Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.77 KB, 26 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ TOÀN CẦU
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỀM VÀ CÁC CÔNG CỤ PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ
TRỊ TOÀN CẦU
1. Khái niệm
 Giá trị
Theo quan niệm của C.Mác trong bộ Tư bản, quá trình sản xuất hàng hóa tư bản
chủ nghĩa, về thực chất là quá trình sáng tạo ra giá trị và thực hiện giá trị. Quá trình sản
xuất hàng hóa có thể hiểu được theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, sản xuất
hàng hóa là quá trình kết hợp các yếu tố sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất (công cụ lao
động và đối tượng lao động) và sức lao động để tạo ra sản phẩm. Theo nghĩa rộng, sản
xuất hàng hóa là quá trình tái sản xuất mở rộng bao gồm bốn khâu: sản xuất – phân
phối – trao đổi – tiêu dùng; trong đó, vị trí, vai trò của các khâu trong quá trình tái sản
xuất đó không như nhau. Sản xuất là khâu quyết định còn các khâu sau chịu sự chi phối
của sản xuất mặc dù chúng có tác động ngược lại như tiêu dùng hợp lý sẽ tạo điều kiện
đế sản xuất có hiệu quả cao hơn. Khâu phân phối và trao đổi là những khâu trung gian
kết nối sản xuất với tiêu dùng. Cách tiếp cận nghiên cứu của C.Mác là dựa trên phương
pháp trừu tượng hóa và có tính khái quát cao, chủ yếu đề cập đến quá trình sáng tạo giá
trị từ trong lưu thông. Có thể nói sản xuất là điều kiện cần còn thực hiện hàng hóa là
điều kiện đủ. C.Mác cũng đã mô phỏng mô hình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất
mở rộng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cấu tạo kỹ thuật (tỷ lệ vốn/
lao động hay c/v) không thay đổi. Thực chất, mô hình này là việc xây dựng một quy
trình tạo ra được giá trị sử dụng hay công dụng. Giá trị được tạo ra trong sản xuất chỉ là
giá trị cá biệt và khi hàng hóa được tiêu dùng thì mới hình thành giá trị xã hội tức là giá
trị đích thực của hàng hóa.
Cũng theo quan niệm của C.Mác, quá trình sản xuất hàng hóa là quá trình tạo ra
giá trị theo cơ cấu: C + V + M; trong đó, C là tư bản bất biến, V là tư bản khả biến, M
là giá trị thặng dư. Mức độ phân bố giá trị vào các thành phần của chuỗi giá trị này có
sự khác nhau tùy theo đặc điểm của ngành.
Trong mô hình với giả định nền kinh tế không có ngoại thương, C.Mác đã trừu
tượng hóa nền kinh tế tư bản trong giai đoạn toàn cầu hóa hoàn toàn, không còn sự chia
cắt và tách biệt giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Vì vậy, quá trình tái


sản xuất được mở rộng trên phạm vi toàn cầu và giá trị được sản xuất và thực hiện cũng
trên phạm vi toàn cầu. Quá trình tái sản xuất được mở rộng trên phạm vi toàn cầu làm
hình thành nên mạng sản xuất toàn cầu mà trên thực tế, đây là hiện tượng xảy ra khi có
sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia kéo theo sự hình thành mạng lưới sản xuất
quốc tế là một trong những điều kiện quyết định sự ra đời của nền kinh tế thế giới hay
nói cách khác nền kinh tế thế giới, về thực chất, là tập hợp của các chuỗi giá trị toàn cầu
của các ngành sản xuất hoặc tổ hợp của các chuỗi sản phẩm và dịch vụ.
 Chuỗi giá trị
Có ba luồng nghiên cứu chính về chuỗi giá trị, đó là:
i) Filièle (Chuỗi):
Phương pháp Filièle (filièle có nghĩa là chuỗi, mạch) gồm các trường phái tư duy
và truyền thống nghiên cứu khác nhau. Khởi đầu, phương pháp này được dùng để phân
tích hệ thống nông nghiệp của các nước đang phát triển trong hệ thống thuộc địa của
Pháp. Phân tích chủ yếu là công cụ để nghiên cứu cách thức mà các hoạt động sản xuất
nông nghiệp (đặc biệt là cao su, bông, cà phê và dừa) được tổ chức tại các nước đang
phát triển. Trong bối cảnh này, khung Filièle chú trọng đặc biệt đến các hệ thống sản
xuất địa phương được kết nối với công nghiệp chế biến, thương mại, xuất khẩu và khâu
tiêu dùng cuối cùng.
Khái niệm chuỗi (filièle) bao hàm nhận thức kinh nghiệm thực tế được sử dụng để
lập sơ đồ dòng chuyển động của hàng hóa và xác định những người tham gia vào các
hoạt động. Tuy nhiên, phương pháp này chủ yếu tập trung vào vấn đề của các mối quan
hệ vật chất và kỹ thuật định lượng, được tóm tắt trong sơ đồ dòng chảy của các hàng
hóa và sơ đồ mối quan hệ chuyển đổi. Phân tích Filièle có hai đặc điểm nổi bật sau:
- Việc đánh giá chuỗi giá trị về mặt kinh tế và tài chính chú trọng vào vấn đề tạo và phân
phối thu nhập trong chuỗi hàng hóa, phân tích các chi phí cũng như thu nhập giữa các
thành phần kinh doanh nội địa và quốc tế để nghiên cứu ảnh hưởng của chuỗi đến nền
kinh tế quốc dân và sự đóng góp của nó vào GDP.
- Phân tích chuỗi lấy sự phát triển của nông nghiệp làm trọng tâm nghiên cứu; quan tâm
tới các vấn đề như sự tương tác lẫn nhau giữa các đối tượng tham gia, những cản trở và
kết quả thu được cho mỗi bên liên quan trong chuỗi, các chiến lược cá nhân và tập thể

cũng như các hình thái quy định. Chẳng hạn ở châu Phi có bốn loại quy định liên quan
đến chuỗi hàng hóa được phân tích gồm: quy định trong nước, quy định về thị trường,
quy định của nhà nước và quy định kinh doanh nông nghiệp quốc tế. Năm 1989, hai nhà
nghiên cứu là Moustier và Leplaideur (Pháp) đã đưa ra một khung phân tích về tổ chức
chuỗi giá trị hàng hóa, bao gôm lập sơ đồ, các chiến lược cá nhân và tập thể, và hiệu
suất về mặt giá cả và tạo thu nhập, có tính đến vấn đề chuyên môn hóa của nông dân và
thương nhân ngành thực phẩm so với chiến lược đa dạng hóa.
ii) Khung phân tích của Michael Porter
Luồng nghiên cứu thứ hai liên quan đến công trình của Michael Porter (Havard
Busniess School) trong cuốn sách “Competitive Advantage: Creating and Sustaining
Superior Performance” (1985) về các lợi thế cạnh tranh. M.Porter đã dùng khung phân
tích chuỗi giá trị để đánh giá xem một công ty nên tự định vị mình như thế nào trên thị
trường và trong mối quan hệ với nhà cung cấp, khách hàng và đối thủ cạnh tranh khác.
Theo M.Porter, chuỗi giá trị là chuỗi các hoạt động; trong đó sản phẩm đi qua tất
cả các hoạt động của chuỗi một cách tuần tự và tại mỗi hoạt động, sản phẩm sẽ tích lũy
thêm một giá trị nào đó. Chuỗi các hoạt động cung cấp cho các sản phẩm nhiều giá trị
gia tăng hơn tổng giá trị gia tăng của tất cả các hoạt động cộng lại.
Trong khung phân tích của Porter, khái niệm chuỗi giá trị không trùng với chuyển
đổi vật chất. Porter giới thiệu ý tưởng theo đó tính cạnh tranh của một công ty không
chỉ liên quan đến quy trình sản xuất. Mô hình chuỗi giá trị này là một tập hợp của nhiều
công đoạn hay nhiều khâu khác nhau và có quan hệ với nhau cùng tạo ra giá trị như
thiết kế sản phẩm, logistics đầu vào, logistics đầu ra, sản xuất, marketing & bán hàng,
các dịch vụ hậu mãi cùng với các hoạt động bổ trợ gia tăng giá trị cho sản phẩm như lập
kế hoạch chiến lược, quản lý nguồn nhân lực, hoạt động nghiên cứu,… Với góc độ
nghiên cứu này, chuỗi giá trị chỉ áp dụng trong kinh doanh của doanh nghiệp; do vậy
phân tích chuỗi giá trị chủ yếu nhằm hỗ trợ các quyết định quản lý và chiến lược điều
hành của một doanh nghiệp, một công ty cụ thể.
HÌNH 1: KHUNG PHÂN TÍCH CHUỖI GIÁ TRỊ CỦA M.PORTER
Logistics đầu vào Sản xuất Logistics đầu ra Marketing & bán hàng Dịch vụ
Cơ sở hạ tầng

Quản trị nguồn nhân lực
Phát triển công nghệ
Mua sẳm
Các hoạt động chính
Các hoạt động bổ trợ
GIÁ TRỊ
Nguồn: Michael Porter, 1985
Một cách khác để tìm ra lợi thế cạnh tranh là dựa vào khái niệm hệ thống giá trị;
thay vì chỉ phân tích lợi thế cạnh tranh của một công ty duy nhất, có thể xem các hoạt
động của công ty như một phần của chuỗi các hoạt động rộng hơn mà Porter gọi là hệ
thống giá trị. Một hệ thống giá trị bao gồm các hoạt động do tất cả các công ty tham gia
trong việc sản xuất một hàng hóa hoặc dịch vụ thực hiện, bắt đầu từ nguyên liệu thô đến
phân phối tới người tiêu dùng cuối cùng. Vì vậy, khái niệm hệ thống giá trị rộng hơn so
với khái niệm chuỗi giá trị của doanh nghiệp.
iii) Phương pháp tiếp cận toàn cầu
Khái niệm các chuỗi giá trị được Gary Gereffi (Duke University) lần đầu tiên áp
dụng để phân tích toàn cầu hoá, tìm hiểu cách thức mà các công ty và các quốc gia hội
nhập toàn cầu và để đánh giá các yếu tố quyết định đến phân phối thu nhập toàn cầu.
Sau đó, Raphael Kaplinsky [21;4] đưa ra những khái niệm về chuỗi giá trị như sau:
Theo nghĩa hẹp (giản đơn): Chuỗi giá trị gồm một loạt các hoạt động cần có để
sản xuất ra một sản phẩm hoặc dịch vụ từ giai đoạn xây dựng khái niệm, qua các giai
đoạn khác nhau của sản xuất tới phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng, dịch vụ hậu
mãi và việc vứt bỏ sản phẩm sau khi sử dụng.
HÌNH 2: MÔ HÌNH CHUỖI GIÁ TRỊ ĐƠN GIẢN
THIẾT KẾ
SẢN XUẤT Logistics đầu vào Sản xuất Logistics đầu ra Đóng gói
MARKETING
TIÊU THỤ
Nguồn: Raphael Kaplinsky and Mike Morris, 2001
Theo nghĩa rộng: Chuỗi giá trị là một phức hợp những hoạt động do nhiều người

tham gia khác nhau thực hiện (người sản xuất sơ cấp, người chế biến, thương nhân,
người cung cấp dịch vụ…) để biến một nguyên liệu thô thành thành phẩm được bán tới
tay người tiêu dùng. Chuỗi giá trị rộng bắt đầu từ hệ thống sản xuất nguyên liệu thô và
chuyển dịch theo các mối liên kết với các doanh nghiệp khác trong các hoạt động như
kinh doanh, chế biến, lắp ráp…
Như vậy, mỗi sản phẩm được tạo ra đều có giá trị bao gồm một xâu chuỗi các
mắt xích nhiều giá trị kết nối tạo nên. Trong thời đại toàn cầu hóa, các mắt xích tạo nên
giá trị cuối cùng của một sản phẩm đã vượt ra ngoài biên giới một quốc gia, lãnh thổ
khi các chi tiết của nó được thiết kế ở một nước, sản xuất ở một nước khác, lắp ráp ở
nước thứ ba, và tiêu thụ ở nước thứ tư… hoặc một sản phẩm thuần túy ra đời tại một
địa phương cụ thể nhưng vẫn mang giá trị toàn cầu. Vì vậy, khái niệm chuỗi giá trị toàn
cầu đã xuất hiện và ngày càng trở nên phổ biến trên khắp thế giới.
 Chuỗi giá trị toàn cầu
Mọi sản phẩm mới - từ phần mềm cho tới đồ dùng - đều phải trải qua một chu kỳ,
bắt đầu bằng nghiên cứu cơ bản rồi nghiên cứu ứng dụng, thời kỳ ấp ủ, phát triển, thử
nghiệm, sản xuất, triển khai, hỗ trợ và mở rộng kỹ thuật để cải tiến. Mỗi khâu trên đều
được chuyên môn hóa và có tính đơn nhất. Các quốc gia đang phát triển như Ấn Độ,
Trung Quốc và Nga đều không đủ nhân lực và năng lực để đảm nhiệm toàn bộ chu kỳ
sản phẩm cho một công ty đa quốc gia lớn ở Mỹ hay các nước phương Tây phát triển.
Song các nước đang phát triển trên đang dần nâng cao năng lực nghiên cứu và phát
triển của họ để có thể đảm nhiệm nhiều khâu hơn. Quá trình này tiếp tục diễn ra sẽ đánh
dấu sự kết thúc của mô hình cũ – khi một công ty đa quốc gia tự tiến hành tất cả các
khâu của chu kỳ phát triển sản phẩm bằng nguồn lực riêng của mình. Từ đó tạo ra các
chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs-Global Value Chains) là các chuỗi giá trị cho phép các
công đoạn của chuỗi đặt tại những địa điểm (quốc gia) có khả năng mang lại hiệu quả
cao nhất với chi phí thấp nhất.
2. Đặc điểm
a) Quản trị chuỗi
Định nghĩa (Humphrey & Schmitz, 2002): Quản trị chuỗi là mối quan hệ giữa các
bên tham gia và các cơ chế, thể chế mà thông qua đó các hoạt động điều phối phi thị

trường được thực hiện. Quản trị chuỗi giúp trả lời bốn câu hỏi quan trọng: Sản xuất cái
gì? Sản xuất như thế nào? Khi nào thì sản xuất? Số lượng là bao nhiêu?
In a paper that emerged from the deliberations of the GVC Initiative (Gary
Gereffi, John Humphrey, and Timothy Sturgeon, “The governance of global value
chains,” , vol. 12, no. 1, 2005), five different GVC governance patterns were
identified:Gary Gereffi, John Humphrey, và Timothy Sturgeon, trong nghiên cứu “Quản
trị chuỗi giá trị toàn cầu” [18;85] đưa ra năm mô hình quản trị GVC khác nhau như sau:
Markets are the simplest form of GVC governance. - Thị trường: là hình thức đơn
giản nhất của quản trị GVC.The central governance mechanism is price. Cơ chế quản trị
trung tâm là giá cả. The linkages between value chain activities are not very "thick"
because the information that needs to be exchanged and knowledge that needs to be
shared is relatively straightforward.Liên kết giữa các hoạt động chuỗi giá trị không chặt
chẽ vì thông tin được trao đổi và kiến thức chia sẻ bên trong tương đối đơn giản. Do đó,
chi phí để chuyển sang đối tác khác là thấp đối với các tác nhân trong chuỗi.
- This is the most market-like of three network-style GVC governance patterns.
Chuỗi giá trị mẫu: Typically, suppliers in modular value chains make products or
provide services to a customer's specifications.các nhà cung cấp trong kiểu quản trị này
cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ theo chỉ dẫn chi tiết của khách hàng. Tuy vậy, khi
cung cấp dịch vụ “chìa khóa trao tay”, nhà cung cấp có xu hướng chịu trách nhiệm hoàn
toàn về quy trình công nghệ và thường sử dụng các loại máy móc phổ biến để thu hồi
đầu tư từ một lượng khách hàng lớn.This keeps switching costs low and limits
transaction-specific investments, even though buyer-supplier interactions can be very
complex. Điều này giữ chi phí chuyển đổi thấp và giới hạn việc đầu tư vào các giao
dịch cụ thể, ngay cả khi quan hệ giữa người mua và nhà cung cấp là phức tạp.Linkages
are necessarily thicker than in simple markets because of the high volume of
information flowing across the inter-firm link, but at the same time codification
schemes and the internalization of coherent realms of knowledge in value chain
"modules," such as design or production, can keep interactions between value chain
partners from becoming highly dense and idiosyncratic. Các liên kết trong kiểu quản trị
này chặt chẽ hơn kiểu quản trị thị trường giản đơn vì khối lượng thông tin luân chuyển

trong liên kết giữa các công ty lớn hơn.
In this network-style GVC governance pattern we see mutual dependence
regulated through reputation, social and spatial proximity, family and ethnic ties, and
the like. - Chuỗi giá trị quan hệ: trong những mạng lưới có kiểu quản trị này, tương tác
giữa người bán và người mua là tương đối phức tạp, tạo ra những mối quan hệ phụ
thuộc chặt chẽ hơn và những đặc trưng ở cấp độ cao hơn so với hai kiểu quản trị thị
trường và quản trị mẫu. Những liên kết đó bị chi phối bởi danh tiếng, hoặc yếu tố gia
đình và các ràng buộc xã hội. Một số nhà nghiên cứu cho rằng khoảng cách gần gũi
giữa các tác nhân giúp tạo các liên kết trong kiểu quản trị này; tuy nhiên sự tin tưởng và
danh tiếng mới thực sự đóng vai trò chính trong việc kết nối các tác nhân, ngay cả đối
với những mạng lưới phi tập trung. Do cần nhiều thời gian tạo dựng lòng tin và sự phụ
thuộc lẫn nhau nên chi phí chuyển đổi sang các đối tác mới thường cao.
Since trust and mutual dependence in relational GVCs take a long time to build
up, and since the effects of spatial and social proximity are, by definition, limited to a
relatively small set of co-located firms, the costs of switching to new partners tends to
be high. Dense interactions and knowledge sharing are supported by the deep
understanding value chain partners have of one another, but unlike the codification
schemes that enable modular networks, these "short-cuts" tend to be idiosyncratic and
thus difficult and time-consuming to re-establish with new value chain partners.- Chuỗi
giá trị phụ thuộc: trong kiểu quản trị chuỗi này, nhà cung cấp nhỏ phụ thuộc nhiều vào
những người mua lớn và người mua chi phối.Depending on a dominant lead firm raises
switching costs for suppliers, which are "captive." Việc phụ thuộc vào công ty đầu
ngành làm tăng chi phí chuyển đổi đối với các nhà cung cấp. Trong Such networks are
frequently characterized by a high degree of monitoring and control by the lead firm.
The asymmetric power relationships in captive networks force suppliers to link to their
customer in ways that are specified by, and often specific to a particular customer,
leading to thick, idiosyncratic linkages and high switching costs all round. mạng lưới có
kiểu quản trị này, các công ty dẫn đầu thường đóng vai trò kiểm soát và giám sát chặt
chẽ các hoạt động toàn chuỗi. Quan hệ quyền lực bất cân xứng buộc các nhà cung cấp
liên kết với khách hàng chặt chẽ hơn và do đó chi phí chuyển đổi cũng cao hơn.

This governance pattern is characterized by vertical integration (ie"transactions"
take place inside a single firm). - Cấp bậc: mô hình quản trị này là đặc trưng của hội
nhập theo chiều dọc (khi đó các giao dịch diễn ra bên trong một công ty duy nhất).The
dominant form of governance is managerial control. Hình thức quản trị chi phối là kiểm
soát việc quản lý, theo thứ tự từ người quản lý cấp cao tới nhân viên hoặc từ trụ sở tới
các công ty con và chi nhánh.
Bảng 1 nêu ra các nhân tố quyết định tới quản trị chuỗi, dựa trên các tiêu chí về
mức độ phức tạp của các giao dịch, khả năng hệ thống hóa giao dịch, năng lực cung
ứng cũng như mức độ bất cân xứng quyền lực trong các các quản trị chuỗi khác nhau.
BẢNG 1: CÁC NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH TỚI QUẢN TRỊ CHUỖI
Dạng quản trị Mức độ phức tạp
của giao dịch
Khả năng hệ thống
hóa giao dịch
Năng lực
cung ứng
Mức độ bất cân
xứng quyền lực
Thị trường Thấp Cao Cao Thấp
Mẫu Cao Cao Cao
Quan hệ Cao Thấp Cao
Phụ thuộc Cao Cao Thấp
Cấp bậc Cao Thấp Thấp Cao
Nguồn: Gary Gereffi, John Humphrey, Timothy Sturgeon, 2005
b) Nâng cấp chuỗi giá trị
Nâng cấp trong chuỗi giá trị là quá trình các chủ thể kinh tế, quốc gia, doanh
nghiệp, người lao động chuyển từ hoạt động tạo ra giá trị thấp sang những hoạt động có
giá trị cao hơn trong mạng lưới sản xuất toàn cầu. Khả năng nâng cấp đề cập tới sự
chuyển dịch mà một hay một nhóm các hãng thực hiện để nâng cao vị trí của mình
trong chuỗi.

Trong nâng cấp chuỗi giá trị, vấn đề then chốt là khả năng sáng tạo để có được sự
đổi mới không ngừng trong sản phẩm cũng như cả quy trình; sự đổi mới đó phải đảm
bảo không chậm hơn các đối thủ cạnh tranh nhằm duy trì thị phần và giá trị gia tăng thu
về. Việc đầu tiên là tập trung vào giá trị cốt lõi (“core competence”), các doanh nghiệp
cần phải kiểm tra năng lực của mình để quyết định xem sẽ tạo ra giá trị gì cho người
tiêu dùng cuối cùng, và sẽ thu lại những giá trị gì?
Có bốn loại nâng cấp chuỗi giá trị chính [21;38], đó là:
- Nâng cấp quy trình: nâng cao hiệu quả của các quy trình nội bộ để có các hoạt
động tốt hơn đối thủ cạnh tranh, thắt chặt các liên kết bên trong một mắt xích (như tăng
số vòng quay hàng tồn kho, giảm phế liệu) và các liên kết giữa các mắt xích trong chuỗi
(giao hàng thường xuyên hơn, khối lượng nhỏ hơn và đúng thời hạn hơn)
- Nâng cấp sản phẩm: giới thiệu sản phẩm mới hoặc cải tiến sản phẩm cũ nhanh
hơn các đối thủ. Việc này bao hàm cả thay đổi quy trình phát triển sản phẩm mới giữa
các liên kết bên trong doanh nghiệp và trong mối quan hệ giữa nhiều doanh nghiệp
đóng vai trò là các mắt xích khác nhau của chuỗi.
- Nâng cấp chức năng: làm tăng giá trị gia tăng thông qua thay đổi các hoạt động
được quản lý trong doanh nghiệp hoặc chuyển các hoạt động sang các liên kết khác
trong chuỗi giá trị.
- Nâng cấp toàn chuỗi: chuyển sang một chuỗi giá trị mới dựa trên những kỹ
năng, kinh nghiệm học hỏi từ trước do tham gia một chuỗi giá trị có liên quan. Chẳng
hạn, các doanh nghiệp Đài Loan chuyển từ sản xuất đài bán dẫn sang máy tính, tivi,
màn hình máy vi tính rồi sau đó là máy tính xách tay và giờ đây là điện thoại WAP.
Việc nâng cấp chuỗi giá trị thường được thực hiện theo trình tự từ nâng cấp quy
trình tới nâng cấp sản phẩm, nâng cấp chức năng và nâng cấp chuỗi (Bảng 2).
BẢNG 2: CÁC QUY TRÌNH NÂNG CẤP CHUỖI GIÁ TRỊ
Nâng cấp
quy trình
Nâng cấp
sản phẩm
Nâng cấp

chức năng
Nâng cấp
chuỗi
Trình tự
Ví dụ
Lắp ráp
thiết bị chính
(OEA)
Sản xuất
có thiết kể riêng
(ODM)
Sản xuất
có thương hiệu
(OBM)
Chuyển sang
chuối giá trị mới
Mức độ độc lập
với người mua
nước ngoài
Giá trị gia tăng thu về tăng dần
Nguồn: Raphael Kaplinsky and Mike Morris, 2001
Kinh nghiệm từ thành công của các nước Đông Á đã cho thấy một quy trình nâng
cấp chuỗi giá trị từ sản xuất OEA (lắp ráp thiết bị chính) tạo ra ít giá trị sang sản xuất
thiết bị chính đến cung cấp các sản phẩm mang nhãn mác của người mua, rồi ODM
(sản xuất có thiết kế) và giờ đây là OBM (sản xuất có thương hiệu cho riêng mình). Đó
cũng là quy trình mà người sản xuất dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào người mua toàn
cầu trong việc thiết kế, tạo dựng thương hiệu cho chính mình và nhờ đó thu lại nhiều
giá trị gia tăng từ sản phẩm.
3. Phân loại
Trong cuốn sách “A Commodity Chains Framework for Analyzing Global

Industries” [19], Gary Gereffi dựa vào nhân tố chi phối chuỗi đã chỉ ra có hai loại chuỗi
giá trị khác nhau cơ bản, đó là chuỗi giá trị do người bán chi phối và chuỗi giá trị do
người mua chi phối.
Chuỗi giá trị do người bán chi phối (“Producer-driven commodity chain”) là
chuỗi trong đó các công ty, chủ yếu là các công ty đa quốc gia đóng vai trò trung tâm
trong việc kết hợp hệ thống sản xuất (bao gồm cả liên kết xuôi chiều và ngược chiều).
Đây là đặc điểm của ngành sản xuất chiếm dụng nhiều tư bản và đòi hỏi hàm lượng
công nghệ cao như điện thoại, máy bay, sản phẩm bán dẫn và máy móc công nghiệp.
Chuỗi giá trị do người mua chi phối (“Buyer-driven comodity chain”) là chuỗi
trong đó những nhà bán lẻ lớn và các nhà sản xuất uy tín đóng vai trò then chốt trong
việc thiết lập hệ thống sản xuất phi tập trung tại các nước đang phát triển, mà đặc biệt là
tại các nước thuộc thế giới thứ ba. Loại chuỗi này phổ biến ở các ngành sử dụng nhiều
lao động, hàng tiêu dùng như hàng dệt may, giày dép, đồ chơi, đồ gia dụng, đồ điện tử
và các loại đồ thủ công.
Bảng 3 dưới đây là những so sánh giữa hai loại chuỗi: do người bán và người mua
chi phối.
BẢNG 3: SO SÁNH CHUỖI GIÁ TRỊ DO NGƯỜI BÁN VÀ NGƯỜI MUA
CHI PHỐI

×