Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay : Luận án TS. Nhân văn khác: 62 22 03

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 169 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_____________________________

NGUYỄN THỊ KIM CHI

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_____________________________

NGUYỄN THỊ KIM CHI

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62 22 85 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Chủ tịch Hội đồng Khoa học

GS. TS Hoàng Chí Bảo


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

1. PGS. TS. Nguyễn Anh Tuấn

2. TS. Hoàng Văn Luân

Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận án này là công trình nghiên cứu thực sự của riêng
tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Anh Tuấn và
TS. Hoàng Văn Luân.
Các số liệu, những kết luận được nêu trong luận án này trung thực và chưa
từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
NGHIÊN CỨU SINH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ....................................................................................................9
1.1. Các học thuyết tiêu biểu và trào lưu điển hình về trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp ...........................................................................................................9
1.1.1. Các học thuyết tiêu biểu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ...........9
1.1.2. Các trào lưu điển hình về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.............14
1.2. Những công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở
Việt Nam ................................................................................................................16
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về kết quả thực hiện trách nhiệm xã

hội của doanh nghiệp ở Việt Nam......................................................................16
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về định hướng nâng cao việc thực hiện
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới...................20
1.3. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp và hướng tiếp cận của luận án đối với trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp .........................................................................................................24
1.3.1. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp ...............................................................................................24
1.3.2. Hướng tiếp cận của luận án đối với trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp .................................................................................................................26
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................................30
Chƣơng 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
CỦA DOANH NGHIỆP ..........................................................................................31
2.1. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ..........................31
2.1.1. Khái niệm trách nhiệm, trách nhiệm xã hội, trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp ......................................................................................................31
2.1.2. Đặc điểm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ......................................43
2.2. Nội dung và hình thức biểu hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ..............46
2.2.1. Nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ......................................46
2.2.2. Các hình thức biểu hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ...............54
2.3. Ý nghĩa của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp .................60
2.3.1. Đối với doanh nghiệp ..............................................................................60


2.3.2. Đối với xã hội ..........................................................................................62
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................66
Chƣơng 3. THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH
NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: MỘT SỐ KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ ......68
3.1. Phân loại và đặc điểm doanh nghiệp ở Việt Nam............................................68
3.1.1. Phân loại doanh nghiệp ở Việt Nam ........................................................68

3.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp ở Việt Nam và sự ảnh hưởng đến việc thực
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ........................................................70
3.2. Một số kết quả trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp và nguyên nhân của kết quả.......................................................................77
3.2.1. Một số kết quả trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp .....77
3.2.2. Nguyên nhân của kết quả .........................................................................92
3.3. Một số hạn chế trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp và nguyên nhân của hạn chế ......................................................................93
3.3.1. Một số hạn chế trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp.................................................................................................................93
3.3.2. Nguyên nhân của hạn chế ...................................................................... 110
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................ 114
Chƣơng 4. CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ MỘT SỐ ĐỊNH HƢỚNG,
KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM ................ 116
4.1. Cơ hội và thách thức đối với việc thực hiện trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay ..................................................................... 116
4.2. Một số định hướng và khuyến nghị nâng cao hiệu quả việc thực hiện
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới ................125
Tiểu kết chương 4 ................................................................................................144
KẾT LUẬN ............................................................................................................146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................149
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................150


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
1

Bảo hiểm thất nghiệp


BHTN

2

Bảo hiểm xã hội

BHXH

3

Bảo hiểm y tế

BHYT

4

Bộ quy tắt ứng xử

CoC

5

Cơ sở hạ tầng

CSHT

6

Doanh nghiệp


DN

7

Doanh nghiệp nhà nước

DNNN

8

Doanh nghiệp vừa và nhỏ

DNVVN

9

Doanh nghiệp xã hội

DNXH

10

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

FDI

11

Kiến trúc thượng tầng


KTTT

12

Thu nhập quốc dân

GDP

13

Trách nhiệm hữu hạn

TNHH

14

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp

TNXH của DN

15

Tổ chức thương mại thế giới

WTO

16

Xã hội chủ nghĩa


XHCN


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1:

Số lượng doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp FDI qua các năm ........................................................................71

Bảng 3.2:

Số doanh nghiệp theo quy mô vốn qua các năm ...................................71

Bảng 3.3:

Số doanh nghiệp theo quy mô lao động qua các năm ...........................72

Bảng 3.4:

Tình hình DN dừng hoạt động, giải thể và thành lập mới năm
2011- 2013 .............................................................................................76

Bảng 3.5:

Tổng số thuế và các khoản đã nộp ngân sách của các doanh nghiệp ........78

Bảng 3.6.

Tổng số việc làm mà doanh nghiệp tạo ra giai đoạn 2006 - 2011 .........79


Bảng 3.7:

Kết quả thanh tra thuế của doanh nghiệp 6 tháng đầu năm 2014..........95

Bảng 3.8:

Tỷ lệ doanh nghiệp đóng BHXH, BHYT, kinh phí công đoàn cho
người lao động từ năm 2006 - 2011 ....................................................100

Bảng 3.9:

Tình hình tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc năm 2012 - 2014
của doanh nghiệp Việt Nam ................................................................101

Bảng 3.10: Tình hình chậm đóng, nợ BHXH năm 2012 – 2013 của doanh
nghiệp (Ban hành kèm theo Báo cáo số 143/BC-CP, ngày 16 tháng
5 năm 2014) .........................................................................................102
Bảng 3.11. Số vụ và số người tai nạn lao động năm 2013 ....................................102
Bảng 3.12: Mối tương quan giữa doanh nghiệp và xã hội trong việc thực hiện
TNXH của DN .....................................................................................130


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Doanh nghiệp ngày nay không chỉ đại diện cho mình mà còn đại diện cho
quốc gia trên thế giới. Với vai trò trụ cột nền kinh tế, hơn bao giờ hết, doanh nghiệp
đang có những cơ hội và trách nhiệm chứng tỏ vị thế của mình như một thiết chế
kinh tế, một thực thể, một chủ thể quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất cho xã
hội, sự tăng trưởng của đất nước, số lượng việc làm tương đối lớn, tham gia giải

quyết những vấn đề của xã hội, đem lại sự thịnh vượng cho xã hội. Tuy nhiên, những
hành vi kinh doanh thiếu trách nhiệm của doanh nghiệp gây ra những hậu quả như:
nguy cơ kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng
kinh tế, các quyền lợi của người lao động không được bảo đảm, gian lận kinh doanh,
hàng giả, hàng nhái ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng,… Những hậu quả này
ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội, môi trường sống của thế hệ sau mà chúng
ta không thể không kiểm soát. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (TNXH của
DN) ra đời nhằm định hướng, kiểm soát và điều chỉnh những hành vi kinh doanh của
chủ thể doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững hơn. Ngày nay,
khách hàng toàn cầu không chỉ quan tâm tới giá cả, chất lượng hàng hoá và sản
phẩm, mà họ còn quan tâm ngày càng nhiều hơn đến cách thức sản phẩm được sản
xuất ra trong điều kiện môi trường và làm việc của người lao động có phù hợp hay
không. Quan niệm về TNXH của DN đang có sự thay đổi căn bản; giờ đây, người
dân, người lao động có quyền “đo doanh nghiệp”, điều đó thể hiện sức mạnh giám
sát của cộng đồng đối với thái độ và trách nhiệm của doanh nghiệp.
Với nhận thức ngày càng cao về sự phát triển bền vững của nền kinh tế cũng như
của mỗi doanh nghiệp, dễ nhận thấy TNXH đã trở thành một trong những yêu cầu cấp
thiết mà hầu hết các doanh nghiệp phải tuân thủ. Tuy nhiên, bản thân doanh nghiệp, nhà
nước hay toàn xã hội nhận thức không đầy đủ về TNXH của DN dẫn đến việc thực hiện
TNXH trên thực tế rất khác nhau. Có nhiều công trình, cách tiếp cận đối với vấn đề
TNXH của DN nhằm chỉ ra nội dung, bản chất nhưng về cơ bản vẫn chưa có sự thống
nhất khung lý thuyết. Cho đến nay, việc hoàn thiện khung lý thuyết vẫn đang được tiếp
tục thực hiện. TNXH của DN đã được tiếp cận từ các góc nhìn kinh tế học, luật học, đạo
đức học, khoa học về môi trường… Mỗi cách tiếp cận sự có ưu nhược điểm nhất định,
đóng góp vào khung lý thuyết TNXH của DN, nhưng nếu chỉ nhìn TNXH ở từng khía

1


cạnh cụ thể, riêng biệt, không đặt nó trong sự ra đời, vận động, phát triển của bản thân

doanh nghiệp và xã hội thì sẽ không thể nhận thức và thực hiện TNXH của DN một
cách toàn diện. Vì vậy, tiếp cận TNXH của DN dưới góc độ triết học góp phần khái quát
hóa vấn đề trên ở tầm nhận thức xã hội, tư tưởng xã hội, xây dựng định hướng thực
hiện TNXH của DN một cách hệ thống; lý giải biện chứng về bản chất hiện tượng
TNXH của DN, từ quá trình nhận thức đến hành động thực tiễn, xu hướng vận động của
nó. TNXH của DN được coi như một hoạt động tất yếu doanh nghiệp phải thực hiện
ngay từ khi ra đời. Doanh nghiệp không thể có điều kiện thì làm, không có điều kiện thì
không làm. Doanh nghiệp cũng không thể làm do sức ép từ bên ngoài mà xuất phát từ
chính vì lợi ích của bản thân doanh nghiệp và vì lợi ích của xã hội. Doanh nghiệp sẽ
nhận được nhiều lợi ích từ việc thực hiện TNXH của DN như: góp phần xây dựng
thương hiệu mạnh, gia tăng doanh thu, lợi nhuận, thu hút vốn đầu tư, nhân tài, cải thiện
mối quan hệ với chính quyền, với người lao động, không ngừng phát triển sản phẩm
mới, tạo dựng lòng tin với khách hàng và xã hội. Uy tín cũng như sức cạnh tranh của
một doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả kinh doanh và những việc làm cụ
thể mang tính xã hội của doanh nghiệp đó. Để thay đổi hành vi thực hiện TNXH của DN
trước hết chủ thể doanh nghiệp phải thay đổi từ nhận thức của mình và sau đó là sự tác
động của chủ thể khác trong xã hội. Nếu chưa nhận thức đúng thì việc thực hiện chỉ
mang tính manh mún, lẻ tẻ và tự phát vì lợi nhuận của doanh nghiệp chứ chưa vì lợi ích
của xã hội.
Ở Việt Nam, doanh nghiệp có những bước phát triển mạnh mẽ. Việt Nam đã trở
thành một trong số các nước xuất khẩu lớn trên thế giới về hàng dệt, may mặc, da giầy,
nông, thuỷ sản, đồ gỗ và hàng thủ công mỹ nghệ... Xuất khẩu đã giúp cho các doanh
nghiệp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu mà ở đó các nguyên
tắc thương mại mang tính ràng buộc được áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, nhận thức và
thực tiễn thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam đang gặp những khó khăn nhất định,
bởi đây vẫn là vấn đề mới mẻ, chỉ xuất hiện vài thập niên gần đây và còn ít doanh
nghiệp quan tâm. Đa phần các doanh nghiệp ở Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ,
vốn ít, thiếu kinh nghiệm hoạt động trong kinh tế thị trường, do đó các chủ doanh
nghiệp mới chỉ quan tâm tới số lượng, ít nhiều tới chất lượng sản phẩm, chưa quan tâm
tới lợi ích người lao động, người tiêu dùng, cộng đồng xã hội; hoạt động bảo vệ môi

trường... Nhận thức về TNXH của DN chỉ đơn giản là xây dựng hình ảnh của doanh

2


nghiệp để thu hút các nhà đầu tư, khách hàng hoặc làm từ thiện. Trên thực tế, các hành
vi thiếu TNXH của DN gây ra những hậu quả nghiêm trọng tới đời sống xã hội khiến
dư luận bức xúc như lén lút xả chất thải độc hại, gây ô nhiễm môi trường, nhập khẩu
rác thải công nghiệp, gian lận, trốn thuế, sản xuất hàng giả, hàng kém chất lượng, xâm
hại quyền lợi của người tiêu dùng, không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động,
hàng nghìn tai nạn lao động, ngộ độc thức ăn của công nhân ở các khu công nghiệp...
Mặt khác, khi tham gia WTO, ký các hiệp định thương mại với nhiều quốc gia
trên thế giới, đặc biệt là Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TTP), Việt Nam chính thức bước vào sân chơi quốc tế. TNXH của DN như là một “luật
chơi”, nếu muốn hội nhập thị trường khu vực và thế giới, doanh nghiệp phải tuân thủ.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế như hiện nay, doanh nghiệp Việt Nam
phải tìm những hướng đi có tính chiến lược và phát triển bền vững. Doanh nghiệp Việt
Nam buộc phải đáp ứng được những yêu cầu khắt khe về quan hệ lao động, vệ sinh an
toàn thực phẩm, vệ sinh an toàn lao động và bảo vệ môi trường… Những tiêu chuẩn
TNXH đó, nếu doanh nghiệp không thực hiện, các đối tác, khách hàng sẽ tẩy chay. Hơn
nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế, các hàng rào thuế quan được bãi bỏ thay vào đó là
những hàng rào phi thuế quan như hàng rào kỹ thuật, an ninh con người,... Chúng được
lập ra nhằm bảo hộ cho hàng hóa nội địa. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải thực hiện
hàng rào đó nếu muốn xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế. Vấn đề thực thi TNXH
là việc rất mới đối với doanh nghiệp Việt Nam, song đây là xu hướng tất yếu khi Việt
Nam bước vào quá trình hội nhập và phát triển kinh tế thị trường. Việc thực thi TNXH
sẽ là một trong những giải pháp giúp các doanh nghiệp Việt Nam thu hút nguồn nhân
lực chất lượng cao, tạo dựng uy tín, thiện cảm với đối tác và tạo ra những sản phẩm có
tính cạnh tranh để vươn tới thị trường khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam
chủ động thực hiện TNXH sẽ góp phần tạo ra sản phẩm với thương hiệu Việt vươn ra thị

trường quốc tế.
Mặc dù là quốc gia đi sau trong việc tiếp cận vấn đề TNXH của DN nhưng Việt
Nam cần hiểu đúng và cập nhật để hội nhập với các tiêu chuẩn về TNXH của DN của thế
giới, từ đó thực hiện tốt TNXH của DN ngay từ đầu. Vì vậy, nghiên cứu TNXH của DN
cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn để nhận thức đúng bản chất và thúc đẩy việc thực
hiện TNXH của DN. Những câu hỏi như cần hiểu như thế nào cho đúng bản chất của hiện
tượng TNXH của DN; việc thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam đã đạt những kết quả,

3


có hạn chế gì; những cơ hội và thách thức đối với việc thực hiện TNXH của DN ở Việt
Nam ra sao; những định hướng nào cho doanh nghiệp Việt Nam nâng cao hiểu quả việc
thực hiện TNXH trong thời gian tới… Trả lời cho những câu hỏi trên có ý nghĩa thực tiễn
đối với xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp và phát triền kinh
tế của Việt Nam. Phát triển kinh tế làm sao phải vừa đạt tốc độ tăng trưởng bền vững, vừa
phải bảo vệ được các lợi ích công cộng và mục tiêu xã hội, môi trường sinh thái. Vì những
lý do trên, tôi chọn vấn đề Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận về TNXH của DN, những
kết quả, hạn chế trong việc thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam những năm gần đây,
luận án đề xuất một số định hướng, khuyến nghị nâng cao hiệu quả việc thực hiện
TNXH của DN ở Việt Nam trong thời gian tới.
Nhiệm vụ: Để đạt mục đích trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan các công trình nghiên cứu về TNXH của DN và đưa ra hướng tiếp
cận mới của luận án.
- Nêu và phân tích một số vấn đề lý luận về TNXH của DN: Khái niệm, đặc
điểm, nội dung, hình thức, ý nghĩa của thực hiện TNXH của DN.
- Phân tích kết quả, hạn chế trong việc thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam

những năm gần đây và chỉ ra nguyên nhân của kết quả, hạn chế đó.
- Phân tích những cơ hội; thách thức đối với việc thực hiện TNXH ở Việt Nam
hiện nay và đề xuất một số định hướng, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện TNXH của DN ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: TNXH của DN ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: Từ 2006 đến nay (cần nghiên cứu hiện tượng TNXH của
DN trong một quá trình để thấy sự vận động, phát triển và xu hướng tất yếu của nó. Vì
vậy, tác giả lựa chọn nghiên cứu đối tượng khoảng mười năm trở lại đây. Năm 2006
cũng là năm đánh dấu sự gia nhập WTO của Việt Nam, khởi nguồn của trào lưu thực
hiện TNXH của DN).
- Phạm vi về không gian: Ở Việt Nam
- Phạm vi về nội dung: Từ cách tiếp cận và luận giải TNXH của DN dưới góc

4


nhìn triết học, luận án nêu một số vấn đề lý luận về TNXH của DN đồng thời nhận
diện, phân tích khái quát kết quả, hạn chế trong việc thực hiện TNXH của DN ở Việt
Nam những năm gần đây, từ đó đề xuất một số định hướng, khuyến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên quan điểm của triết học Mác Lênin, chủ yếu là phép biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng và nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, về sự phát triển của
sự vật, hiện tượng; đồng thời, luận án được triển khai dựa trên chủ trương, đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về phát triển doanh nghiệp, phát triển đất nước,
nhất là về phát triển kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Luận án cũng tiếp thu những kết quả của những công trình trong và ngoài nước
trong những năm vừa qua có liên quan đến vấn đề TNXH của DN.

- Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp luận biện chứng duy vật với việc
sử dụng một số phương pháp khác như: logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê,
so sánh, quan sát,…
Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử:
Luận án tiếp cận vấn đề TNXH của DN từ góc độ của CNDVBC và CNDVLS,
cụ thể tác giả sử dụng chủ yếu 3 cặp phạm trù: cái chung – cái riêng, nội dung - hình
thức, nguyên nhân - kết quả, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát
triển trong việc xây dựng, phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức của hiện
tượng TNXH của DN nhằm tìm ra bản chất, tất yếu, phổ biến của hiện tượng này.
Ngoài ra, tác giả sử dụng quan điểm của triết học về mối quan hệ giữa CSHT và
KTTT, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, từ nhận thức đến tư duy hành động, quy
luật mâu thuẫn biện chứng làm cơ sở xây dựng và phân tích quá trình thực hiện TNXH
của DN ở Việt Nam.
Phương pháp lôgic - lịch sử: Xem xét tính lịch sử, tính lôgic của quá trình phát
triển hiện tượng TNXH của DN về mặt lý luận cũng như quá trình thực hiện TNXH
của DN ở Việt Nam những năm qua, từ đó đánh giá, đề xuất một số định hướng thúc
đẩy thực hiện TNXH của DN hiệu quả ở Việt Nam trong thời gian tới.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: Trên cơ sở phân tích tài liệu trong và ngoài
nước về vấn đề TNXH của DN, tác giả tổng hợp các kết quả nghiên cứu đó, đưa ra

5


quan điểm, nhận định của tác giả về vấn đề TNXH của DN ở Việt Nam trên bình diện
lý luận và thực tiễn. Các tài liệu thứ cấp đó đã giúp tác giả có những dữ liệu minh
chứng cho luận điểm dưới góc độ triết học của mình.
Phương pháp thống kê, so sánh: Tác giả tiến hành thu thập, thống kê những
tài liệu, số liệu liên quan đến vấn đề TNXH của DN ở Việt Nam và thế giới, so sánh
các công trình, số liệu sau đó tổng hợp lại trong một số nhận xét và bảng biểu. Các số

liệu thứ cấp sử dụng trong luận án chủ yếu được cung cấp bởi Tổng Cục Thống kê,
Bộ, ban ngành, các hiệp hội, tổ chức xã hội, các doanh nghiệp về quá trình nhận thức
và thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam như một minh chứng cho những luận điểm
của luận án.
Phương pháp quan sát: Tác giả luận án quan sát những động thái của một số
doanh nghiệp trong việc thực hiện TNXH của DN; cách thức quản lý, xử phạt của cơ
quan nhà nước đối với doanh nghiệp vi phạm TNXH của DN; phản ứng của dư luận xã
hội đối với hành vi của doanh nghiệp không có TNXH.
5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Về mặt lý luận, các nghiên cứu về TNXH của DN có ý nghĩa như thế nào đối
với quá trình nhận thức và thực tiễn thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam?
- Tại sao phải nghiên cứu TNXH của DN từ góc độ triết học.
- Thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam có những hạn chế gì trong những năm
qua và tại sao?
- Định hướng nào khắc phục những hạn chế đó?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Các nghiên cứu về TNXH của DN có ý nghĩa nhất định đối với quá trình nhận
thức và thực tiễn thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam nhưng khi áp dụng vào thực
tiễn không giải quyết triệt để bài toán TNXH của DN ở Việt Nam.
- Có nhiều góc độ nghiên cứu về TNXH của DN, tuy nhiên góc độ triết học bổ
sung, hệ thống hóa khung lý thuyết về TNXH của DN nhằm giúp chủ thể doanh
nghiệp, nhà nước, cộng đồng xã hội nhận thức đúng bản chất, nội dung, hình thức của
hiện tượng này.
- Hạn chế chủ yếu trong quá trình thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam là nhận
thức; nguồn lực thực hiện; hệ thống pháp luật Việt Nam thiếu đồng bộ, chưa có chế tài
đủ mạnh để ràng buộc các doanh nghiệp thực hiện TNXH; năng lực kiểm tra giám sát

6



của cơ quan nhà nước, của các bên hữu quan còn yếu, thiếu kinh nghiệm. Nguyên
nhân chính là do mâu thuẫn về lợi ích, mâu thuẫn giữa yếu tố chủ quan và khách quan;
mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức.
- Để khắc phục hạn chế trong việc thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam, định
hướng đầu tiên bắt đầu từ thay đổi nhận thức và hành động của chủ thể doanh nghiệp
đến nâng cao vai trò quản lý, giám sát của nhà nước cũng như sự tham gia tích cực của
các hiệp hội, tổ chức xã hội và cộng đồng xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của doanh
nghiệp mang tính TNXH hơn.
6. Đóng góp mới của luận án
- Luận án tổng kết và cập nhật những công trình nghiên cứu về TNXH của DN
và chỉ ra hạn chế của một số lý thuyết về vấn đề TNXH của DN. Qua đó, tác giả luận
án tiếp cận hiện tượng TNXH của DN dưới góc độ triết học nhằm tìm ra bản chất của
hiện tượng này.
- Từ góc độ tiếp cận triết học, luận án đã chỉ ra rằng: TNXH của DN là một hiện
tượng xã hội, một thuộc tính vận động của doanh nghiệp, tồn tại, vận động cùng sự
vận động của doanh nghiệp. TNXH của DN là một hoạt động nội tại của bản thân
doanh nghiệp, song hành với hoạt động sản xuất kinh doanh (ra đời từ khi doanh
nghiệp hình thành). Từ đó, luận án góp phần xây dựng nhận thức đúng đắn về TNXH
của DN. TNXH của DN không cố định mà biến đổi theo sự biến đổi, phát triển của
doanh nghiệp và xã hội. Doanh nghiệp có ba vị thế chính. Với tư cách là thiết chế kinh
tế thuộc cơ sở hạ tầng, doanh nghiệp có mối quan hệ với thượng tầng kiến trúc, với tư
cách là thực thể xã hội, doanh nghiệp có mối quan hệ với tự nhiên, với tư cách là chủ
thể trong xã hội, doanh nghiệp có mối quan hệ với các chủ thể khác trong xã hội. Luận
án phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức biểu hiện của TNXH của DN
thông qua ba vị thế đó và khẳng định rằng TNXH của DN có ý nghĩa quan trọng đối
với sự phát triển của doanh nghiệp và xã hội.
- Luận án cũng đưa ra những đặc thù của doanh nghiệp Việt Nam. Bằng các dữ
liệu phong phú, các minh chứng, luận án phân tích khái quát kết quả, hạn chế trong việc
thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam những năm gần đây để khẳng định bên cạnh cơ

hội, vẫn còn nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong việc thực hiện
TNXH; luận án đã đề xuất và luận giải một số định hướng, khuyến nghị để nâng cao
hiệu quả việc thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam trong thời gian tới. Chỉ khi doanh

7


nghiệp, nhà nước, xã hội nhận thức đúng (tức là có chung một cái nhìn về hiện tượng
TNXH của DN), việc thực hiện TNXH của DN mới đi vào bản chất, hiệu quả và bền
vững. Nâng tầm nhận thức vấn đề này lên tầm vĩ mô nhận thức xã hội và mang tính
chỉnh thể. Vì vậy, tựu trung lại, đóng góp mới chủ yếu của luận án là chỉ ra sự tác động
của nhận thức đối với các chủ thể trong xã hội, trong đó đề cao vai trò chủ đạo của chủ
thể doanh nghiệp như một trong những định hướng cốt lõi của việc thực hiện TNXH của
DN.
7. Ý nghĩa của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần bổ sung thêm lý luận về TNXH của DN và
việc thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của luận án có thể làm tài liệu tham khảo giúp cho
các chủ thể quản lý doanh nghiệp và các bên hữu quan, cộng đồng xã hội nhận thức
đầy đủ và toàn diện về bản chất TNXH của DN. Từ đó, mỗi chủ thể (doanh nghiêp,
các tổ chức trong xã hội, cộng đồng) cùng nhau thúc đẩy thực hiện TNXH của DN
theo cách riêng của mình. Luận án giúp các nhà quản lý hoàn thiện khung pháp lý, có
chính sách, quyết định nâng cao hiệu quả việc thực hiện TNXH của DN nói riêng và
phát triển doanh nghiệp Việt Nam nói chung vì mục tiêu phát triển bền vững. Luận án
còn là tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học tập các học phần đạo đức học,
quản lý xã hội…
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết
cấu thành 4 chương, 11 tiết.
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

Chương 2. Một số vấn đề lí luận về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Chương 3. Thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
- một số kết quả và hạn chế
Chương 4. Cơ hội, thách thức và một số định hướng, khuyến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện việc trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam

8


Chƣơng 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các học thuyết tiêu biểu và trào lƣu điển hình về trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp
Hiện nay, thuật ngữ “TNXH của DN” (Corporate Social Resposibility) không
chỉ được sử dụng thường xuyên trong các tài liệu sách, báo cáo khoa học, mà còn được
sử dụng khá thông dụng trong các chương trình phát thanh, truyền hình liên quan,
trong khẩu ngữ giao tiếp của công chức, doanh nhân, nhà báo, các nhà khoa học… ở
nhiều quốc gia. TNXH của DN đã, đang và sẽ trở thành mối quan tâm của quốc tế, của
thời đại. Trên công cụ tìm kiếm khi gõ thuật ngữ Corporate Social Resposibility, Google cho ra gần 81.000.000 kết quả liên quan đến công trình viết về TNXH của DN.
Con số này cho thấy, TNXH của DN đang là mối quan tâm của toàn thế giới. Điều đó
còn cho thấy sự quan tâm của xã hội đến TNXH của DN ngày càng nhiều. Đa số các
công trình nghiên cứu về vấn đề TNXH của DN chỉ mới được bắt đầu từ cuối những
năm 90 của thế kỷ XX. Những công trình này bao gồm những cuốn sách, các báo cáo
của các tổ chức phi chính phủ, các bài báo trên tạp chí, các đề tài nghiên cứu hay
những bài phát biểu tại các hội nghị, hội thảo quốc tế.
1.1.1. Các học thuyết tiêu biểu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
- Học thuyết về giá trị dành cho các cổ đông (shareholder value theory):
Đây là một học thuyết của Milton Friedman, một nhà kinh tế học đoạt giải Nobel
năm 1970 được đề cập trong công trình The Social Responsibility of Business is to

increase its Profits (Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là gia tăng lợi nhuận) [164],
The New York Times Magazine, 13 tháng 9 năm 1970 và vào năm 2002 với công trình
Chủ nghĩa tư bản và tự do (Capitalism and Freedom) [165]. Trong học thuyết này,
Friedman cho rằng, ngoài trách nhiệm pháp lý, TNXH của DN chỉ có thể thực hiện bằng
các quyết định nhằm nâng cao khả năng sinh lời cho các cổ đông - những người có
quyền sở hữu đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp thực hiện những mục tiêu mang tính
xã hội là nhằm tạo ra lợi nhuận. Nhiệm vụ cơ bản của doanh nghiệp là sản xuất hàng hóa
và dịch vụ một cách có lợi nhuận. Khi làm việc này, doanh nghiệp đã góp phần phát
triển xã hội và như vậy được coi là có TNXH. Lập luận của Friedman dựa trên 3 luận
điểm sau:
Thứ nhất, người quản lý doanh nghiệp (thành viên Hội đồng quản trị hoặc Ban

9


giám đốc) là những người đại diện cho chủ sở hữu/cổ đông đứng ra quản lý doanh
nghiệp; được bầu ra hoặc được thuê để dẫn dắt doanh nghiệp theo cách mà cổ đông
muốn, đa phần là làm ra lợi nhuận càng nhiều càng tốt, đồng thời tuân thủ các quy tắc
xã hội, về cơ bản, vốn đã được thể hiện trong luật. Đó là bản chất vì lợi nhuận (for
profit) của doanh nghiệp. Nếu nhà quản lý doanh nghiệp hành động một cách “trách
nhiệm” bằng việc cắt giảm giá thành sản phẩm của doanh nghiệp để ngăn chặn lạm
phát hoặc chi thêm tiền để giảm ô nhiễm môi trường hoặc tuyển dụng người tàn tật
làm việc thì điều đó đồng nghĩa với việc tiêu tiền của cổ đông vào những lợi ích của xã
hội và cũng có nghĩa làm tăng chi phí kinh doanh. Nếu những hoạt động mang tính
TNXH làm giảm lợi nhuận và cổ tức thì cổ đông sẽ là người chịu thiệt. Nếu giá cả tăng
do các hoạt động xã hội đó thì doanh nghiệp sẽ mất khách hàng. Nếu khách hàng
không chấp nhận giá cao và việc kinh doanh giảm sút thì công việc kinh doanh có thể
sẽ không tồn tại và trong trường hợp này thì tất cả những người có liên quan đến
doanh nghiệp sẽ gánh chịu rủi ro. Hơn thế nữa, Friedman cho rằng, khi nhà quản lý
doanh nghiệp chuyên nghiệp theo đuổi bất kỳ điều gì ngoài lợi nhuận thì họ đang tự

coi mình là những nhà hoạch định chính sách không được ủng hộ. Ông đặt ra câu hỏi
liệu các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thành thạo trong việc ra quyết định xã hội
không. Những vị đại diện về chính trị được bầu ra là để đưa ra các quyết định, chính
sách. Vậy nên, theo Friedman, TNXH duy nhất của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi
nhuận. Luận điểm của Friedman là một “cái phao” giúp các doanh nghiệp biện minh
cho hành động không thực hiện TNXH nếu doanh nghiệp chưa thấy cần thiết.
Thứ hai, doanh nghiệp vốn là một chủ thể có tư cách pháp nhân, nhưng là một
chủ thể “vô tri, vô giác” do con người tạo ra. Do đó, doanh nghiệp không thể tự nhận
thức và gánh vác nghĩa vụ đạo đức, vốn chỉ có con người mới có. Bởi vì, chỉ có từng
cá nhân con người mới có lương tâm để nhận thức sự việc đúng hay sai.
Thứ ba, TNXH thuộc lĩnh vực của nhà nước, là chủ thể cung cấp các dịch vụ
công, vì lợi ích công cộng, phi lợi nhuận. Chỉ có nhà nước mới có đủ thông tin để
quyết định đúng đắn trong việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả. Trách nhiệm
của doanh nghiệp là tạo ra giá trị gia tăng, phát triển công nghệ (bởi vì doanh nghiệp là
chủ thể vì lợi nhuận duy nhất trong xã hội) đem lại lợi nhuận, tạo ra việc làm và thu
nhập cho người lao động. Trách nhiệm chính của doanh nghiệp là đóng góp thuế và
trách nhiệm của nhà nước là làm sao dùng tiền thuế đó hiệu quả nhất vì lợi ích công
cộng. Nếu doanh nghiệp cũng thực hiện TNXH thì sẽ có sự trùng lặp và doanh nghiệp

10


sẽ trở thành người vừa đóng thuế, vừa quyết định việc chi tiêu khoản thuế đó ra sao.
Như vậy, học thuyết của Friedman chỉ xem xét TNXH của DN trong mối quan
hệ duy nhất: doanh nghiệp - cổ đông, điều này có nghĩa là, những mối quan hệ khác
thuộc môi trường bên trong và môi trường bên ngoài doanh nghiệp sẽ bị bỏ qua hay
doanh nghiệp không quan tâm đến. Doanh nghiệp chỉ có một trách nhiệm duy nhất là
tối đa hóa lợi nhuận, gia tăng giá trị cổ đông, trong khuôn khổ luật chơi của thị trường
là cạnh tranh trung thực và công bằng. Lợi ích xã hội được đảm bảo một cách tốt nhất
gián tiếp thông qua hoạt động kinh tế, cụ thể là việc thu lợi nhuận và phân phối lợi

nhuận của doanh nghiệp trong phạm vi giới hạn pháp luật kinh doanh cho phép. Nếu
chỉ nhìn nhận doanh nghiệp hoạt động duy nhất vì lợi nhuận và việc bù đắp chi phí cho
xã hội, cũng như trả tiền cho các dịch vụ công mà doanh nghiệp hưởng lợi đã được
thực hiên thông qua khoản thuế mà doanh nghiệp đã đóng, thì chỉ ngay một vấn đề
như ô nhiễm môi trường do doanh nghiệp gây ra, có thể còn lớn hơn nhiều lần lợi ích
nó mang lại cho xã hội từ tiền thuế của mình. Với vai trò là một chủ thể trong xã hội,
ngay từ đầu doanh nghiệp đã đóng vai trò của một “công dân” trong xã hội với tất cả
quyền và nghĩa vụ thích hợp phải có.
- Học thuyết về các bên liên quan (stakeholder theory):
Tác giả R. Edward Freeman trình bày học thuyết này trong tác phẩm: "Strategic
Management: A Stakeholder Approach" (Quản trị chiến lược: Một cách tiếp cận từ các bên
liên quan) Marshall, M.A. Pitman, Boston [169]. Sau học thuyết của M. Friedman, cùng
với sự xuất hiện của nhiều trào lưu xã hội, TNXH của DN ngày càng mang tính xã hội
hơn. Ví dụ, những yếu tố tác động đến môi trường sinh thái do các hoạt động khai
thác, chế biến và sản xuất công nghiệp gây ra, cũng như các vấn đề xã hội khác như
bảo vệ quyền bình đẳng giới, chống phân biệt đối xử, ô nhiễm môi trường… đã được
đề cập. Các tác giả thuộc trào lưu này kêu gọi doanh nghiệp giải quyết những lo lắng,
quan ngại, những yêu cầu cũng như những yêu sách được đưa ra bởi những cá nhân,
nhóm xã hội, cho dù những yêu cầu và đòi hỏi đó lớn hay nhỏ, quan trọng hay không
quan trọng, miễn là chúng chính đáng. Nói về học thuyết các bên liên quan, E. Freeman
cho rằng, TNXH của DN không chỉ được xem xét trong mối tương quan giữa doanh
nghiệp và cổ đông mà phải được mở rộng sang nhiều mối quan hệ khác. Ở đây, doanh
nghiệp đóng vai trò làm trung tâm trong tổng thể các mối quan hệ với các đối tác, những
bên có liên quan, có tác động hoặc chịu tác động bởi các hoạt động cũng như quá trình ra

11


quyết định của doanh nghiệp. Quan điểm của thuyết này cho rằng: Xã hội là một khái
niệm trừu tượng, không cụ thể. Điều đó làm cho TNXH cũng trở nên mơ hồ, thiếu

thực tế. Chắc chắn rằng không ai có thể làm hài lòng tất cả mọi đối tượng trong xã hội;
cũng không nhất thiết phải tìm hiểu và thỏa mãn hết mong muốn của mọi đối tượng xã
hội khác nhau, kể cả những người không hề có bất kỳ ràng buộc hay cảm thấy có ràng
buộc với hoạt động của doanh nghiệp. Chỉ những người có liên quan là những đối
tượng có lợi ích bị ràng buộc với hoạt động của doanh nghiệp và thực sự quan tâm đến
việc bảo vệ lợi ích của họ. Họ chính là người đại diện cho toàn thể xã hội trong hoạt
động của doanh nghiệp [71;151]. Thuật ngữ các bên liên quan xuất hiện trong hướng
tiếp cận chiến lược của doanh nghiệp cũng như trong phân tích mối quan hệ giữa
doanh nghiệp với môi trường mà ở đó doanh nghiệp ra quyết định và tiến hành các
hoạt động kinh doanh. Theo học thuyết này, quá trình quản trị chiến lược của doanh
nghiệp phải xem xét và tính đến những lợi ích, những quan ngại, đòi hỏi của những cá
nhân, nhóm xã hội trong môi trường kinh doanh. Bất cứ cá nhân hay tổ chức nào có
ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi hoạt động của doanh nghiệp đều được coi là các bên
có liên quan. Như vậy, khách thể của TNXH của DN theo cách hiểu của Freeman khá
rộng, sẽ có thể tác động lên hoạt động của doanh nghiệp hoặc ngược lại chịu sự tác
động từ những hoạt động đó. Nó bao gồm các bên liên quan sơ cấp (là những người,
nhóm người có quan hệ hợp đồng trực tiếp với doanh nghiệp: người lao động, người
tiêu dùng, nhà cung cấp, cổ đông, các tổ chức tài chính, tín dụng) và các bên liên quan
thứ cấp (là những người, nhóm người có quan hệ hợp đồng trực tiếp với doanh nghiệp:
các cộng đồng địa phương, các hội hay các tổ chức phi chính phủ…). Doanh nghiệp,
khi thực thi TNXH phải xác định một cách đầy đủ những người, nhóm người được coi
là các bên liên quan, để từ đó, quan tâm và thỏa mãn những lợi ích hợp pháp, chính
đáng của họ. Thực tế cho thấy, việc xác định những bên liên quan của doanh nghiệp sẽ
phụ thuộc rất nhiều vào vị thế mà doanh nghiệp đó nắm giữ cũng như vào xã hội mà ở
đó doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình.
Thực tế, nếu giả định rằng, lợi ích của các bên liên quan hội tụ với nhau thì tổng
lợi ích của các bên liên quan đó cũng không thể tương xứng với lợi ích của xã hội. Về
mặt quốc gia, nhà nước là chủ thể có vai trò bảo vệ lợi ích chung, nhưng ở tầm quốc
tế, quyền lực này thuộc về ai là câu hỏi khó có thể trả lời được bằng lý thuyết của các
bên liên quan vì họ cho rằng, vai trò đó được trao cho các doanh nghiệp đa quốc gia.


12


Điểm tích cực của học thuyết này là đã mở rộng phạm vi khách thể của doanh nghiệp
trong việc thực thi TNXH. Tuy nhiên, hạn chế của học thuyết này về TNXH của doanh
nghiệp mới chỉ dừng lại ở các bên liên quan sơ cấp, thứ cấp. Những khách thể “câm”
như hệ động, thực vật, hệ sinh thái được coi là tài sản chung của quốc gia hay của toàn
thế giới và của ngay cả những bên liên quan thuộc thế hệ tương lai… cũng có thể tác
động hoặc chịu tác động của doanh nghiệp. Những khách thể ấy, chưa được E.
Freeman chú ý. Do đó, chúng ta cần tiếp cận bằng một khung lý thuyết khác để xác
định đâu là lợi ích toàn cầu, lợi ích giúp bảo đảm cho sự sống còn và tái sản xuất của
xã hội loài người (bảo vệ tầng ozone, đảm bảo cung cấp nước sạch cho toàn thế giới,
khắc phục tình trạng nghèo đói, bệnh dịch…). Có như vậy, chúng ta mới có thể hình
dung một trách nhiệm mang tính toàn cầu của doanh nghiệp, nói cách khác, chúng ta
có thể xác định những vấn đề chủ yếu của một chính sách TNXH của DN trong mối
tương quan với những đóng góp hoặc gây tổn hại đối với việc sản xuất và bảo tồn các
lợi ích chung mang tính toàn cầu, cũng như sự phát triển bền vững toàn cầu.
- Học thuyết về sự phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên (Resource Dependence Theory):
Học thuyết này cho rằng, chủ thể của một tổ chức phụ thuộc vào môi trường mà nó
đang hoạt động. Sự tồn tại lâu dài của tổ chức phụ thuộc vào khả năng của nó trong việc
quản lý nhu cầu của các nhóm khác nhau, đặc biệt là những nhóm có các nguồn tài
nguyên mang tính chất quyết định đối với sự tồn tại của tổ chức [59; 66]. Theo học thuyết
này, các doanh nghiệp cần phải nhận được sự đồng thuận từ nơi nó đang hoạt động, nhất
là sự đồng thuận từ nhóm cung ứng cho doanh nghiệp những nguồn tài nguyên chủ chốt.
Tiêu chí để đánh giá doanh nghiệp không chỉ liên quan đến tính hiệu quả và khả năng sinh
lời của nội bộ doanh nghiệp mà còn là những tiêu chí của những chủ thể bên ngoài quy
định cho doanh nghiệp. Ví dụ, doanh nghiệp muốn hiện diện tại một địa phương nào đó
để khai thác nguồn tài nguyên tại chỗ, phục vụ cho hoạt động của mình thì họ cần phải có
chính sách về nguồn nhân lực tại chỗ, phải xây dựng cơ sở hạ tầng (đường sá, y tế) theo

yêu cầu của nhà chức trách địa phương. Doanh nghiệp thực hiện TNXH là để đáp lại sức
ép cũng như mong đợi của các tác nhân cung ứng các nguồn tài nguyên phục vụ cho sự
tồn tại của doanh nghiệp.
Trên cơ sở tiếp cận một số học thuyết nêu trên, tác giả luận án có thêm những
luận cứ để nhìn nhận TNXH của DN dưới góc nhìn triết học. Học thuyết của Friedman
cho thấy, ông chỉ nhìn khái niệm TNXH của DN thuần túy dưới góc độ kinh tế nên đã

13


giới hạn phạm vi TNXH của DN ở những hoạt động có tính chất kinh tế. Mục đích
kinh tế luôn đóng vai trò quyết định, vì nếu doanh nghiệp không có lợi nhuận thì khó
có thể thực hiện được TNXH. Nhưng hoạt động TNXH của DN không chỉ bao gồm
các hoạt động kinh tế bởi nó luôn đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với sự vận động của
xã hội, chịu sự tác động của xã hội. Cho nên doanh nghiệp quan tâm đến những vấn đề
xã hội chính là thể hiện trách nhiệm đến môi trường hoạt động rộng lớn của mình.
1.1.2. Các trào lưu điển hình về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Khái niệm về TNXH của DN mới ra đời vài thập niên trở lại đây, song quan niệm
về nó đã có từ khá lâu. Trong cuốn sách “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”, Michel
Capron (Giáo sư Khoa học quản lý của Đại học Paris VIII - Saint Denis và Paris XII - ValdeMarne); Francoise Quairel - Lanoizelee (Giảng viên Đại học Paris -Dauphine, người
trực tiếp giảng dạy môn TNXH của DN trong chương trình cao học) cho rằng:
“Từ thời kỳ Cổ đại, giữa hoạt động kinh tế và xã hội luôn có mối quan hệ căng
thẳng, dao động giữa hai cực: một bên là việc săn tìm nguồn tài nguyên tự nhiên và tài
nguyên con người, một bên là đóng góp vào việc thỏa mãn những nhu cầu của các dân
tộc. Nói cách khác, đó là sự căng thẳng giữa nhu cầu sản xuất và khả năng gánh chịu
những nguy cơ nảy sinh từ việc sản xuất ra các vật phẩm phục vụ nhu cầu con người. Từ
bộ luật Hammourabi yêu cầu phải bảo vệ những người nô lệ, cho đến việc quản lý các
khu rừng thể hiện trong đạo luật Collbert với tầm nhìn dài hạn, hay mối bận tâm làm sao
tạo ra được sự cân bằng giữa nông nghiệp, lâm nghiệp và ngành chăn nuôi gia súc trong
các đại điền trang của những dòng tu thời Trung cổ, người ta luôn bắt gặp mối lo âu

thường trực về việc tái sản xuất và lưu giữ các nguồn tài nguyên mà dựa vào đó các hoạt
động kinh tế được thực hiện” [59,14].
Như thế, Michel Capron và Francoise Quairel – Lanoizelee cho ta thấy, từ lâu
con người đã quan tâm tới mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động
(nô lệ), giữa nhu cầu sản xuất và khả năng sử dụng các nguồn tài nguyên. Trong mối
quan hệ đó, xuất hiện trách nhiệm của cơ sở sản xuất đối với người lao động, với môi
trường và với xã hội. Hai ông kết luận: “Sẽ thật “hão huyền” nếu quan niệm có một mô
hình TNXH của DN như một mô hình duy nhất trên thế giới và như là một hệ thống
hoàn toàn không thay đổi theo thời gian [59, 218]. Hai tác giả trên cũng phân tích hai
trào lưu TNXH của DN: ở Mỹ và các nước ở Châu Âu.
Trào lưu trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Mỹ: ở Mỹ, hành vi của doanh

14


nghiệp là hành vi mang tính cá nhân, một “hữu thể luân lý” biết phân biệt cái tốt và cái
xấu [59, 61]. Đây là mô hình về lòng nhân ái. TNXH của DN đồng nghĩa với hoạt động
từ thiện. Các doanh nghiệp làm ra lợi nhuận, ngoài phần họ đã thực hiện nghĩa vụ đóng
thuế, họ dành một phần lợi nhuận cho các chương trình từ thiện (như Bill Gate dành hàng
tỷ đô-la làm từ thiện xã hội). Những hoạt động này thể hiện qua hệ thống Quỹ xã hội do
doanh nghiệp thành lập. Các hoạt động này có thể có quy mô đáng kể, tuy nhiên nó vẫn
luôn là những hoạt động xa lạ với các hoạt động kinh tế, không nằm trong hoạt động chính
của doanh nghiệp. TNXH là phương tiện để sửa chữa những khuyết tật do doanh
nghiệp gây ra cho xã hội.
Trào lưu trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Châu Âu: ở Châu Âu, mãi
đến những năm 90 của thế kỷ XX, khái niệm TNXH của DN mới xuất hiện, và trước hết
diễn đạt bằng các thuật ngữ doanh nghiệp công dân; doanh nghiệp có đạo đức, tiếp đến
mới là doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội. Doanh nghiệp ở châu Âu là một “đơn vị
chính trị”, hành vi của doanh nghiệp không thể quy giản là hành vi của cá nhân hay
hành vi của các thành viên trong doanh nghiệp. Trào lưu ở Châu Âu có khuynh hướng

coi TNXH là hoạt động được đánh giá đặt trong khuôn khổ của các hoạt động thông
thường của doanh nghiệp. Có một số khái niệm liên quan như công dân tập đoàn tốt
(good corperate citizenship); thương mại có đạo đức (ethical trading); lao động công
bằng (fair labor); lương theo mức sống (living wage); chống xưởng bóc lột (no
sweatshop) và được soạn ra thành các tiêu chuẩn. Có ba lý do làm cho vấn đề “TNXH
của DN” được chú ý nhiều ở Châu Âu.
- Trong hai mươi năm cuối cùng của thế kỷ XX, người ta chứng kiến cái gọi là “xã
hội rủi ro” được thể hiện qua việc giảm bớt khả năng chấp nhận rủi ro ở các doanh nghiệp
cũng như các cổ đông, những người lao động ăn lương.
- Mọi người ngày càng ý thức hơn về sự đe dọa của những mối hiểm họa có nguồn
gốc từ hoạt động của doanh nghiệp, có thể gây ra những hậu quả không thể đảo ngược
(chẳng hạn như hủy hoại sinh quyển, sự gia tăng của tình trạng bất bình đẳng đe dọa sự cố
kết xã hội, những tổn hại tới sức khỏe cộng đồng). Trong đó, hoạt động kinh tế nói chung
và các doanh nghiệp lớn nói riêng bị xem như thủ phạm gây ra những thảm họa đó.
- Nhiều phong trào xuất phát từ các tổ chức xã hội dân sự đã gây sức ép ngày
càng tăng lên hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là trong vấn đề liên quan đến việc
tôn trọng các quyền con người, quyền xã hội, bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng
đồng. Nhiều cuộc thăm dò cho thấy, ngày nay mong đợi của công chúng đối với doanh

15


nghiệp chủ yếu là cách ứng xử của doanh nghiệp đối với môi trường và người lao động
chứ không phải là hoạt động kinh tế thuần túy.
Ý thức được những vấn đề đó, phản ứng của các doanh nghiệp là cố gắng gây
dựng lại hình ảnh của mình và khôi phục niềm tin đã bị đánh mất. Sự thành công của
một doanh nghiệp nói chung phụ thuộc vào sự quan tâm của doanh nghiệp đến các bên
liên quan (stakeholders), tức là những người và những thực thể mà doanh nghiệp có
những mối quan hệ mang tính khế ước hoặc có thể có một ảnh hưởng nào đó đối với
doanh nghiệp. Như vậy, những mong đợi của xã hội, những phản ứng hay hành động đón

đầu của các doanh nghiệp cùng với những hiệu ứng hồi đáp từ phía xã hội sẽ làm phát
sinh các động lực liên kết mới giữa lĩnh vực kinh tế và xã hội và điều này sẽ tạo nên
những mục tiêu mới mẻ cho các chủ thể kinh tế và xã hội.
Điều quan trọng hơn, vào thời điểm này, ở châu Âu và một số nước phát triển
khác, các chính sách về phát triển bền vững bắt đầu được thực thi. Do đó, TNXH của DN
được nhìn nhận dưới góc độ là những đóng góp từ phía các doanh nghiệp cho sự phát
triển bền vững. Cuối cùng, TNXH của DN được thiết lập theo nguyên tắc phòng ngừa
những hậu quả tiêu cực cho xã hội chứ không phải khắc phục hậu quả, tức thể hiện bằng
hành động cụ thể về tầm nhìn của doanh nghiệp đối với môi trường phát triển bền vững.
Việc nghiên cứu hai trào lưu ở Mỹ và Châu Âu của các học giả người Pháp này
giúp tác giả luận án nhận thấy, những bộ quy tắc TNXH mà doanh nghiệp xuất khẩu
của Việt Nam hiện nay đang áp dụng chủ yếu xuất phát từ Mỹ và các nước Châu Âu.
Một câu hỏi đặt ra là, liệu Việt Nam có sử dụng bộ quy tắc về TNXH của DN sẵn có
như vậy hay hình thành nên một bộ tiêu chuẩn dành riêng cho đặc thù ở Việt Nam? Dù
chúng ta sử dụng bộ quy tắc TNXH của DN sẵn có hay thiết lập bộ quy tắc mới,
nguyên tắc thiết lập là phòng ngừa những hậu quả tiêu cực cho xã hội chứ không phải
khắc phục hậu quả và nhìn nhận dưới góc độ là những đóng góp từ phía các doanh
nghiệp cho sự phát triển bền vững.
1.2. Những công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
ở Việt Nam
1.2.1. Những công trình nghiên cứu về kết quả thực hiện trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp ở Việt Nam
Ở Việt Nam, dù đã có những doanh nghiệp áp dụng TNXH của DN nhưng đây
vẫn là vấn đề khá mới mẻ vì thế những công trình viết về thực trạng thực hiện TNXH
của DN không nhiều. Các công trình này chủ yếu do các nhà khoa học ở các Viện

16


nghiên cứu, các trường đại học, các Bộ, Ban, ngành và các tổ chức trong, ngoài nước

phối hợp công bố như:
- Lê Thanh Hà (2009), Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt
Nam gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
Trong công trình này, tác giả đã chỉ ra bản chất của TNXH của DN, sự cần thiết
phải thực hiện TNXH của DN trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của
WTO, đặc trưng của một số bộ quy tắc phổ biến và mức độ tương thích của chúng với
pháp luật Việt Nam cũng như chỉ ra điều kiện áp dụng TNXH ở Việt Nam hiện nay.
Thông qua trình bày một số vấn đề có tính cơ sở lý luận và thực tiễn về TNXH của DN
nêu trên, tác giả Lê Thanh Hà đã phân tích, đánh giá việc thực hiện TNXH của doanh
nghiệp ở Việt Nam qua khảo sát 15 doanh nghiệp của 5 ngành kinh tế điển hình và đề
xuất các giải pháp thúc đẩy việc thực hiện TNXH của DN tại các doanh nghiệp nói
chung. Theo chúng tôi, nếu đặt vấn đề thực thi TNXH của DN chỉ trong điều kiện Việt
Nam bắt đầu gia nhập WTO thì chưa đầy đủ. Những luận cứ mang tính thực tiễn ở Việt
Nam của công trình này giúp tác giả luận án tham khảo đề giải quyết nhiệm vụ đặt ra
trong chương 3: Kết quả thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam.
- Nguyễn Đình Tài và cộng sự (2009), Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương, thực hiện đề tài khoa học cấp bộ Tăng cường TNXH của DN đối với người tiêu
dùng và đối với môi trường ở Việt Nam vì sự phát triển bền vững.
Đề tài trên đã triển khai giải quyết bốn nhiệm vụ chính: Làm rõ cơ sở lý luận, ý
nghĩa và vai trò của TNXH của DN đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp
và đất nước; tìm hiểu và rút ra các bài học về thực hiện TNXH của DN đối với người
tiêu dùng và đối với môi trường ở một số nước; phân tích, đánh giá khái quát thực
trạng TNXH của DN đối với lĩnh vực tiêu dùng và trách nhiệm môi trường ở Việt
Nam; đề xuất các giải pháp tăng cường TNXH đối với người tiêu dùng và môi trường
nhằm đạt tới mục tiêu phát triển bền vững, hài hòa của nền kinh tế và của chính bản
thân doanh nghiệp. Kết quả nghiên của đề tài này giúp tác giả luận án tham khảo về
tiếp cận nội dung TNXH đối với người tiêu dùng và môi trường trong những năm gần
đây. Đồng thời, những dữ liệu và kết quả đánh giá thực trạng TNXH của DN đối với
hai lĩnh vực trên cũng là tư liệu để tác giả luận án tham khảo nghiên cứu thực trạng
thực hiện TNXH của DN ở Việt Nam hiện nay.

Ngoài các công trình nghiên cứu TNXH của DN được xuất bản dưới dạng sách,
giáo trình, đề tài khoa học, còn có những nghiên cứu về TNXH của DN được đề cập trong

17


các hội thảo, tọa đàm khoa học hay các bài báo được công bố trên các tạp chí.
- Trung tâm Pháp - Việt về đào tạo quản lý (CFVG) (20/4/2009) đã tổ chức hội
thảo Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại Việt Nam: Từ lý thuyết đến thực tiễn tại
thành phố Hồ Chí Minh.
- Một công trình khác nghiên cứu về thực tiễn thực hiện TNXH của DN, trong đó có
đề cập đến Việt Nam, là công trình luận văn Thạc sỹ Coporate Social Resposibility through
the Supply Chain (Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng): MNCs to
SMEs (Columbia University, 2005) của tác giả Singh, Kundu và Foster B. Các tác giả này
đã so sánh 6 trường hợp của 6 công ty đa quốc gia đóng tại 6 nước đang phát triển là Brazil,
Mexico, Ghana, Zimbabwe, Tanzania, Indonesia, Việt Nam. Công trình nghiên cứu đã đưa
ra các cách hiểu khái quát về TNXH của DN, phân tích lợi ích cũng như sự cần thiết tăng
cường TNXH của DN và đề xuất các cách tiếp cận khác nhau để tăng cường TNXH của
DN ở các chủ thể và lĩnh vực cụ thể. Các công trình này nghiên cứu TNXH dưới góc độ
kinh tế nhiều hơn và một số đề xuất thực hiện TNXH của họ chưa phù hợp với điều kiện
của doanh nghiệp Việt Nam (nhận xét của Nguyễn Đình Tài) [77,4].
- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS), MISSEREOR (2007), công bố Kỷ
yếu hội thảo quốc tế Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường. Kỷ yếu giới
thiệu 78 bài viết về các khía cạnh khác nhau của TNXH trong điều kiện kinh tế thị
trường như: TNXH đối với giáo dục, môi trường; TNXH của từng chủ thể khác nhau
trong xã hội được biểu hiện như thế nào (cá nhân, nhà nước, tổ chức chính trị, doanh
nghiệp)... Riêng về TNXH của DN có khoảng gần 20 báo cáo, trong đó các tác giả đã
phân tích một số vấn đề lý luận về TNXH của DN cũng như chỉ ra trong điều kiện kinh
tế thị trường, doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức về vốn,
công nghệ, nguồn nhân lực, uy tín, thương hiệu…, thì một trong những giải pháp để

nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp chính là thực hiện tốt TNXH.
- Diễn đàn châu Á hàng năm lần thứ 6 về TNXH của DN đã được tổ chức tại
thành phố Hồ Chí Minh trong 2 ngày 27 và 28/9/2007. Đây là lần đầu tiên, Việt Nam
đăng cai tổ chức Diễn đàn châu Á về TNXH với chủ đề “TNXH của DN - động lực thúc
đẩy quá trình gia tăng và phát triển: Làm thế nào TNXH của DN có thể giảm đói nghèo,
tạo nên hiệu quả đầu tư và thương mại cải tiến hoạt động kinh doanh”. Nhiệm vụ chính
của Diễn đàn là nhấn mạnh đến những chương trình đổi mới và những kế hoạch xây
dựng thực tiễn tốt nhất đối với TNXH của DN như một chiến lược chính trong việc
chuyên tâm đến những nhu cầu và vấn đề cộng đồng. Một trong những hoạt động quan

18


×