Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Chăn nuôi gà theo hướng an toàn bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.95 KB, 14 trang )


1

Ministry of Agriculture & Rural Development


Báo cáo tiến độ của dự án

004/05VIE
Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ
tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam



MS5: Báo cáo 6 tháng lần 2






1/2006-6/2007




2
1. Thông tin về các đối tác:
Tên dự án
Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nong hộ tại một
số tỉnh miền Trung Việt Nam



Các đối tác tham gia phía Việt
Nam
Viện chăn nuôi Quốc gia (NIAH); Trường Đại học Nông Lâm Huế
(HUAF); Viện Thú Y Quốc Gia (NIVR)
Trưởng đại diện dự án phía VN
TS. Nguyễn Quế Côi
Các đối tác tham gia phía
Australia
The University of Queensland/Victorian Department of Primary
Industry/South Australian Research and Development
Institute/University of Sydney
Tên các cán bộ tham gia dự án
phía Australia
Dr Darren Trott, Dr Ian Wilkie, Dr Colin Cargill, Dr Tony Fahy, Dr
Trish Holyoake
Ngày bắt đầu
1 tháng 4 năm 2006
Ngày kết thúc (theo dự định
ban đầu)
tháng 4 năm 2009
Ngày kết thúc (sau khi đã sửa)
tháng 4 năm 2009
Giai đoạn báo cáo
tháng 11 năm 2006 – tháng 06 năm 2006

Các địa chỉ liên lạc:
Phía Australia: Trưởng dự án
Tên
Dr Darren Trott

Telephone:
617 336 52985
Chức vụ
Giảng viên chính, trường Thú Y, Đại học
Tổng hợp Queensland
Fax:
617 336 51355
Cơ quan
Trường Thú Y, Đại học Tổng hợp
Queensland
Email:

Phía Australia: Quản lý hành chính
Tên
Melissa Anderson
Telephone:
61 7 33652651
Chức vụ
Trưởng văn phòng các dự án nghiên cứu
Fax:
61 7 33651188
Cơ quan
Trường Tài nguyên đất và thức ăn, Đại học
Tổng hợp Queensland
Email:


Phía Việt Nam
Tên
TS. Đỗ Ngọc Thuý

Telephone:
84 4 8693923
Chức vụ
Nghiên cứu viên
Fax:
84 4 8694082
Cơ quan
NIVR
Email:


3
2. Tóm tắt dự án
Các hộ chăn nuôi nhỏ ở miền Trung Việt nam chủ yếu nuôi cac giống lợn như lợn Móng
Cái, lợn Mini, lợn Soc cao nguyên - những giống lợn đã có khả năng thích nghi rất tốt với các
điều kiện tại miền Trung, nhưng có năng suất và hiệu quả kinh tế kém. Việc nâng cao chất
lượng của các giống lợn địa phương bằng cách đưa cac dòng Móng Cái có năng suất cao cho
các chương trình giống thuầ
n và giống lai sẽ dẫn đến kết quả là mang lại lợi nhuận đáng kể
cho các hộ chăn nuôi nhỏ nếu được tiến hành đồng thời với chương trình chăn nuôi khép kín
từ khi đẻ đến khi vỗ béo (tập trung chủ yếu vào các chương trình thú y, chăn nuôi, chuồng trại
và dinh dưỡng) để nâng cao năng suất chăn nuôi và giảm bớt các rủi ro về bệnh tật. Chương
trình cải tiến liên tục này (CIP) s
ẽ được bắt đầu bằng việc trang bị các kiến thức cần thiết cho
các nhà thú y và chăn nuôi, dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia Australia. Thông qua
phương thức “Tập huấn cho các giáo viên”, chương trình CIP sẽ được mở rộng đến những
người làm thú y cơ sở, những người quản lý trại và một số nông dân được chọn lựa để có thể
thu nhận được các kiến thức và các kỹ năng có thể
áp dụng được thành công trong thực tế.



3. Tóm tắt kế hoạch
Dự án được thực hiện với 6 mục tiêu chính: 1. Tập huấn cho các giáo viên; 2. Lựa chọn các trại; 3.
Làm quen với các phương pháp chăn nuôi tốt nhất; 4. Đưa lợn giống xuống các nông hộ; 5. Theo
dõi các lợi nhuận; và 6. Củng cố lợi nhuận.

Trong thời gian 6 tháng thứ 2 thực hiện dự án, các tiến độ đáng kể đã được thực hiện đối với các
mục tiêu 2-4, theo đúng như đề cương của d
ự án, với 1 số những thay đổi nhỏ và yêu cầu kéo dài
thêm thời gian do 1 số tình huống không được dự báo trước.

Một điều tra về các hộ nông dân, do các nhà khoa học Việt Nam và Australia thiết kế trong quá
trình chương trình tập huấn diễn ra tại Australia đã được hoàn thành tại các tỉnh Quảng Nam, Thừa
Thiên Huế, Bình Định và tỉnh Quảng Trị. Một dạng mẫu điều tra online đã do trường Queensland
thiết kế và đã
đưa vào thực hành nhằm mục đích đơn giản hóa việc đăng nhập số liệu và các phân
tích, và cung cấp các công cụ để theo dõi chương trình cải tiến liên tục (CIP) tại các trại đã được
chọn lựa. Hệ thống này còn có khả năng cập nhật các hình ảnh, bởi vậy mà các ảnh hoặc hình vẽ về
kế hoạch xây dựng cải tiến chuồng trại cũng có thể được đánh giá ho
ặc trao đổi nhanh chóng giữa
các nhà khoa học. Các dữ liệu này sẽ cung cấp nền tảng cơ bản cho việc mở rộng tiếp tục mô hình
này, vượt ra khỏi cả khuôn khổ của dự án hiện tại.

Trên cơ sở các trả lời của các điều tra, mà đã được phân tích qua bằng chương trình SPSS, 27-30
trại tốt nhất ở mỗi tỉnh đã được chọn lực và các mục tiêu 3-4 đã đượ
c bắt đầu đi vào thực hiện (nâng
cấp các trang thiết bị, tập huấn, và nhập lợn giống). Các nhà khoa học Việt Nam, những người mà
dã được tham gia khóa tập huấn tại Australia sẽ tiến hành 2 bài đánh giá về các trình độ thu được.
Thứ nhất, dựa trên các cuộc điều tra tại thực địa và việc thảo luận với các nhà khoa học Australia,
họ đã đặt ra nhiệm vụ thiết kế hệ

thống chuồng trại thích hợp cho lợn Móng Cái đối với các trại đã
được chọn lựa để công việc có thể chính thức được khởi động. Thứ hai, trong quá trình các nhà
khoa học Australia tiến hành các chuyến đi thực địa, họ đã tiến hành các đánh giá và nhận biết ra
các vấn đề tồn tại, thảo luận và đưa ra các ưu tiên.


4
Do chi phí của việc đi lại và do thiếu các kỹ thuật viên cơ sở có kinh nghiệm để hỗ trợ, chúng tôi đã
quyết định là tạm thời để tỉnh Bình Định ra khỏi các mục tiêu 2-4 cho tới sau này của dự án. Thay
vào đó, các cố gắng sẽ được tập trung vào việc tiến hành các thay đổi ở tình Quảng Trị (do NIAH tự
quản lý) và Thừa Thiên Huế (do HUAF tự quản lý). NIVR sẽ bảo đảm việc ti
ến hành các chẩn đoán
về bệnh tiêu chảy và các bệnh khác cho các trại, hỗ trợ về thú y trong việc điều tra các ổ dịch bệnh
và cung cấp vacxin E. coli do cơ quan này chế tạo để phòng bệnh tiêu chảy do E. coli ở lợn con theo
mẹ cho cả 2 tỉnh này. Tùy địa điểm thích hợp, các nhà khoa học của NIAH và HUAF mà đã được
tập huấn ở Australia sẽ hợp tác với nhau trong các chương trình tập huấn ở cả
2 tỉnh để đảm bảo
việc chuyển giao 1 cách đầy đủ nhất các ý tưởng và các kỹ năng.

Trong quá trình tiến hành điều tra, bất chấp 1 thực tế là các loại hình của hệ thống các trại là rất đa
dạng và chất lượng của chuồng trại là khác nhau rất nhiều, chúng tôi cũng đã quyết định rằng, hơn
vì so sánh các ưu điểm thể hiện giữa lợn nái lai nhập ngoạ
i và lợn Móng Cái, phần lớn các hộ nông
dân (ngoại trừ 1 ngoại lệ là 1 hộ gia đình rất có kinh nghiệm trong việc nuôi các giống lợn ngoại) sẽ
được nhận các lợn nái hậu bị thuần chủng Móng Cái. Nếu các hộ nông dân đạt được những thành
công với việc nuôi lợn Móng Cái, thì sau đó họ cũng có thể được khuyến khích để mở rộng chăn
nuôi và nuôi lợn F1 hoặc các lợn lai trong tương lai. Có 2 mô hình thích hợp khác nhau đã
được thử
nghiệm, mỗi mô hình ở 1 tỉnh. Tại Thừa Thiên Huế, do khoảng cách giữa các trại và HUAF gần
nhau nên các chuyến đi thực địa xuống các trại cũng được tiến hành thường xuyên hơn. Do vậy, các

thay đổi đối với các điều kiện chăn nuôi như việc xây dựng khu chuồng riêng cho các lợn nái đã cạn
sữa, khu chuồng cho lợn nái đẻ và chuồng riêng cho lợn con, tăng mức độ thoáng gió và hệ
thống
làm mát bằng nước nhỏ giọt cũng đã được tiến hành cùng thời gian với việc đưa lợn giống sinh sản
vào nuôi, đồng thời với việc tập huấn từng bước 1 đối với từng giai đoạn có tính quyết định của quá
trình chăn nuôi. Các lợn nái hậu bị mang thai đầu tiên ở Thừa Thiên Huế sẽ đẻ con vào khoảng cuối
tháng 10, đầu tháng 11. Ở tỉnh Quảng Tr
ị, các trại được chọn lựa đã tham gia chương trình tập huấn
về nuôi lợn Móng Cái thuần chủng do NIAH tổ chức ngay sau khi quá trình chọn lựa các trại được
tiến hành xong. Một mô hình chuồng nuôi lý tưởng cho lợn Móng Cái đã được thiết kế như là mô
hình mẫu cho nông dân để có thể dựa vào đó và tiếp tục phát triển một khi mà đã bắt đầu có lợi
nhuận. Các lợn nái hậu bị được nuôi trong vùng lợn Móng Cái thuầ
n chủng ở miền Bắc được dự
định là sẽ được vận chuyển đến các trại đã được chọn lựa ở tỉnh Quảng Trị trong tháng 7. Tuy
nhiên, các ổ dịch FMD và PRRS nổ ra ở tỉnh Quảng Trị đã làm cản trở việc chu chuyển gia súc vào
tỉnh này, và bởi vậy các lợn nái hậu bị lại phải bán trở lại cho các hộ nông dân ở miền Bắc. Do vậy,
quá trình nâng cấ
p chuồng trại đã được tiến hành xong hoàn toàn trước khi đưa lợn giống sinh sản
vào nuôi. Tuy nhiên, sau đó thì tình hình các bệnh FMD và PRRS ở tỉnh Quảng Trị đã ít nhiều sang
sủa hơn nên các lợn nái hậu bị lại đã tiếp tục được chọn lựa và sẽ được đưa vào đây vào khoảng
tháng 11 hoặc tháng 12, khi mà giá cả là hoàn toàn thích hợp.

Các chương trình tập huấn chính và đồng thời ở mỗi tỉnh đã được lậ
p kế hoạch vào tháng 11, tập
trung chủ yếu vào việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái Móng Cái trong quá trình mang thai và nuôi
con, cũng như là việc chăm sóc lợn con ở độ tuổi trước cai sữa. Trong tuần thứ 1, các kỹ thuật viên
cơ sở sẽ được tập huấn, sau đó là đến các nông dân đã được chọn lựa vào tuần thứ 2. Do sự chậm
trễ về kế hoạch thực hiện trong khoảng 3-4 tháng gây ra bởi dị
ch bệnh FMD và PRRS ở tỉnh Quảng
Trị, những người tham gia dự án muốn có thêm 1 khoảng thời gian gia hạn là 3 tháng đối với tất cả

các báo cáo tiến độ 6 tháng (tháng 1 và tháng 7 hàng năm).

Các thay đổi về nhân lực tham gia dự án bao gồm: việc biệt phái TS. Côi sang vị trí mới là giám
đốc Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương, và TS. Tạ Thị Bích Duyên sẽ là người thay thế để
quản lý dự án phía NIAH. TS. Trish Holyoake cũng đã chính thức xin phía trường Sydney rút khỏi
dự án này do bà ta phả
i tham gia 1 số dự án khác. Do vậy, khoản ngân sách $18,000 trước đây là
vốn hoạt động của phía trường Sydney được yêu cầu là sẽ phân phối đều cho các cơ quan nghiên
cứu phía Việt Nam để trang trải các chi phí đi lại do các trì hoãn gây ra ở tỉnh Quảng Trị và việc
phải đi lại nhiều hơn đối với các nhà khoa học ở Huế.


5
4. Đặt vấn đề và tổng quan về dự án
Để thoả mãn nhu cầu về thịt lợn ngày càng tăng, một số nông hộ ở miền Trung Việt Nam đã
không ngừng mở rộng chăn nuôi, tăng năng suất, trong khi đó, vấn có một số hộ vẫn giữ chăn nuôi
theo phương thức cũ với các điều kiện chuồng nuôi nghèo nàn. Cùng với việc chăn nuôi được mở
rộng thì cũng kéo theo nhiều bệnh tật xảy ra, đặc bi
ệt là ở giai đoạn lợn con còn đang bú mẹ, do
vậy, không có gì là ngạc nhiên khi các bệnh tiêu chảy gây ra các thiệt hại đáng kể cho lợn ở giai
đoạn này. Bệnh thường được giải quyết và và kiểm soát bởi sự kết hợp giữa quản lý tốt, tiêm phòng
đầy đủ, tuy nhiên các điều kiện môi trường không đảm bảo tại rất nhiều trại chính là nguyên nhân
chính gây ra bệnh, đặc biệt là ở các khu vực chuồng l
ợn đẻ và cai sữa. Kháng sinh – nguyên nhân
chính làm tăng các chi phí của sản xuất – cũng được sử dụng quá nhiều và việc sử dụng tùy tiện này
cũng đã gây ra mức độ kháng thuốc cao với rất nhiều chủng vi khuẩn phân lập được từ các lợn nuôi
tại Việt Nam. Việc mở rộng chăn nuôi lợn quy mô hộ gia đình ở các tỉnh miền Trung Việt Nam
cũng là nguồn cải thiện thu nhập
đáng kể đối với các gia đình nghèo, nhưng hiện tại cũng bị cản trở
do lợi nhuận thu được là rất thấp do năng suất sinh sản tốc độ tăng trọng kém, thiếu các kỹ năng

trong chăn nuôi và quản lý, thức ăn nghèo nàn và các vấn đề về bệnh tật. Dựa trên các kinh nghiệm
thu được từ dự án CARD hiện tại (001/04VIE), các vấn đề mà người chăn nuôi quy mô nhỏ ở Vi
ệt
Nam hiện đang phải đối mặt là:
• Thiếu các theo dõi ngay tại trại về hiệu quả chăn nuôi hàng ngày
• Thiếu các theo dõi về tăng trọng bình quân ngày, tiêu tốn thức ăn và số lợn bán ra/nái/năm
để đánh giá năng suất chăn nuôi toàn đàn và lợi nhuận thu được
• Chưa đề ra và đạt được các mục tiêu về sinh sản
• Hệ thống thông thoáng gió và làm mát kém, làm hạn chế khả nă
ng tiêu thụ thức ăn của lợn
• Thiếu thức ăn cho các loại lợn, từ sơ sinh đến khi xuất chuồng
• Thiếu các theo dõi về tình hình bệnh tật của đàn lợn, đặc biệt là về tỷ lệ chết, tuổi và nguyên
nhân gây chết
• Chiến lược tiêm phòng vacxin cho các bệnh chưa đứng, do vậy đã làm hạn chế tác dụng
phòng bệnh của vacxin
• Thiế
u chuyên gia thú y và các cán bộ khuyến nông để đào tạo và chỉ dẫn cho nông dân
• Thiếu các mô hình trình diễn tại các tỉnh để tập huấn cho những người cần học

Để có các hiểu biết rõ ràng hơn về các rủi ro làm hạn chế và giảm hiệu quả chăn nuôi lợn,
cần phải có 1 cuộc điều tra trên số lượng nông hộ tương đối lớn tại các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên
Huế, Quảng Nam và Bình Định. Các số liệu theo dõi trước đó về vấn đề chăn nuôi, thú y, chuồng
trại, môi trường và thu nhập sẽ được thu thập và đánh giá để xác định các ưu tiên nghiên cứu. Một
ví dụ đại diện của các trại chăn nuôi quy mô nhỏ (được giới hạn là nuôi <10-15 lợn nái) và các trại
thương phẩm nhỏ (30-100 nái) ở từng tỉnh sẽ được lựa chọn để tham gia vào quá trình điều tra và
đánh giá – các tiêu chuẩn để đánh giá mức độ chăn nuôi, trình độ của người chăn nuôi và các điều
kiện chăn nuôi tại các trại. Trước khi triển khai điều tra, các nhà khoa học phía Việt Nam sẽ được
tập huấn để tổ chức các chuyến kiểm tra thực địa và phòng vấn nông hộ, thu thập số liệu về sức sản
xuất và các điều kiện về trang thiết bị khác.
Tiếp theo các cuộc điều tra ở các trại đã được chọn lựa tại 3 tỉnh, 1 cuộc hội thảo sẽ đựoc tổ

chức tại Trường Đại học Nông lâm Huế để xác định các yếu tố rủi ro chính có ảnh hưởng đến năng
suát chăn nuôi lợn. Những ưu tiên nghiên cứu sẽ được xác lập cho việc cải tiến quản lý, các kỹ thuật
chăn nuôi và chuồng trạ
i tại các nông hộ. Điều này sẽ có dẫn đến kết quả là việc phát triển các mô
hình chuồng nuôi thích hợp cho chăn nuôi lợn (với những cải tiến phù hợp), cũng như là các kỹ
thuật chăn nuôi và quản lý. Một khi mà các mô hình này được đánh giá thông qua, hàng loạt các
chuyến đi thực địa sẽ được triển khai ở các huyện mà các cán bộ khuyến nông và thú y địa phương
là những người đã được
đào tạo sẽ tham gia tích cực. Các nông dân dã được lựa chọn sẽ được mời
tham dự các lớp tập huấn “Tập huấn cho giáo viên” ở mỗi vùng. Các buổi hội thảo về chăn nuôi lợn
từ sinh sản đến khi bán ra thị trường cũng sẽ được tiến hành để đáp ứng được các yêu cầu và các hệ
thống chăn nuôi theo đó.

×