Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Giải pháp tăng cường thu hút nhân lực khoa học và công nghệ cho công tác nghiên cứu và triển khai thông qua thực hiện các đề tài, dự án khoa học và công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-----------------------------------------

NGUYỄN NGỌC HƯNG

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH SAU CHIẾN TRANH QUA
CÁC TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI, LÊ LỰU, BẢO NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

CHUYÊN NGÀNH:
MÃ SỐ:

LÝ LUẬN VĂN HỌC
60.22.32

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN VĂN NAM

HÀ NỘI - 06/2010


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài……………………………………………...................

1



2. Lịch sử vấn đề ………………………………………………..................

4

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu …………………………………………

10

4. Phƣơng pháp nghiên cứu ………………………………………………..

10

5. Mục đích, đóng góp của luận văn ……………………………................

10

6. Kết cấu của luận văn ……………………………………………………

11

PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………..

12

NHỮNG NHÀ VĂN MẶC ÁO LÍNH…………………………………….

12

CHƢƠNG 1: NGƢỜI LÍNH VÀ BI KỊCH NGÀY TRỞ VỀ……………..


21

1. Quá trình hòa nhập không dễ dàng với cuộc sống sau chiến tranh……

22

2. Quá khứ ám ảnh………………………………………………………

31

3. Những đổ vỡ, mất mát trong tình yêu và hạnh phúc gia đình…………

37

CHƢƠNG 2: NGƢỜI LÍNH VÀ NHỮNG PHẨM CHẤT TỐT ĐẸP…..

43

1. Trân trọng quá khứ……………………………………………………

43

2. Băn khoăn, trăn trở về những thay đổi của con ngƣời và xã hội sau
chiến trang………………………………………………………………...

47

3. Vƣợt lên để chiến thắng hoàn cảnh, tự đấu ttranh để hoàn thiện mình


53

CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƢỢNG……………..

61

1. Nghệ thuật miêu tả…………………………..……………………….

62

1.1 Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn……………………………………

62

1.2 Miêu tả tâm lý nhân vật………………………………………….

65

2. Không gian và thời gian nghệ thuật…………………………………

69

2.1 Không gian nghệ thuật…………..………………………………

69

2.1.1 Không gian đƣợc định vị từ điểm đến diện……………………

70


0


2.1.2 Không gian đƣợc định vị theo trục thời gian…………………

72

2.1.3 Không gian đối lập …………………………………………….

73

2.2 Thời gian nghệ thuật …………………………………………….

75

3. Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật……………………………………

80

3.1 Ngôn ngữ gần gũi với đời sống….………………………………..

80

3.2 Giọng điệu trần thuật………... ……………………………………

83

KẾT LUẬN……………………………………………………………….

89


TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..

93

1


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chiến tranh là một đề tài lớn trong văn học từ trước tới nay. Sự hiện diện
của mảng đề tài này trong văn học chính là sự phản ánh sinh động nhất bức tranh
hiện thực cuộc sống trong những giai đoạn lịch sử đặc biệt của từng dân tộc và
của cả loài người. Với văn học Việt Nam, chiến tranh và người lính từ lâu đã
được xem như là đề tài có tính truyền thống. Ra đời, phát triển trong môi trường,
bối cảnh lịch sử dân tộc suốt một nghìn năm giặc phương Bắc xâm lăng, cả trăm
năm dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, văn học Việt
Nam là tấm gương phản ánh trung thành và chân thực hiện thực cuộc sống của
đất nước và con người trong những cuộc trường chinh dựng nước và giữ nước.
Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam cũng từng bước trưởng thành qua mỗi
chặng đường phát triển của văn học dân tộc. Ở mỗi chặng đường, đề tài chiến
tranh lại được tiếp cận và phản ánh từ những góc độ khác nhau, theo những cảm
hứng khác nhau. Đặc biệt, sau khi hoà bình và thống nhất đất nước (từ tháng 4
năm 1975), văn học vẫn không thôi viết về chiến tranh và càng hăng hái trong
nhiệm vụ phản ánh đời sống thời hậu chiến. Lúc này, người viết đã có những
“độ lùi” cần thiết để nhìn nhận về cuộc chiến, để thâm nhập sâu hơn vào đời

sống tinh thần của người lính, vì vậy mà chiến tranh đã trở thành “siêu đề tài,
người lính trở thành siêu nhân vật, càng khám phá càng thấy những độ rung
không mòn nhẵn”[57;18].
Thực chất, văn học “hậu chiến” là một khái niệm ước lệ chỉ một giai đoạn
văn học ngay sau chiến tranh mà cảm hứng chính của nó vẫn là suy ngẫm về chiến
tranh trong hoàn cảnh mới. Văn học của những con người vừa bước ra khỏi, còn
bị chi phối nặng nề bởi quán tính cuộc chiến. Từ rất sớm, trong bài Viết về chiến
1


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

tranh (1978), Nguyễn Minh Châu đã đặt ra câu hỏi cho hướng đi của tiểu thuyết
chiến tranh sau thời chiến. Khi “tất cả những vấn đề quy luật của chiến tranh đã
phát triển trọn vẹn, những số phận và tính cách nhân vật cũng đã phơi bày trọn
vẹn”, khi trong hàng chục cuốn hồi kí của các tướng lĩnh “có rất nhiều sự kiện,
nhiều bối cảnh lịch sử được kể lại một cách hết sức cụ thể”, “tiểu thuyết viết về
chiến tranh sẽ tìm trong lĩnh vực nào để mình có một chỗ đứng không trùng lặp
với chỗ đứng của hồi kí chiến tranh?”. Sự lựa chọn duy nhất là “phải viết về con
người”. Con người với “tất cả những mặt tính cách đa dạng phải phơi bày trong
đời sống thực” mà đã nhiều thập kỷ qua “tạm thời giấu mình trên trang sách”.
Tiểu thuyết chiến tranh không thể để các nhân vật bị sự kiện lấn át, “chỉ đóng vai
trò làm đường dây để xâu chuỗi các sự kiện lại với nhau”. Nhìn lại quá khứ đã
qua, khoảng cách thời gian đã đưa lại cho người cầm bút những suy nghĩ, chiêm
nghiệm sâu sắc về số phận con người ở khía cạnh mà trước đây luôn bị làm mờ đi,
nhạt đi trước số phận dân tộc: khía cạnh bi kịch cá nhân. Cảm hứng bi kịch là cội
nguồn cho sự xuất hiện của một loại nhân vật mang diện mạo tinh thần hoàn toàn
mới trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975, nhất là sau 1986 nhờ nỗ lực đổi mới và

dân chủ hóa đời sống văn hóa văn nghệ.
Có thể nói, sự thay đổi của thể loại tiểu thuyết nằm ở chính cái mới trong
quan niệm về đề tài vốn không mới này trong quá trình đổi mới của văn học Việt
Nam sau 1975. Chiến tranh và người lính trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 nói
chung, tiểu thuyết nói riêng, đã được nhìn nhận trong quan niệm mới về cuộc đời
và con người. Từ giữa những năm 1980 thì cái nhìn đời thường theo khuynh
hướng thế sự - đời tư được trở nên phổ biến. Chiến tranh, người lính đã được
khai thác trong tương quan với những đề tài khác, những đề tài mà chỉ có trong
thời bình người ta mới có cơ hội để khai thác. Đặc điểm trên kéo theo một hệ

2


Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Ngọc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

qu: trong xu hng phn ỏnh chung ca vn hc i mi, ngi lớnh c phn
ỏnh t nhiu bỡnh din, trong nhiu mi quan h ca i sng. Ngi lớnh - sn
phm lch s mt thi - ó c nhỡn nhn khụng ch bng nhón quan lch s dõn tc m cũn nh nhng s phn cỏ nhõn, trong mi tng quan nhiu chiu
thi gian, nhiu phm vi sng khỏc nhau. Xuõn Thiu, mt nh vn tng khoỏc
ỏo lớnh tri qua hai cuc chin tranh ó rỳt ra nhng suy ngm thm thớa: m
vang chin tranh khụng ch l ni nh v quỏ kh cha xa, m ch yu s tỏc
ng ca chin tranh hn sõu vo i sng v s phn tng con ngi cho mói
n bõy gi, v cha bit bao gi mi cú th vớ bng nhng con súng ln tn trờn
mt h sau cn bóo...[107;25].
Vn ng i mi ca vn hc Vit Nam sau 1975 chng ng i mi
mnh m k t sau 1986 l s lờn ngụi ca vn xuụi vi t duy tiu thuyt hin
i. S i thoi ca vn hc i mi vi vn hc s thi trong thi kỡ i mi
c bc l thnh khuynh hng phn s thi, t ý thc t ci trúi ho nhp

vi dũng chy chung ca vn hc nhõn loi. Cỏi nhỡn mi v chin tranh, v
ngi lớnh trc ht xut phỏt t bi cnh cỏch tõn sụi ni y. T õy, nhng cõu
chuyn ca i sng thng ngy trn vo vn hc, to nờn nhiu li r, khụng
ch l nhng cỏi thuc v chin tranh.
Chỳng tụi c bit n tng vi cỏc sỏng tỏc ca Chu Lai, Lờ Lu, Bo
Ninh. C ba tỏc gi u l nh vn quõn i v ú cng l ba ụng ln ca vn
hc Vit Nam sau 1975. Bờn cnh vic khai thỏc nhng ti mi ca cuc sng
hũa bỡnh, cỏc nh vn vn trung thnh vi ti ngi lớnh. Cỏc sỏng tỏc cho ta
thy cỏi nhỡn au ỏu gn nh xuyờn sut, to cho ngi c rt nhiu ỏm nh v
hỡnh tng ngi lớnh sau cuc chin. ng thi ta cng thy c s nhy cm
ca cỏc nh vn trc nhng bin ng ca thi i cho ra i nhng tỏc

3


Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Ngọc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

phm th hin s bỏm sỏt tng bc i ca i sng, úng gúp nhiu ting núi
ln cho vn hc.
Lý do chn ti ny l chỳng tụi mun thụng qua cỏc tiu thuyt vit
v chin tranh v ngi lớnh ca ba nh vn trờn mt ln na cú cỏi nhỡn a
chiu, sõu hn, khỏch quan v ton din hn v ngi lớnh sau chin tranh.
2. Lch s vn
Sau nm 1975, vn hc Vit Nam núi chung, tiu thuyt núi riờng ó bc
sang mt chng ng mi ca tin trỡnh hin i hoỏ. Trong i sng vn hc,
tiu thuyt ó t c khụng ớt thnh tu c v s lng v cht lng sỏng tỏc,
ni bt lờn vi nhiu tờn tui trong ú cú Chu Lai, Lờ Lu, Bo Ninh. iu ny
lý gii c ti sao tiu thuyt thi k ny tr thnh i tng nghiờn cu ca rt

nhiu cụng trỡnh, bi bỏo khoa hc. Dự l trc tip hay giỏn tip thỡ trong cỏc
cụng trỡnh nghiờn cu v tiu thuyt thi k ny, ngi ta ó dnh s quan tõm
ỏng k n i tng l chin tranh v ngi lớnh.
Tiu thuyt v ti chin tranh v ngi lớnh khụng nm ngoi s vn
ng chung ca vn xuụi. Trc khi bn n nhng ý kin trc tip cp n
vn chin tranh v ngi lớnh trong tiu thuyt, cn phi k n nhng nhn
nh khỏi quỏt v s vn ng i mi ca vn xuụi sau 1975. Nhỡn chung, vn
xuụi Vit Nam sau 1975 ó c phõn tớch nhng phng din c bn, th
hin quy lut phỏt trin ca vn hc v hu ht cỏc ý kin nghiờn cu phờ bỡnh
u gp nhau s khng nh thnh tu cỏch tõn ca vn xuụi thi kỡ ny. Nh
nghiờn cu Nguyờn Ngc ó vit: Tỡnh hỡnh sỏng tỏc vn hc hin nay theo tụi
cú hai mt: mt mt, mt chớnh l rt tt. Sỏng tỏc vn hc ca chỳng ta ang hay
dn lờn. Hỡnh nh sỏng tỏc v i th ang chuyn lờn mt bỡnh din mi cao
hn, sõu sc hn, vn hc hn, ngi hn. Tớnh xó hi rt mnh m, nhiu khi
4


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

đến gay gắt, tính nhân văn ngày càng sâu, không dễ dãi...” [80;7] còn tác giả Hà
Xuân Trường thì nhận định: “Có sự đổi mới thực sự trong văn học”, “dư luận
rộng rãi tập trung đánh giá mặt tích cực của văn học, chủ yếu là văn xuôi trong
những năm gần đây. Chính mặt tích cực đó đại diện cho sự đổi mới văn học” (trả
lời phỏng vấn trong Lễ tưởng niệm và hội thảo về Nguyễn Minh Châu, Văn
nghệ Quân đội số 3/1994). Nhà văn Nguyễn Quang Thân lại cho rằng “chưa bao
giờ văn xuôi phát triển mạnh như bây giờ” và “chưa bao giờ nhà văn được thành
thật như bây giờ” [114;86]. Bàn về văn học từ 1975 đến 1990, GS. Hoàng Ngọc
Hiến nhận xét: “Điều đặc biệt quan trọng là trong mười lăm năm qua, kinh

nghiệm văn học của người sáng tác cũng như công chúng văn học là một sự kinh
nghiệm bừng tỉnh, rõ ràng là có một sự thay đổi trong thị hiếu và nhu cầu văn
học...”[112;28]. Tính chất bước ngoặt của văn xuôi nói chung, tiểu thuyết nói
riêng sau 1975 được đánh giá gắn với những vấn đề cụ thể hơn trong các bài viết
của Nguyên Ngọc, Bích Thu, Vũ Tuấn Anh, Mai Hương... Nhà văn Nguyên
Ngọc cho rằng văn học đã cố gắng rút khỏi đề tài số phận chung của cả cộng
đồng dân tộc, đi đến hiện thực ngổn ngang, khai thác sâu hơn vào số phận của
từng cá nhân trong đó có người lính thời hậu chiến và vì thế mà phạm vi quan
tâm của văn học ngày càng rộng lớn, phong phú.
Nguyễn Minh Châu, người đã có được những thành công nổi bật ở thể loại
tiểu thuyết sử thi trước 1975 cũng đồng thời là người nhạy bén với xu thế đổi
mới và mạnh bạo với những thể nghiệm văn xuôi hiện đại. Dưới góc độ lý luận
phê bình, ông cũng là một trong những người có công đầu trong thời điểm
chuyển mình có tính chất bước ngoặt khi đưa ra vấn đề nóng bỏng, đầy tính thời
sự của nhu cầu đổi mới. Trong bài viết Viết về chiến tranh [15;7], sau khi đưa ra
những nhận định về đặc điểm cơ bản của văn học 1945 – 1975 trong việc khai

5


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thác hiện thực chiến tranh và hình tượng người lính, chỉ ra sự hạn chế của các tác
phẩm viết về chiến tranh giai đoạn này là “một chiều, theo hướng tích cực,
những mặt xấu được giấu đi trên trang sách”, Nguyễn Minh Châu đặt ra vấn đề
thể hiện “con người” trong văn học, kêu gọi những cái nhìn mới, chân thực hơn
về chiến tranh, về người lính, đào sâu chất nhân văn, nhân bản từ đề tài chiến
tranh.

Nghiên cứu các tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh và người lính sau năm
1975 bằng việc khảo sát một số tác phẩm của Nguyễn Trọng Oánh, Lê Lựu, Bảo
Ninh, Chu Lai, Nguyễn Minh Châu..., tác giả Đinh Xuân Dũng đã đưa ra những
đánh giá khá cụ thể khi nhìn nhận “sự xuất hiện tính đa dạng của phương thức
khái quát hiện thực chiến tranh và tính đa thanh của việc đánh giá hiện thực”;
đồng thời nói đến sự “khái quát vĩ mô” và “khái quát vi mô” đối với đề tài chiến
tranh như là hai khuynh hướng cùng song tồn. Tất nhiên sự song hành hai
khuynh hướng này giảm dần kể từ đầu thập kỷ 80, “khái quát vĩ mô” dần nhường
chỗ cho “khái quát vi mô”, văn xuôi viết về chiến tranh hướng tới những số phận
cá nhân, những biến động phức tạp tinh vi của thế giới tinh thần [20;121].
Khi nhận xét về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), nhà phê
bình Đặng Quốc Nhật nhận xét: “Nỗi buồn chiến tranh gợi ra cho chúng ta
những suy nghĩ mới cho tiểu thuyết về đề tài chiến tranh và người lính. Ở đây
người đọc thấy được sự dữ dội, khốc liệt của cuộc chiến đấu trên chiến trường,
sự chịu đựng đến mức ghê gớm, cái giá của chiến công và chiến thắng cuối cùng,
bi kịch của người lính thời hậu chiến...”. Trong bài viết Chiến tranh trong các
tác phẩm văn chương được giải, nhà nghiên cứu Tôn Phương Lan đã nhận xét:
“văn học viết về đề tài chiến tranh trong những năm chiến tranh ít nói về buồn
vui của cuộc sống thường nhật, ít nói về những đau thương, mất mát, hi sinh trên

6


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

chiến trường, ít quan tâm đến số phận con người mà tập trung quan tâm đến số
phận đất nước. Sau chiến tranh, văn học viết về đề tài này mới có “xu hướng viết
về sự thật của đời sống, viết về những khó khăn, ác liệt, những sai lầm, vấp ngã,

thiếu sót của người lính trong chiến tranh cũng như trước sự cám dỗ của cuộc
sống đời thường”; hiện thực chiến tranh đã đựơc nhìn nhận qua thế giới nội tâm,
những số phận cá nhân con người.
Ở một tầng bậc khác, nhà văn Hồ Phương xem quá trình vận động của văn
học về chiến tranh sau 1975 như là “sự trở về của nguyên lí: Văn học là nhân
học. Theo ông, văn học sau 1975 chủ yếu là khám phá và biểu hiện tâm hồn, tính
cách, sức sống của con người qua những số phận rất khác nhau trong muôn vàn
sự kiện xảy ra trong cuộc sống”; và “Để đi sâu vào số phận con người, không ít
tác giả đã đi sâu viết về các bi kịch cá nhân nằm trong bi kịch chung của dân tộc
trong cuộc chiến. Qua những bi kịch ấy, tính cách và bản ngã của con người đã
được bộc lộ rõ”, “càng đi sâu vào con người, văn học ta càng gần tới bản chất
cuộc sống, do đó tính nhân văn cũng cao hơn”.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cũng đã tổng kết trong Mấy ghi nhận về sự
đổi mới của tư duy nghệ thuật và hình tượng con người trong văn học ta thập
kỉ qua rằng: “Nhìn chung có thể khẳng định được là nền văn học nước ta sau
năm 1975 đánh dấu sự biến đổi đáng kể của tư duy văn học và đang ở vào thời kì
mới, thời kì hứa hẹn một sự khám phá và tái hiện hình tượng con người nhiều
mặt trong tất cả chiều sâu phong phú của nó... Một trong những tên tuổi không
thể không kể đến đó là Bảo Ninh...”. Quả thực ở giai đoạn sau năm 1975, sự xuất
hiện của nhà văn Bảo Ninh đã như một luồng gió mới khiến dư luận xôn xao một
thời gian dài và từ đó trở đi số lượng những bài viết về các tác phẩm của ông
cũng nhiều dần lên, có thể kể đến như: Bảo Ninh và nỗi ám ảnh về chiến tranh,

7


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Hiện tượng phân rã cốt truyện trong “Thân phận của tình yêu”, Thời gian
trong “Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh”… Riêng tác phẩm Nỗi buồn
chiến tranh là một trong ba tiểu thuyết được giải của Hội Nhà văn Việt năm
1991, ngay từ khi xuất hiện đã gây nhiều xôn xao trong làng văn và độc giả,
khen cũng nhiều mà chê chẳng ít. Trong đó đã có các bài viết như Giải thưởng
Hội Nhà văn 1991 và tình hình văn học hiện nay - Ban chấp hành Hội Nhà
văn Việt Nam( Báo Văn nghệ số 38 ngày 21/9/1991), Thảo luận về tiểu thuyết
Thân phận của tình yêu (Văn nghệ số 37 ngày 14/9/1991); Nghĩ gì khi đọc
Thân phận của tình yêu của tác giả Đỗ Văn Khang (Văn nghệ số 13 ngày
26/10/1991) hay bài của Nguyễn Khắc Phê trên báo Văn nghệ số 44 ngày
02/11/1991). Nhìn chung, các bài báo và các ý kiến thảo luận đều đề cập đến
góc độ tác giả, phương diện phản ánh hiện thực hoặc về chủ đề, về cấu trúc, về
thi pháp... Có thể nêu một vài những nhận xét tiêu biểu như: Phạm Tiến Duật,
Lê Quang Trang cho rằng, toàn bộ tác phẩm là một bản so-nat buồn, nỗi buồn
cao thượng và trong trẻo làm nên cái gốc cho tác phẩm. Theo nhà nghiên cứu
Bùi Việt Thắng nhận xét, tác phẩm có cấu trúc đặc biệt. Cấu trúc vòng tròn hay
cấu trúc lồng, giống như trò chơi Rubic. Nhiều tầng lớp (đa tuyến) nhưng lại
mang dáng vẻ gọn nhẹ, linh hoạt... Còn tác giả Đỗ Văn Khang lại coi “đây vẫn
là một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời...”. Nếu chỉ tính riêng
trong giới phê bình văn học, có lẽ Bảo Ninh là hiện tượng được rất nhiều những
tên tuổi uy tín như Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Lại Nguyên Ân… bình luận
về các sáng tác của ông dưới mọi góc độ từ ngôn ngữ, hình ảnh, nhân vật đến kết
cấu cốt truyện, giá trị nội dung, tư tưởng. Với những tác phẩm khác đặc biệt là
các công trình khóa luận tốt nghiệp của sinh viên và luận văn thạc sĩ học viên
cao học thì các tác phẩm của Bảo Ninh lại được tiếp cận một cách sâu sắc, tỉ mỉ

8


LuËn v¨n Th¹c sÜ

NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

hơn từ những điểm nhìn khác nhau về nghệ thuật lựa chọn, xây dựng tính cách
nhân vật, cách thức sử dụng ngôn ngữ, biểu tượng, phương pháp điển hình hóa
đối tượng, nhân vật người kể chuyện... Tuy nhiên có một khía cạnh mà tất cả
những công trình, tác phẩm nghiên cứu về Bảo Ninh chưa đề cập một cách tập
trung, có chiều sâu về hình tượng người lính sau chiến tranh mà chúng tôi sẽ
khai thác ở trong luận văn này.
Chu Lai và Lê Lựu là hai nhà văn cùng thế hệ và đều thành công nhờ
những tác phẩm tiểu thuyết viết về hình tượng người lính trong và sau chiến
tranh. Có thể nói rằng các tác phẩm của hai tác giả này đã giúp bạn đọc khám
phá được rất nhiều về cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc với những khía
cạnh, góc nhìn khá toàn diện và đầy đủ. Bằng một loạt các sáng tác của mình từ
sau ngày đất nước giải phóng, tên tuổi của hai nhà văn Chu Lai và Lê Lựu đã
được khẳng định và có vị trí quan trọng trên văn đàn. Qua tìm hiểu, chúng tôi
thấy rằng, đa phần những bài nghiên cứu, những ý kiến đánh giá tác phẩm của
Chu Lai và Lê Lựu là những bài đăng trên các báo, tạp chí cũng như các chương
trình phát thanh, truyền hình mà chưa có một công trình quy mô hoặc một cuốn
sách chuyên khảo riêng biệt. Những bài báo phê bình này đều có dung lượng
ngắn, đa phần là những bài phỏng vấn trực tiếp nhà văn về vấn đề nhân vật, hoàn
cảnh ra đời cũng như thông điệp mà tác giả gửi gắm qua tác phẩm. Cũng giống
như trường hợp của nhà văn Bảo Ninh, nghiên cứu về hình tượng người lính thời
hậu chiến trong tiểu thuyết của Chu Lai và Lê Lựu chưa có một công trình quy
mô, đầu tư theo chiều sâu tập trung vào mảng đề tài chủ lực của hai tác giả này.
Bởi vậy chúng tôi xác định đây là công trình nghiên cứu đầu tiên theo
hướng toàn diện các tiểu thuyết về chiến tranh và hình tượng người lính của ba
nhà văn Chu Lai, Lê Lựu, Bảo Ninh. Ở luận văn này, chúng tôi đi sâu vào khai

9



LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thác về khía cạnh hình tượng người lính trọn vẹn, nhiều chiều. Đó là hình tượng
người lính mang những sắc thái thẩm mỹ mới, không phải người lính nơi chiến
trận mà là người lính giữa cuộc sống đời thường.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn sử dụng những sáng tác thuộc thể loại tiểu thuyết về đề tài chiến
tranh và người lính của Chu Lai, Lê Lựu, Bảo Ninh làm đối tượng khảo sát, từ
đó khái quát về cách nhìn nhận, khai thác hiện thực chiến tranh, sự thể hiện hình
tượng người lính gắn với những dấu hiệu đổi mới về sự phản ánh hiện thực và sự
thể hiện nhân vật. Các tiểu thuyết chính chúng tôi lựa chọn sẽ là: Thời xa vắng
của Lê Lựu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng và Vòng tròn
bội bạc của Chu Lai. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng thêm một số tác phẩm khác
của các tác giả trên và một số tác giả khác để làm dẫn chứng minh hoạ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi vận dụng các thao tác của thi pháp học, loại hình học, văn bản
học... trong quá trình xử lí các nội dung nghiên cứu.
Ngoài ra, các phương pháp cụ thể như thống kê, so sánh, phân loại, phân tích,
tổng hợp... cũng được kết hợp sử dụng.
5. Mục đích, đóng góp của luận văn.
- Có được những hình dung cơ bản và toàn diện nhất về đặc điểm hình tượng
người lính qua ba tác phẩm.
- Thấy được những nét cơ bản trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả.
- Luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo trong thực tiễn nghiên cứu về
văn xuôi đương đại Việt Nam nói chung và văn học Việt Nam sau 1975 nói
riêng.

10


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
triển khai nội dung thành 3 chương:
Chương 1: Người lính và bi kịch ngày trở về.
Chương 2: Người lính với những phẩm chất tốt đẹp.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng hình tượng.

11


Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Ngọc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

PHN NI DUNG

NHNG NH VN MC O LNH
Trong vn xuụi Vit Nam sau 1975 núi chung, trong sỏng tỏc ca ba nh vn
Chu Lai, Bo Ninh v Lờ Lu núi riờng, nhõn vt ngi lớnh c phn ỏnh t
nhiu bỡnh din, trong nhiu mi quan h ca i sng. Ngay bỡnh din con
ngi lch s vn l nột n nh, vng chc nht trong cu trỳc hỡnh tng ngi
lớnh ca vn xuụi khỏng chin cng din ra nhng thay i khi nh vn quan
nim v chin tranh, ngi lớnh ch nh mt khu vc ti m khụng hm cha

s phõn nh cao thp, khụng cũn l phm vi c thự ca cỏi nhỡn s thi v i
sng. S bin i trong mi quan h gia ngi lớnh vi lch s nm trong s
chuyn dch khong cỏch giỏ tr gia cỏ nhõn vi cng ng, th hin ni bt quỏ
trỡnh th nghim con ngi cỏ nhõn mi trong quan nim vn hc v chng t s
xõm nhp, dõn ch hoỏ theo hng a dng hoỏ ti. iu ny xut phỏt t
thc t vn hc sau nm 1975 mc dự cuc khỏng chin chng M kt thỳc thng
li, song nhng gỡ m cuc chin y li trờn t nc, trong con ngi Vit
Nam l quỏ m nột, khụng th phụi phai mt sm mt chiu. Khụng k cỏc tỏc
phm vit v nhng s kin lch s ca mt thi khỏng chin ó qua, mt cỏch t
nhiờn, phn ln cỏc tỏc phm u cú búng dỏng ca lch s. Vn l, phng
din lch s, cú s thay i ln trong quan im tip cn, ỏnh giỏ, c th hn,
bỡnh din lch s, ngi lớnh ó c th hin vi nhng tiờu chớ khỏc trc.
im ny khụng nm ngoi nhng vn ng i mi trong quan nim ngh thut
v cuc sng v con ngi ca vn hc Vit Nam thi kỡ i mi. Mt iu hin
nhiờn l, khi tớnh chõn tht ca hỡnh tng khụng cũn ch ly vic quy chiu lch
s lm im ta thỡ ni dung phn ỏnh cng s xut hin nhng vn mi. Tớnh
lch s ca cỏc tiu thuyt núi chung v ca nhng tiu thuyt vit v chin tranh

12


Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Ngọc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

v ngi lớnh núi riờng l lch s ca cỏi hin ti, l nhng vn nhõn sinh
c soi chiu qua nhiu chiu tng quan gia quỏ kh v hin ti trong khỏt
vng ngh thut v cỏi hin tn v cỏi s din ra.
Bo Ninh tờn tht l Hong u Phng, sinh nm 1952 ti huyn Din
Chõu, tnh Ngh An, quờ xó Bo Ninh, huyn Qung Ninh, tnh Qung Bỡnh.

ễng vo b i nm 1969. Thi chin tranh, Bo Ninh chin u mt trn B3
Tõy Nguyờn, ti tiu on 5, trung on 24, s on 10. Nm 1975, ụng gii ng.
T 1976 - 1981 hc i hc H Ni, sau ú lm vic Vin Khoa hc Vit
Nam. T 1984 - 1986 hc khoỏ 2 Trng vit vn Nguyn Du. Lm vic ti bỏo
Vn ngh Tr. L hi viờn Hi Nh vn Vit Nam t 1997. Tờn tui ca Bo
Ninh ó c bit n qua cỏc tỏc phm: Bớ n ca ln nc Bi phn, Cỏi
bỳng, H Ni lỳc khụng gi, Khc du mn thuyn, Mc cn, Mõy trng cũn
bay,Truyn ngn,Ni Bun Chin Tranh, Ra tay gỏc kim, Thỏch u Thi
ca xe Mỏy, Ting v cm ca quõn xõm lng, Vụ cựng xa ctrong ú c
bit phi k n l tiu thuyt Ni bun chin tranh.
Khụng thc s to nờn nhng tranh lun d di v dai dng, nhng s
xut hin ca Bo Ninh vi Ni bun chin tranh (ln in u nm 1987 cú tờn l
Thõn phn ca tỡnh yờu), cng ó gõy nờn s ỏnh giỏ trỏi chiu v khụng ớt
gay gt ng thi. Chn mt hỡnh thc cu trỳc c ỏo tiu thuyt trong tiu
thuyt: quỏ trỡnh mt nh vn cp phng - vn l binh nhỡ trong chin tranh vit mt cun tiu thuyt v chin tranh bng s chi phi ca nhng ý tng v
nguyờn tc khỏ lp d ca mt ngi ang b ri bi, bn lon v t tng,
ký c luụn b dn vt, hi thỳc. Nh vn - ngi lớnh ý thc rt rừ cỏi giỏ ca bn
thõn v ng i ca mỡnh phi tr cho chin thng nờn vụ cựng ht hng trc
s vụ tõm ca con ngi hụm nay. Nhõn danh quỏ kh, ni bun v nhng

13


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

người đã khuất anh đối thoại với hiện tại với nhiều điều bê bối, nhức nhối. Đúng
như Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: Bảo Ninh đã viết về chiến tranh bằng những
“nghịch lý”, hoàn toàn trái với những “thuận lý” vốn rất quen thuộc của tư duy

văn học sử thi và nhờ thế đã đem lại cho người đọc một cái nhìn mới, đa chiều,
sâu sắc về chiến tranh - vốn là chất liệu hiện thực đã quá quen thuộc của văn học.
Những điều đó là hệ quả tất yếu của một tư duy văn học mới sâu sắc. Nhà văn
phải có nhân cách, phải có ý thức “chiến đấu loại trừ cái giả” mà trong văn
chương, theo quan niệm của Bảo Ninh “sự chừng mực luôn đồng nghĩa với nhạt
và giả”. Bởi vậy phải viết bằng tất cả sự nghiền ngẫm sâu xa của mình, bằng sự
thôi thúc “ viết để quên đi, viết để nhớ lại, viết để có một cứu cánh, một niềm
cứu rỗi, để mà chịu đựng để giữ lòng tin, để mà còn muốn sống”. Viết trong sự
ám ảnh của những hồi ức, của quá khứ nhức buốt, nhưng không thể lãng quên.
“Viết khổ viết sở, viết như đập đầu vào đá, như là tự tay tước vụn trái tim mình,
như là lộn trái con người mình ra”. Lao động của nhà văn chỉ thật sự có ý nghĩa
cao cả khi họ sống trung thực, sống đến tận cùng cảm xúc và trải nghiệm, viết
với sự khổ công như thế. Sự hời hợt, cầm chừng, giả tạo, không thể có văn
chương đích thực. Bảo Ninh đã đóng góp trước hết một quan niệm về nhân cách,
bản lĩnh của người cầm bút và bản chất của hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Viết
về chiến tranh là viết về con người, không thể để các sự kiện “đè bẹp” con
người. Hiện thực chiến tranh không phải là mục đích tái hiện mà chỉ là đường
viền làm nổi rõ số phận con người. Nhìn chiến tranh từ góc độ số phận con người
và thể hiện chiến tranh qua tâm trạng của con người, Bảo Ninh đã đi đến đáy
cùng của hiện thực chiến tranh. Chiến tranh không chỉ là bom đạn, chết chóc,
nghiệt ngã, tan nát mà đáng buồn hơn chiến tranh còn hủy diệt nhân tính, nhân
tình. Bởi thế, khi chiến tranh kết thúc “Chính nghĩa đã thắng, lòng nhân đã thắng

14


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


nhưng cái ác, sự chết chóc và bạo lực phi nhân cũng đã thắng”. Hòa bình đến,
những người sống sót trở về luôn cảm nhận mình như “bị mắc kẹt giữa cuộc
đời”, càng ngày càng thấm thía hơn nỗi buồn chiến tranh, “nỗi buồn được sống
sót”. Những lời cảnh tỉnh “hãy coi chừng mà xem lại nhân tính”, “những tổn
thất, những mất mát có thể bù đắp, các vết thương sẽ lành, đau khổ sẽ hóa thạch
nhưng nỗi buồn về cuộc chiến tranh thì càng ngày càng thấm thía hơn, sẽ không
bao giờ nguôi”… luôn là những thông điệp nghệ thuật đầy ám ảnh, đậm đặc trên
từng trang Nỗi buồn chiến tranh. Bảo Ninh đã mang đến cho văn học “nỗi
buồn” với những giá trị nhân văn sâu sắc - một trong những điều “cấm kỵ” của
văn chương trước đó - và mở ra một ngả rẽ cho văn học viết về chiến tranh. Quả
là sau Nỗi buồn chiến tranh, người ta sẽ không thể viết về chiến tranh như trước
được nữa... Cùng với những đổi mới trong cảm hứng nhân văn, Bảo Ninh cũng
có những đóng góp quan trọng vào tư duy thể loại tiểu thuyết. Quan niệm mới về
hiện thực, về con người là cơ sở để hình thành một thế giới nhân vật mới mẻ.
Đặc trưng trong thế giới nhân vật ấy là kiểu loại nhân vật bị chấn thương - những
con người đã bị chiến tranh làm cho méo mó, với những chấn thương không thể
chữa lành, luôn bị ám ảnh bởi cô đơn, không còn khả năng hòa nhập với cộng
đồng. Việc xây dựng thành công những nhân vật ghép mảnh - hiện thực hóa,
hình tượng hóa quan niệm của nhà văn về con người vốn phức tạp, đa nhân cách,
nhưng đã bị vỡ vụn, bị tha hóa nhân cách bởi chiến tranh, đang gắng gượng vật
lộn để hoàn nguyên - và việc sử dụng hiệu quả dòng hồi ức trong xây dựng cốt
truyện, cố ý phá bỏ tính nhất quán và hoàn chỉnh của cốt truyện truyền thống,
đan xen, đảo ngược quá khứ - hiện tại - tương lai, hòa trộn ảo - thực, cùng với
việc tạo dựng một thế giới ngôn ngữ đa thanh, giàu biểu cảm, giàu tính đối
thoại…là những nỗ lực rất lớn của Bảo Ninh vào việc hiện đại hóa tiểu thuyết

15


LuËn v¨n Th¹c sÜ

NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Việt Nam. Đó cũng là hiệu quả tất yếu từ những trăn trở đổi mới tư duy nghệ
thuật của Bảo Ninh, tìm tòi một “cách viết mới” - cách viết đa thanh có khả năng
kích thích tính dân chủ, đối thoại của văn học. Chính vì thế, phần đông ý kiến
đều khẳng định thành công của Nỗi buồn chiến tranh: “Một cuốn sách gây xúc
động buộc phải suy nghĩ, một cuốn sách hay”, “không phải sử thi truyền thống”,
“là một bằng chứng về sự trưởng thành của văn xuôi” Việt Nam. Đó thực sự là
đóng góp của Bảo Ninh vào việc khẳng định một kiểu tư duy văn học mới với
tinh thần nhân văn mới, với ngôn ngữ tiểu thuyết đa thanh mới. Hội Nhà văn đã
trao giải thưởng cho Nỗi buồn chiến tranh và đó cũng là “một thắng lợi của văn
chương”, một sự khẳng định, ủng hộ những tìm tòi, đổi mới đích thực của văn
học...
Cùng với Bảo Ninh, Chu Lai cũng là một nhà văn áo lính. Đại tá nhà văn
Chu Lai sinh năm 1946, quê Hưng Yên là tác giả của Phố, Nắng đồng bằng, Ăn
mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc, Cuộc đời dài lắm... những tác phẩm về người
lính tạo nên sức hút đối với người đọc bằng chính tài năng, tâm huyết và cá tính
của mình. Với Chu Lai, viết về người lính đã trở thành nỗi câu thúc tự nhiên.
Ngay ở những thời khắc mà tiếng động của dạ dày lấn át tiếng gọi của văn
chương, anh vẫn ghì vào bàn mà viết. Đó là quãng thời gian vật vã, ngày nào
cũng tự chiến đấu với mình. Những ngày tháng vật vã ấy đã giúp anh có được
những tác phẩm mang đầy chất hiên thực. Hiện thực trong những tiểu thuyết của
Chu Lai thường được đẩy đến tận cùng của sự trần trụi và tàn khốc, bên cạnh
những trang viết về những mối tình người lính lãng mạn như những bài thơ.
Không chỉ thế, Chu Lai cũng gặt hái được những thành công nhất định khi thể
hiện cái nhìn sắc sảo của mình về cuộc sống hôm nay. Anh cho rằng: “Cảm giác
cô đơn càng nhiều, sức suy tư càng mạnh. Khi chấp nhận một sự cô đơn hữu

16



Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Ngọc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

hiu, ngt ngo, nhng con ch vit ra s nh nhng git sỏng neo tõm hn
vo cuc i. Tui tr ca Chu Lai m trong khụng khớ ho hựng ca cuc
khỏng chin chng M. Chu Lai th sinh gy gũ, gia nhp quõn i, sau ú tr
thnh mt chin s c cụng. Nhng cnh tng ph n b ch git hi, hỡnh nh
khuụn mt, bp chõn nhng cụ gỏi giao liờn xinh p c xanh dn theo mu lỏ
rng hn sõu trong tõm thc anh. Chu Lai núi: Chin tranh khc lit ó lm tan
loóng mi th cm xỳc, xoỏ b ranh gii thi gian, khụng gian, cỏi cũn li duy
nht l bn nng t v. Tr v t chin trng, cm giỏc u tiờn l s ht hng,
vỡ nhng nm tui tr dng nh b ỏnh tt li sau lng... Anh ó tng tõm
s: Vn hc v ngi lớnh v chin tranh cỏch mng l mt dũng chy bn b,
thy chung, cú lỳc n i, cú lỳc tri lờn, cú lỳc gp thỏc ghnh thỡ tung bt nhng
ri nú vn tip tc lao v phớa trc nh mt cm hng vnh cu ca dõn tc.
Bi lch s Vit Nam l lch s trn mc, con ngi Vit Nam dự khụng mun
cng l con ngi trn mc nờn du vt chin tranh vn in hn trong tng ngừ
xúm, trong tng t duy, trong tng tõm hn, tõm th ca con ngi k c th h
hụm qua v th h hụm nay. Cú lỳc trc cn bóo th trng, cn bóo WTO hi
nhp, tng nh dũng vn hc ny bin mt, chỡm i, hay tr thnh ng ngn,
lc lừng nhng thc ra, nú c n õu ú trong lau lỏch, trong ghnh ỏ v khi
gp dp thỡ nú li thng hoa... Bn thõn tụi, dự cú ng sang bt c mt hng
ti no nhng ri cui cựng vn quay v ti ngi lớnh v chin tranh cỏch
mng nh l mt ti quen thuc, gn gi nht m ngi ta ch cú th vit tõm
huyt c nhng gỡ ngi ta s thy, ngi thy hỡnh hi, hn khớ ca nú... .
Phn ln tỏc phm ca Chu Lai l vit v chin tranh, ni anh sng thi trai tr
vi bao lý tng, c vng. Cuc sng vt v khụng búp nght tõm hn lóng

mn, cm xỳc ca anh. Vn chng trong anh l mt i sng say mờ, cú tht.

17


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Anh viết văn như một chuyện tự nhiên, viết về những đồng đội, những cô gái
giao liên, những ngày chiến đấu oanh liệt. Văn của anh trần trụi nhưng không
tuyệt vọng, nó bộc lộ cái tinh tế, chân thật, cái thật đến từ tâm của người viết và
sự giàu có cảm xúc, khởi nguồn từ những gian truân, hiểu đời. Với anh, chiến
tranh là một siêu đề tài, hình ảnh người lính là một siêu nhân vật, đề tài chiến
tranh như một mỏ quặng, càng đào sâu, càng màu mỡ. Cái màu mỡ đó chính là
văn học.
Còn nhà văn Lê Lựu sinh năm 1942, đã từng được học qua trường bồi
dưỡng viết văn (Hội Nhà văn) thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước, làm
phóng viên báo Quân khu III, có mặt với tư cách phóng viên mặt trận tại chiến
trường Trường Sơn (mặt trận 559), trưởng ban văn xuôi, thư ký tòa soạn Tạp chí
Văn nghệ Quân đội. Ông đã từng xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng như Ranh
giới (tiểu thuyết, 1977), Thời xa vắng (tiểu thuyết, 1986), Đại tá không biết đùa
(tiểu thuyết, 1990), Chuyện làng Cuội (tiểu thuyết, 1993), Sóng ở đáy sông (tiểu
thuyết, 1994)... Ông cũng đã từng được nhận giải nhì (không có giải nhất) cuộc
thi truyện ngắn báo Văn nghệ 1967 - 1968, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam
(1986) với tiểu thuyết Thời xa vắng. Chính Thời xa vắng đã làm nên tên tuổi
của Lê Lựu nhưng có lẽ ít người biết được rằng nhân vật chính trong tiểu thuyết
ấy, Giang Minh Sài lại là hình mẫu của cuộc đời tác giả.
Sinh ra ở một làng quê thuộc đồng bằng Bắc Bộ quanh năm ngụp lặn trong
nghèo đói (mà cái đói, cái nghèo thường làm cho con người ta trở nên mặc cảm,

tự ty), năm lên 10 tuổi, cậu bé ấy được gia đình lấy cho một cô vợ, cốt yếu là để
có thêm người làm. Đó là một cô gái khỏe mạnh ở làng bên, lớn hơn cậu hàng
chục tuổi. Đến bữa cơm, nếu cô vợ ngồi đầu nồi là cậu ngoảnh mặt đi, kiên quyết
không đưa bát cho vợ xới cơm. Cậu cũng kiên quyết không ngủ chung giường

18


Luận văn Thạc sĩ
Nguyễn Ngọc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

vi cụ ta mt ln no. Ri cu tỡnh nguyn xin i b i, vi suy ngh lm sao
khụng phi sng vi v na. Nhng cng c gióy gia thỡ li cng b trúi cht,
cng c vựng vy n vi ngi mỡnh yờu thỡ tỡnh yờu li cng tut khi tm
tay. n v ó thuyt phc cu phi yờu... chớnh ngi v mỡnh thỡ mi... kt
np ng. Nhng dự hai ngi c gỏ n my, cui cựng h cng phi i n
quyt nh chm dt nhng ngy thỏng di dng dc sng trong nhng rng
buc, nh kin. Hũa bỡnh, chng lớnh y v cụng tỏc ti thnh ph, ly mt cụ v
thnh ph. Nhng trong cuc sng mi, anh vn luụn cm thy b v, lc lừng
gia ph phng... ú khụng ch l hnh trỡnh ca nhõn vt Giang Minh Si
trong tiu thuyt Thi xa vng m cũn l hnh trỡnh ca nh vn Lờ Lu trờn
con ng t lng quờ ra thnh ph. Thi xa vng chớnh l nhng dũng t s
gan rut, nhng con ch c cht ra t mỏu tht, t nc mt v n ci hin
n ng ngn ca ụng.
Nh vn Lờ Lu khụng vo chin trng di nh Si, m ch vo tng t
mt, mi t vi nm. Chớnh cỏi thụn Trung Hũa (xó Tõn Hũa, Khoỏi Chõu,
Hng Yờn) quờ hng ca nh vn Lờ Lu - mt vựng quờ trong ký c ca ụng
quanh nm ngp ln trong nghốo úi, tm ti v ly li ngy ma ó bin thnh
lng H V trong Thi xa vng. Giang Minh Si khụng ch cú nguyờn mu t

chớnh nh vn Lờ Lu m nhng t cht, nhng c im tớnh cỏch, cỏi li suy
ngh v hnh ng ca Si cú trong rt nhiu ngi cựng th h vi ụng. xõy
dng nờn mt tiu thuyt y p nhng hon cnh in hỡnh, chi tit in hỡnh v
ngn ngang nhng ni nim, nh vn Lờ Lu phi quan sỏt, chiờm nghim, cht
lc trong nhiu nm: Cht liu cú trong tụi, ng i tụi, nhng ngi sng
xung quanh tụi v c mt th h trong xó hi thi ú. Nh tụi õy, n v yờu
cu phi... yờu v mỡnh, tụi cng chp hnh. Tụi cú ngi bn, ly mt cụ v

19


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

vừa già, vừa xấu nhưng cứ giấu giếm, bí mật tuyệt đối, không cho ai biết cả.
Nhưng mà, khi đã cầm bút viết, thì cứ như lên đồng ấy mà, không biết đâu là
tình tiết có thật, đâu là phần mà mình hư cấu...”. Nhà văn Lê Lựu tâm sự rằng,
Sài đại diện cho một thói quen, một quan niệm sống, một cái tập tục của quê
ông, ấy là bắt trẻ con lấy vợ. Bố mẹ chúng ta không bao giờ độc ác với con cái,
nhưng do quan niệm một thời, họ luôn mong muốn con cái sớm dựng vợ gả
chồng để khi mình nhắm mắt xuôi tay thì con cái cũng được như đũa có đôi.
Quan niệm ấy đụng vào tự do, khát vọng của con người, khiến con người ta bị
ràng buộc, bị mất tự do thì lại trở thành khắc nghiệt. Nhân vật Sài cũng vậy.
Nhưng lúc ấy, cả dân tộc tập trung cho nhiệm vụ chính trị lớn lao, nên người ta
tạm quên đi cá nhân mình và lối sống ấy được mọi người chấp nhận. Nhưng sau
30 năm chiến tranh, cuộc sống quay trở lại nhịp điệu bình thường với những đòi
hỏi, khát vọng riêng tư. Trong số những người mà sự chuyển biến không kịp với
yêu cầu thực tế này, Giang Minh Sài là một nhân vật tiêu biểu. Nhiều người kể
rằng, nhà văn Lê Lựu thuộc từng trang tiểu thuyết mà ông viết ra. Điều đó cũng

chứng tỏ rằng, ông có sự gắn bó mật thiết với những trang viết của mình, bởi
trong đó rất có nhiều trang ông đã “sống”, đã bộc bạch lòng mình với độc giả, đã
dũng cảm đối diện với lòng mình.

20


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

CHƢƠNG 1

NGƢỜI LÍNH VÀ BI KỊCH NGÀY TRỞ VỀ
Chiến trường im tiếng súng, trở về với cuộc sống đời thường, với cái hàng
ngày, người lính đã gặp không ít khó khăn, thách thức, hiểm hoạ và họ cũng đã
từng thất bại trên tất cả các phương diện của đời sống. Một sắc thái mới xuất
hiện trong tuyến hình tượng người lính suốt 30 năm văn học kháng chiến vốn
luôn là anh hùng, là chói lọi màu sắc cao cả: sắc thái bi kịch. Đó trước hết là
màu sắc có thật ở tuyến nhân vật người lính thời hậu chiến mà nếu trung thành
với đời sống khách quan, văn học không thể không nhận thấy và mô tả. Đó cũng
là kết quả của một sự từ chối cách nhìn, cách hiểu và phản ánh cuộc sống đơn
giản, một chiều đến lúc này đã trở thành căn nguyên của một thái độ xơ cứng và
bất lực trong cảm nhận và lý giải thực tế phức tạp của cuộc sống thời hậu chiến.
Song hành cùng sự vận động tất yếu của lịch sử là sự thay đổi trong tư
duy, nhận thức của mỗi cá nhân và cộng đồng, của các nhà văn, nhất là những
người cầm bút vừa mới bước ra từ cuộc hành quân gian lao mà vĩ đại cùng dân
tộc. Trong kháng chiến, khi cầm bút viết về hiện thực đang diễn ra tại mặt trận,
nhà văn đồng thời là người tham dự, người trong cuộc, người chiến sĩ. Bản thân
họ tự nguyện là người cổ vũ và tuyên truyền cho cuộc chiến đấu đó. Sau khi

chiến tranh kết thúc, quá khứ đau thương lùi dần về phía sau thì chính đội ngũ
nhà văn đã từng mặc áo lính lại trở thành những người có khát vọng đào sâu trực
tiếp vào thực tế của cuộc chiến đấu để mô tả mọi mặt của nó với chiều sâu phức
tạp mà trong chiến tranh họ chưa kịp nhận ra. Đọc các tác phẩm của Chu Lai, Lê
Lựu, Bảo Ninh và các nhà văn cùng thời viết về người lính sau chiến tranh,
chúng ta cảm nhận ngay được những biến đổi về cuộc đời, số phận và cả tâm

21


LuËn v¨n Th¹c sÜ
NguyÔn Ngäc H-ng
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

hồn của những người anh hùng trận mạc khi về với cuộc sống thường ngày. Với
ba tác phẩm được đưa ra nghiên cứu trong luận văn ta thấy chúng đều được sáng
tác trong nỗi thất vọng, chua xót của những người vừa bước ra khỏi chiến tranh
phải đối măt với sự nghiệt ngã của cuộc sống thực tại. Chúng ta có thể nhận ra
cảm xúc này ngay chính từ tiêu đề của các tác phẩm: Ăn mày dĩ vãng, Thời xa
vắng, Nỗi buồn chiến tranh, Vòng tròn bội bạc…
1. Quá trình hoà nhập không dễ dàng với cuộc sống sau chiến tranh
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử dân
tộc. Chấm dứt hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, dân tộc ta đã giành được
thành quả to lớn: giải phóng hoàn toàn miền Nam, bảo vệ vững chắc chế độ xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, thống nhất đất nước. Đất nước hoà bình, cả nước tập
trung khắc phục những hậu quả nặng nề do cuộc chiến tranh để lại và tiếp tục
phải đương đầu với những thử thách mới. Tất cả những vấn đề đó đều được ánh
xạ rất rõ nét trong các tác phẩm văn học. Chính bản thân cuộc sống mới sau ngày
hòa bình với bộn bề những vấn đề bức xúc đã có một sự chi phối, hấp dẫn đối
với văn học. Bên cạnh mảng nội dung theo cảm hứng của văn học kháng chiến,

trong các tác phẩm văn học được sáng tác ở gai đoạn sau năm 1975 đã có những
nét mới trên phương diện nội dung phản ánh. Các tác phẩm: Miền cháy - 1977
(Nguyễn Minh Châu), Kí sự miền đất lửa - 1978 (Nguyễn Sinh và Vũ Kì Lân ),
Năm 1975 họ đã sống như thế - 1978 (Nguyễn Trí Huân), Đất trắng - 1979
(Nguyễn Trọng Oánh), Họ cùng thời với những ai - 1981 (Thái Bá Lợi), Những
người đi từ trong rừng ra - 1982 (Nguyễn Minh Châu)... phản ánh những mất
mát trong sự khốc liệt của chiến tranh, đồng thời bước đầu đề cập đến những vấn
đề tiêu cực nảy sinh trong nội bộ cách mạng. Qua các tác phẩm này, bức tranh xã
hội hậu chiến đã từng bước được khắc hoạ ở những phương diện của văn học

22


×