. Biết đâu sau này thơ em lại nổi, vì
cuộc sống vất vả hôm nay…” [48, tr360 - 361].
Những tâm sự chân thành của Anh Thơ dành cho Xuân Quỳnh là những
kinh nghiệm được Anh Thơ đúc kết và trải nghiệm trong quá trình sáng tác,
điều này đã được minh chứng qua hầu hết các tác phẩm của bà. Sau cách mạng
và kháng chiến, Anh Thơ đã trải qua rất nhiều công việc khác nhau như làm
báo, công tác phụ nữ, cứu thương, bình dân học vụ… và bà cũng đã đi rất
nhiều nơi từ Bắc vô Nam, từ miền xuôi đến miền ngược; qua bất kì vùng miền
nào bà cũng ghi lại trên những trang thơ như khi ra thăm đảo Cô Tô, bà viết
Đảo Ngọc; những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Anh Thơ đi thực tế ở
Quảng Bình, Vĩnh Linh, bà viết hai tập thơ Hoa dứa trắng và Mùa xuân màu
xanh; sau ngày giải phóng miền Nam, Anh Thơ đi thực tế các tỉnh phía Nam,
bà viết tập thơ Quê chồng.
Có thể thấy, trong số các nữ thi sĩ của lớp trước, Anh Thơ là cây bút sung
sức. Bà đi nhiều, viết nhiều nên tầm hiểu biết xã hội của Anh Thơ vượt lên rất
nhiều. Điều đó thật đáng trân trọng bởi Anh Thơ đã phải rất cố gắng để từ một
cô gái tỉnh lẻ, trong một gia đình phong kiến trở thành nhà thơ Cách mạng với
những đóng góp to lớn cho nền thơ ca dân tộc.
2.3. Anh Thơ trong phong trào Thơ mới.
2.3.1. Khái quát về phong trào Thơ mới.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc
xâm lược kéo dài gần trăm năm ở nước ta. Từ 1858 đến hết thế kỷ XIX, thực

dân Pháp chủ yếu có những hoạt động về quân sự và đến đầu thế kỷ XX, chúng
mới thực sự tiến hành cuộc khai thác thuộc địa về kinh tế. Sau hai cuộc khai thác
thuộc địa, cơ cấu xã hội Việt Nam đã có những biến đổi sâu sắc. Từ Nam chí
Bắc, nhiều đô thị, thị trấn mọc lên như những trung tâm kinh tế, văn hóa, hành

- 12 -


chính của xã hội thực dân, xuất hiện nhiều tầng lớp xã hội mới như tư sản, tiểu
tư sản, công nhân. Những tầng lớp này có nhu cầu văn hóa thẩm mĩ mới, họ tạo
thành một công chúng văn học ngày càng đông đảo và đòi hỏi một thứ văn
chương mới, chính vì thế đã có tác động trực tiếp, không nhỏ đến đời sống của
nền văn học đương thời, do đó văn học trong thời kỳ này (từ đầu thế kỷ XX đến
Cách mạng tháng Tám 1945) đã có những bước chuyển biến vượt bậc.
Đặc biệt là văn học từ 1930 - 1945, chỉ trong vòng mười lăm năm, văn
học Việt Nam đã phát triển với một tốc độ nhanh chóng, có sự cách tân văn học
sâu sắc ở các thể loại và xuất hiện nhiều trào lưu văn học khác nhau: Văn học
lãng mạn, văn học hiện thực phê phán, văn học cách mạng. Mỗi một trào lưu
văn học đều mang một đặc điểm riêng, có sự phát triển riêng song cùng song
song tồn tại và góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền văn học Việt Nam.
Trào lưu văn học lãng mạn với nhân tố chính là “phong trào Thơ mới” đã
có tác động đến sự phát triển của văn học lãng mạn nói riêng và văn học dân tộc
nói chung. Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) xuất hiện đã mở ra một cuộc cách
tân sâu sắc và toàn diện cho thi ca Việt Nam đầu thế kỷ XX: “Phong trào Thơ
mới là một cuộc cách tân thi ca chưa từng có trong văn học dân tộc. Nó chẳng
những đem lại những tác phẩm hay, những nhà thơ độc đáo mà đặc biệt là đem
lại một phạm trù thơ hiện đại, một thi pháp mới, một kiểu trữ tình mới, phân biệt
và thay thế cho thơ trữ tình cổ điển truyền thống” [41, tr11].
Đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền văn học dân tộc, do đó
Thơ mới nổi bật với những nét đặc trưng không giống với thi ca của bất cứ giai

đoạn nào.
Ra đời trong một hoàn cảnh xã hội tương đối đặc biệt với nhiều biến động
về chính trị, kinh tế, văn học nên các nhà Thơ mới với một tâm hồn dễ rung
động và nhạy cảm trước những biến đổi của cuộc sống đã muốn thoát ra khỏi
cuộc sống thực tại, họ không chấp nhận một cuộc sống tẻ nhạt, nhàm chán, đơn
điệu, chính vì vậy họ đã chối từ thực tại xã hội, thực tại tầm thường để mơ ước

- 13 -


đến một thế giới khác tươi đẹp hơn và họ đã quay trở về quá khứ để tìm thấy
trong quá khứ một thế giới huyền ảo, mộng mơ; một thế giới của chốn bồng lai,
tiên cảnh mà ta bắt gặp trong thơ Thế Lữ:
“Bồng lai muôn thủa vườn xuân thắm
Sán lạn, u huyền, trong khói hương”.
(Mưa hoa)
hay đó là giấc mơ của chúa sơn lâm khi nhớ về đại ngàn, nhớ về những ngày
tháng oai hùng đã qua:
“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Tay say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gợi,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?...”.
Là hình ảnh Chế Lan Viên thả hồn trong âm u với những tháp chàm, với
sự nuối tiếc về dân Chàm vong quốc; là Nguyễn Nhược Pháp khi tìm về với
truyền thuyết Phong Châu: Mị Nương, Sơn Tinh, Thủy Tinh. Và ông đồ Vũ
Đình Liên với nỗi lòng canh cánh hoài cổ, về những tiếng loa xưa:
Lòng ta là những hàng thành quách cũ
Tự nghìn năm vẫn vẳng tiếng loa xưa”.

(Lòng ta là những hàng thành quách cũ)
cũng như:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đây bây giờ”.
Song chúng ta nhận thấy các nhà Thơ mới tìm về quá khứ không phải với
một thái độ tiêu cực trốn tránh cuộc đời mà là tìm lại những nét đẹp xưa, đó là
sự trân trọng đối với những tinh hoa của cội nguồn dân tộc.

- 14 -


Thơ mới ra đời đồng nghĩa với sự khẳng định cái tôi cá nhân đã chiến
thắng “cái phi ngã” trong văn học theo kiểu Á Đông xưa. Thực ra không phải
chỉ đến văn học giai đoạn 1930 cái tôi mới xuất hiện mà trước đó ta đã bắt gặp
một cái tôi với khát vọng hạnh phúc lứa đôi trong thơ Hồ Xuân Hương; một cái
tôi đầy bản lĩnh cá tính trong thơ Nguyễn Công Trứ, trong thơ Á Nam Trần
Tuấn Khải hoặc trong thơ Tản Đà… nhưng các tác giả chưa thể bộc lộ cái tôi
như một khuynh hướng, một trào lưu văn học thực sự. Và chỉ từ sau 1930, cái
tôi cá nhân mới thực sự được đề cao, chính vì vậy đã xuất hiện hàng loạt “cái
tôi” trong đội ngũ tác giả Thơ mới: “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng
một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng
tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy
Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực,
băn khoăn như Xuân Diệu”. [44, tr29].
Tuy nhiên Thơ mới không chỉ đề cao “cái tôi cá nhân”, sự “tự do cá nhân”
mà trong mạch ngầm cảm xúc của nó còn “len lỏi một mạch tình cảm đáng quý:
tâm sự yêu nước thầm kín, thiết tha” [23, tr13] và đặc biệt hơn, chúng ta còn tìm
thấy ở đó sự trân trọng, nâng niu những nét đẹp của phong tục, tập quán Việt
Nam, những nét đẹp của văn hóa làng quê đã tồn tại hàng ngàn đời nay với
những tác giả tiêu biểu như Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân và Anh

Thơ - nữ thi sĩ đã để lại dấu ấn đặc biệt trong phong trào Thơ mới.
2.3.2. Đôi nét về các nhà thơ nữ trong phong trào Thơ mới.
Trong phong trào Thơ mới, những cây bút nữ chiếm vị trí không nhỏ và
đã có những đóng góp quan trọng vào sự hình thành và phát triển của nền thơ ca
dân tộc.
Nhìn lại văn học Việt Nam thời trung đại đã có những cây bút nữ nổi
tiếng như Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, song số
lượng thật là hiếm hoi. Người ta cắt nghĩa hiện tượng này là do chế độ phong
kiến hà khắc, người phụ nữ không được học hành thi cử; bốn chữ vàng "công,

- 15 -


dung, ngôn, hạnh" đã bó buộc người phụ nữ vào bổn phận làm vợ, làm mẹ, tuyệt
nhiên không tham gia vào công tác xã hội. Vì vậy, họ hiếm có điều kiện để gặp
gỡ và tham gia trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Nho giáo luôn "trọng nam
khinh nữ" nên họ quan niệm rằng người phụ nữ học để làm gì? học biết chữ để
thêm lý sự với chồng và lười nhác mà thôi.
Thế nhưng sang giai đoạn văn học 1930 - 1945, nếu như "Thơ mới là bình
minh của thơ Việt Nam hiện đại" thì các nhà thơ nữ có quyền tự hào rằng từ
buổi bình minh của thơ Việt Nam hiện đại họ đã có mặt. Nhà thơ Nguyễn Thị
Manh Manh là một trong số những người đi tiên phong cho sự lên ngôi và thắng
thế của Thơ mới. Các tên tuổi khác như Mộng Tuyết, Ngân Giang, Vân Đài,
Hằng Phương, và đặc biệt là nữ sĩ Anh Thơ đã bước vào làng Thơ mới và để lại
những dấu ấn riêng.
Trong Thi nhân Việt Nam, viết về Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh
đã mô tả: "Khi nhà thơ Phan Khôi hăng hái như một vị tướng quân dõng dạc
bước ra trận để kết án lối thơ cũ, thì lập tức nhờ có tờ Phụ nữ tân văn lời nói của
ông đã được truyền bá khắp nơi…" và người ủng hộ ông đầu tiên là một bài thơ
viết theo lối mới của một phụ nữ ký tên là Nguyễn Thị Manh Manh (tức Nguyễn

Thị Kiêm) và Hoài Thanh đã viết tiếp: "Thơ mới đã bắt đầu có cơ sở. Trong làng
Thơ mới người ta càng sốt sắng thêm. Từ hai tháng trước, hôm 26-7-1933 một
nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn hội khuyến học Sài
Gòn hết sức tán dương Thơ mới. Hội khuyến học Sài Gòn thành lập đến bấy giờ
đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng là lần thứ nhất có một
cuộc diễn thuyết được đông người nghe đến như thế" [44, tr22]. Và bà đã có cả
một bức thư viết bằng thơ "gửi tất cả những ai ưa hay ghét bỏ lối thơ mới".
"Bây giờ tôi thử khuyên khách làm thơ
Đổi lại, ai ưa thơ mới lo tìm chỗ dở
Ai ghét, rán kiếm cái hay của thơ
Vậy, chê, khen, có giá trị hoa mới sẽ nở".

- 16 -


(Bức thư gửi tất cả những ai ưa hay ghét bỏ lới thơ mới.
Nguyễn Thị Manh Manh).
Người nữ sĩ thứ hai của phong trào Thơ mới được nhiều bạn đọc biết đến là
Mộng Tuyết. Mộng Tuyết tên thật là Lâm Thái Úc - bà còn có những bút danh
khác như Hà Tiên Cô, Thất Tiểu Muội, Nàng Út, Bách Thảo Sương, Bân Bân nữ
sĩ…
Thơ Mộng Tuyết là tiếng lòng hồn nhiên, trong trẻo của một người con
gái, người con gái ấy nhiều khi còn thẹn thùng, e ấp, trước cả vẻ đẹp của chính
bản thân mình:
"Nhớ chuyện đêm qua còn thẹn thùng;
Mặt hồ phẳng lặng ánh trăng trong,
Trễ trùng xiêm áo em đang tắm,
Làn nước vờn da em lạnh lùng".
(Em xấu hổ)
Nếu cho rằng Thơ mới là tiếng nói của những cá nhân, của những tâm hồn

với khát vọng thành thực muốn "nói rõ những điều kín nhiệm" thì tâm hồn thơ
Mộng Tuyết không nằm ngoài cái biên độ đó. Người con gái thẹn thùng, e ấp
trên kia cũng là người con gái không muốn giấu giếm những khát vọng trẻ trung
mãnh liệt của mình: yêu và được yêu:
"Nguồn trong nước sạch mơn man,
Để em xuống tắm gội làn tóc xanh.
Cho anh đặt chiếc lược tình,
Món hương trinh bạch để dành từ xưa.
Tâm tình mơn mởn đào tơ,
Tặng anh giữa cảnh nên thơ suối rừng".
(Hương rừng).

- 17 -


Vẻ đẹp của thơ Mộng Tuyết không phải là vẻ đẹp của cấu tứ và kỹ
thuật mà nó có sức lay động ở sự trong trẻo trong cảm xúc và những hình ảnh
có sức gợi:
"Trăng chảy ngập đường đi thuở ấy,
Để người soi bóng bước song song.
Rồi trăng từ đó tương tư bóng,
Chảy ngập đường đi khắp nẻo lòng.
(Bóng trăng tương tư)
và cao hơn còn là vẻ đẹp của một tâm hồn không chỉ quẩn quanh trong những
tình cảm riêng tư mà còn biết hướng tâm hồn đến mọi người với một tình yêu
rộng lớn. Người đọc hẳn sẽ ngạc nhiên và cảm động khi thấy một người con gái
chỉ luôn sống trong lầu son gác tía, tưởng như chỉ biết:
"Chiều xuân khép cảnh khuê phòng,
Soi gương sửa lại má hồng vui vui".
lại cũng là một thi sĩ có trái tim không vô tình khi nghe tin:


"Nghe nói Tràng An giá gạo cao
Đói cơm cửu hạn khát mưa rào".
(Giá gạo Tràng An)
Chia xẻ với những khó khăn của đồng loại, nhà thơ băn khoăn tự hỏi:
"Chị nghèo biết giúp gì em nhỉ" và trước nạn đói 1945, trước những nỗi thống
khổ của đồng bào mình, Mộng Tuyết đã đau đớn thốt lên:
"Ai làm non nước chia ba?"
Và nhà thơ đã kêu gọi mọi người hãy vì "tình máu mủ" mà "nhường cơm
xẻ áo".

- 18 -


Có thể thấy tiếng thơ ấy cất lên từ một trái tim nhân hậu, từ một trái tim
biết yêu thương đồng loại, nhưng nó còn có giá trị hơn khi đặt bên cạnh những
tiếng thở dài não nùng của Thơ mới.
Bên cạnh Nguyễn Thị Manh Manh, Mộng Tuyết thì Hằng Phương cũng là
một nữ sĩ có nhiều đóng góp cho phong trào Thơ mới.
Hằng Phương nhập cuộc làng thơ bằng bài thơ đầu tay Nhớ con nhỏ Bội
Trinh (1929) đăng trên tờ Phụ nữ tân văn. Từ đó, Hằng Phương cũng có nhiều
thơ đăng trên các báo Đàn bà, Tri tân, Ngày nay, Hà Nội tân văn, Phụ nữ tân văn
và in chung với Anh Thơ, Mộng Tuyết, Vân Đài tập thơ Hương Xuân (1943).
Nhà thơ Xuân Diệu không phải ngẫu nhiên đã từng cho rằng chữ "Tâm" là
mạch cảm xúc chính trong thơ Hằng Phương. Nét nổi bật trong thơ bà là tâm
hồn đầy ắp yêu thương, là niềm khắc khoải khôn nguôi của một người con luôn
gắn bó với cội nguồn:
"Mòn mỏi ngày đêm trông lại trông
Cố hương xa cách mấy nghìn trùng".
(Tự cố hương)

Nếu Mộng Tuyết thường lấy nguồn cảm xúc của tâm hồn mình để phủ lên
mọi vật thì Hằng Phương dường như ngược lại: cảnh vật bình dị xung quanh
luôn là những đề tài mang lại cho bà nguồn cảm hứng, tứ thơ. Mỗi ban mai thức
dậy, nhà thơ phát hiện ra:
"Sương đêm còn đọng trên cành
Rưng rưng hạt ngọc long lanh nhìn trời"
(Bình minh)
và Hằng Phương luôn lấy tình quê của mình làm đối tượng để giãi bày nguồn thi
hứng. Những bài thơ viết về quê hương của Hằng Phương như Tự cố hương,
Tiễn biệt và đặc biệt là Lòng quê là những bài thơ hay được bạn đọc chú ý.

- 19 -


Trong làng thơ nữ của phong trào Thơ mới nổi bật lên một bông hoa với
muôn sắc màu đó chính là Anh Thơ. Anh Thơ đã trình diện làng Thơ mới bằng
một sự khởi đầu đầy tốt đẹp với tập thơ Bức tranh quê.
Nhìn trong tương quan với phong trào Thơ mới và trong cả sự nghiệp
sáng tác thì Bức tranh quê quả là khiêm nhường. Thế nhưng trong sự khiêm
nhường tưởng chừng nhỏ nhoi đó, Bức tranh quê đã tạo được cho mình một
sắc thái riêng biệt độc đáo. Nét riêng biệt ấy được tạo nên từ thi hứng về làng
quê, về nếp sống và phong tục miền thôn dã. Anh Thơ đã chịu nhiều ảnh
hưởng bởi thơ văn yêu nước từ ông ngoại, thấm đượm chất thơ dân gian trong
các chuyện cổ do bà nội kể.
Khi sáng tác Bức tranh quê, Anh Thơ đã tự tách thi hứng của mình ra
ngoài những biến động xã hội nên thơ nữ sĩ không bị xoay vần theo cái gọi là
"mưa Âu gió Mĩ". Thực ra, trước khi sáng tác Bức tranh quê, bà cũng có sáng
tác những vần thơ buồn và lãng mạn như ở Nàng Thu đăng trên Tiểu thuyết thứ
Năm. Thế nhưng tâm hồn thơ nữ sĩ "không thích cái giọng buồn chung chung
giống với mọi người, bà đã tâm sự: "Tôi thấy mình cũng có một xứ quê rộng

khắp châu thổ sông Hồng. Những nơi tôi theo bố tôi làm việc thời Pháp thuộc và
nhất là nơi có con sông Thương đầy nước mắt biệt ly của những đôi vợ chồng
lính thú từ xưa. Cộng lại những làng xóm, bến sông, ao làng, đồng ruộng, những
con người chân chất mộc mạc mà tôi yêu thương. Thế là tôi bắt đầu viết. Lời thơ
trong Bức tranh quê có những vần còn thô sơ, nhưng có những câu hay mà đến
bây giờ trình độ có vượt hơn trước rất nhiều tôi cũng không làm được" [20,
tr11]. Thật vậy, đọc Bức tranh quê đâu đâu người đọc cũng bắt gặp phong cảnh
thiên nhiên của làng quê Việt Nam, nếp sống nông thôn, phong tục nông thôn; ta
bắt gặp "những câu thơ kết hợp xưa - nay, hiện đại và truyền thống, mà thực ra
chưa một thi sĩ nào đã viết được thế" [32, tr76].
"Mây đi vắng, trời xanh buồn rộng rãi
Sông im dòng đọng nắng đứng không trôi".

- 20 -


×