Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

CÁC NHÂN tố ẢNH HƯỞNG đến ý ĐỊNH THAM GIA bảo hiểm y tế tự nguyện v3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.9 KB, 49 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

****************

ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH THAM GIA BẢO
HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN CỦA NGƯỜI DÂN TẠI HUYỆN CẨM
MỸ, TỈNH ĐỒNG NAI

Họ và tên:
Khóa: 2018 - 2020
Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số ngành:

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

********************

ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH THAM GIA
BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN CỦA NGƯỜI DÂN
TẠI HUYỆN CẨM MỸ, TỈNH ĐỒNG NAI



Cán bộ hướng dẫn:
Học viên thực hiện:
Khóa: 2018 - 2020
Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 11 năm 2019

2


MỤC LỤC
TRANG

3


DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT

BQTK

: Bình quân thời kỳ

FDA

: Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm

GTGT

: Giá trị gia tăng


GTSX

: Giá trị sản xuất

4


5


DANH SÁCH CÁC BẢNG

6


DANH SÁCH CÁC HÌNH

HÌNH

TRANG

7


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề nghiên cứu
Ngày nay xã hội phát triển không ngừng đồng thời việc ô nhiễm môi trường,
thực phẩm bẩn cũng tăng cao khiến chúng ta dễ mắc các bệnh nguy hiểm và chi phí
phải trả cho việc điều trị rất cao, những biến cố rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào

mà chúng ta không thể lường trước được. Vì vậy, nhu cầu an toàn và các biện pháp
luôn đặt lên hàng đầu. Chúng ta phải luôn tìm cách bảo vệ bản thân, những người
thân yêu trước rủi ro bất ngờ. Một trong những biện pháp đảm bảo nhất là tham gia
Bảo hiểm y tế.
Huyện Cẩm Mỹ là Huyện vùng sâu vùng xa, địa hình núi, đồi thoải lượn
sóng và các dải đất tương đối bằng ven suối có xuất phát điểm kinh tế nông
nghiệp. Nên không có sự thay đổi nhận thức lớn về giá trị chăm sóc sức khỏe.
Trong những năm gần đây, BHYT được người dân sử dụng ngày càng nhiều hơn.
Bên cạnh nhóm đối tượng tham gia BHYT bắt buộc, nhóm đối tượng tham gia
BHYT tự nguyện được kỳ vọng sẽ góp phần tăng tiếp cận dịch vụ y tế cho người
dân.
Do thông tin tuyên truyền còn hạn chế nên hiện nay BHYT tự nguyện vẫn
còn người chưa tham gia. Số người tham gia BHYT tự nguyện chiếm một tỷ lệ khá
khiêm tốn trong tổng số người tham gia BHYT (Chu Thị Kim Loan và Nguyễn
Hồng Ban, 2013). Các lý do chủ yếu của việc không tham gia BHYT tự nguyện bao
gồm không có thói quen đi khám - chữa bệnh, do thủ tục hành chính rườm rà, do
mức đóng BHYT cao, thu nhập thấp (Vũ Ngọc Huyên và Nguyễn Văn Song, 2014).
Xét về quyết định lựa chọn mua BHYT, thông tin bất cân xứng gây hai tác động là
lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức trong việc mua và sử dụng thẻ bảo hiểm y tế tự
nguyện. Cụ thể là, đa số những người dân mua bảo hiểm y tế tự nguyện là những
người có tình trạng sức khỏe không tốt (Nguyễn Văn Phúc và Cao Việt Cường,
2014). Bên cạnh đó, người mua BHYT sẽ có xu hướng mua nhiều hơn khi họ xảy ra
bệnh trước thời điểm mua bảo hiểm (Lammers và Wamerdam, 2010) vì thực tế là
8


người mua BHYT biết rõ tình trạng sức khỏe của mình hơn người bán bảo hiểm.
Còn rủi ro đạo đức xảy ra là khi người dân có thẻ BHYT tự nguyện đi khám bệnh
nhiều hơn so với những người có thẻ BHYT khác hay không có thẻ BHYT (Nguyễn
Văn Ngãi và Nguyễn Thị Cẩm Hồng, 2012). Hệ quả của các vấn đề trên là nguồn

thu hạn chế từ người dân, làm cho quỹ BHYT bội chi, làm cho các bệnh viện quá tải
dẫn đến chất lượng của việc khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT chưa cao. Về các
nhân tố ảnh hưởng đến quyết định mua BHYT, chi phí chăm sóc y tế là yếu tố quyết
định quan trọng của mua BHYT. Tuổi, bảo hiểm bệnh tật và kiến thức về bảo hiểm
cũng được tìm thấy ảnh hưởng đến quyết định mua BHYT một cách tích cực. Đối
với số lượng mua BHYT, thu nhập đã được tìm thấy có mối quan hệ đáng kể, cụ thể
là những người có thu nhập cao thì mua BHYT nhiều hơn thu nhập thấp (Yamada et
al., 2009). Số lượng trẻ em trong các gia đình, tuổi tác và nhận thức về chi phí chăm
sóc y tế trong tương lai cũng được tìm thấy ảnh hưởng có ý nghĩa đến việc mua bảo
hiểm (Bhat và Jain, 2006). Ngoài ra, các yếu tố khác tác động lên quyết định mua
BHYT tự nguyện có thể kể đến là yếu tố dân tộc, quy mô hộ, kiến thức về sản phẩm
bảo hiểm trên thị trường, mức độ chấp thuận rủi ro, nhận thức rủi ro, trình độ giáo
dục của chủ hộ (Lammers và Wamerdam, 2010). Với mong muốn áp dụng những
kiến thức đã học vào thực tế, xuất phát từ tình hình thực tế của địa phương,Như vậy,
để đảm bảo BHYT tự nguyện phát huy được đúng tác dụng tích cực giúp cho việc
khám chữa bệnh của người dân được thuận lợi thì việc tìm hiểu về “Các nhân tố
ảnh hưởng đến ý định tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện của người dân tại huyện
Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai” có ý nghĩa hết sức thiết thực.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến ý định tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện
của người dân tại huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu 1: Phân tích thực trạng tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện của

9


người dân tại huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
Mục tiêu 2: Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến ý định tham gia bảo hiểm y

tế tự nguyện của người dân tại huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
Mục tiêu 3: Đề xuất những giải pháp nhằm cải thiện các nhân tố có ảnh
hưởng đến việc tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện của người dân tại huyện Cẩm Mỹ,
góp phần làm gia tăng số lượng người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện tại huyện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện của
người dân tại huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
Đối tượng khảo sát: Người dân tại huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Do điều kiện làm đề tài hạn chế, tác giả xin khảo sát 06/13 xã
tại huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai
Về thời gian: Số liệu sơ cấp khảo sát vào tháng 12 năm 2018. Số liệu thứ cấp
tổng hợp từ năm 2016 đến 2018.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Thực trạng tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện của người dân tại
huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai như thế nào?
Câu hỏi 2: Nhân tố nào ảnh hưởng đến việc tham gia bảo hiểm y tế tự
nguyện của người dân tại huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai?
Câu hỏi 3: Đề xuất những giải pháp gì góp phần làm gia tăng số lượng người
tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện tại huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.

10


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện trên Thế giới, Việt Nam, Đồng
Nai
1.1.1. Trên thế giới
Với Singapore, một đất nước có thu nhập đầu người cao, người được Bảo

hiểm y tế luôn được mở rộng quyền lợi. Thay đổi hệ thống BHYT tự nguyện, theo
đó mở rộng hệ thống bảo hiểm cơ bản giá thấp được gọi là MediShield, tức là người
mua bảo hiểm sẽ được bảo hiểm suốt đời (kể cả những người trên 90 tuổi và những
người đã có tiền sử bệnh tật) và được hưởng mức bảo hiểm cao hơn. Người trên 60
tuổi sẽ được nhà nước hỗ trợ nhiều hơn để trả phí bảo hiểm. Ngoài ra, chính phủ
cũng sẽ tăng tiền trợ cấp cho những bệnh nhân ngoại trú bị bệnh nặng.
Còn tại Mỹ chính sách BHYT tự nguyện được thực hiện có thể qua các Công
ty Bảo hiểm tư nhân. Và nước Mỹ cũng thông qua Luật cải cách y tế của Tổng
thống Obama, một trong những quy định của bộ luật này là tất cả mọi người mỹ
phải có bảo hiểm y tế. phần lớn người lao động ở mỹ được chủ lao động đứng ra
bảo hiểm, nhưng cũng có nhiều người không nhận được bảo hiểm ở nơi họ làm việc
nhưng người này thường có thu nhập không cao để tự mua bảo hiểm cho mình,
nhưng thu nhập cũng không quá thấp để đủ điều kiện tham gia chương trình chăm
sóc y tế miễn phí của chính phủ, còn gọi là medicaid. Quốc hội Mỹ đang điều
nghiên để thực hiện bảo hiểm toàn dân. Cần có sự can thiệp để BHYT tự nguyện có
ý nghĩa và đủ giá trị hơn.
Còn tại Đức với một mạng lưới dày đặc các bác sĩ có tay nghề cao, nước Đức
được coi là một trong những nước có hệ thống y tế tốt nhất thế giới đạt được một số
thành tựu quan trọng: Mọi công dân Đức đều có BHYT tự nguyện, sự tiếp cận cũng
như việc cung cấp dịch vụ y tế ngày càng hiện đại… BHYT tự nguyện đã tạo ra
nguồn tài chính công đáng kể cho công tác khám chữa bệnh, góp phần thực hiện
mục tiêu công bằng trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đảm bảo an sinh xã hội.

11


1.1.2. Tại Việt Nam
Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2020, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế (BHYT)
sẽ đạt 90% dân số. Tuy nhiên, đến nay, tỷ lệ bao phủ BHYT đã là 89%, với gần 85
triệu người dân tham gia. Có được thành quả này là nhờ sự quyết tâm và chỉ đạo

quyết liệt của Chính phủ cùng với việc đẩy mạnh triển khai thực hiện của Bảo hiểm
xã hội (BHXH) Việt Nam cũng như các bộ, ngành, tổ chức xã hội, các cấp chính
quyền địa phương... Theo số liệu của BHXH Việt Nam, đến hết tháng 5-2009, cả
nước đã có 84,5 triệu người dân có thẻ BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ là 89%. Trong đó,
nhóm đối tượng là người lao động tham gia BHYT với hơn 90%; 100% số người
thuộc nhóm hưu trí, mất sức lao động, bảo trợ xã hội tham gia BHYT, với khoảng
3,1 triệu người có thẻ BHYT. Nhóm được ngân sách nhà nước hỗ trợ gồm có hộ cận
nghèo, học sinh - sinh viên (HSSV)… cũng đạt tỷ lệ tham gia cao hơn 90%. Nhóm
đối tượng thuộc hộ gia đình trước đây phải tham gia BHYT dưới hình thức tự
nguyện, theo quy định của Luật BHYT (sửa đổi) năm 2014 chuyển thành đối tượng
tham gia BHYT bắt buộc nhưng theo hình thức hộ gia đình, đến tháng 5-2019 đã có
hơn 17 triệu người tham gia… Đó là những con số thể hiện sự quyết tâm cao của cả
hệ thống chính trị cũng như sự quan tâm của người dân đối với chính sách BHYT.
Thực tế trong những năm qua, việc mở rộng quyền lợi hưởng BHYT giúp
cho người có thẻ BHYT tiếp cận cao nhất các dịch vụ, kỹ thuật y tế tiên tiến. Hiện
nay, hầu hết thuốc, dịch vụ kỹ thuật đều được Quỹ BHYT chi trả khi KCB đúng
tuyến. Mức đóng mỗi năm không cao, nhưng khi không may mắc bệnh, kể cả những
bệnh hiểm nghèo có chi phí điều trị lớn, người tham gia BHYT sẽ được KCB chu
đáo. Người có thẻ BHYT khi đi KCB đúng tuyến được quỹ BHYT chi trả từ 80%
đến 100% chi phí KCB theo phạm vi và quyền lợi hưởng tùy thuộc vào nhóm đối
tượng.
1.1.3. Tại Đồng Nai
Ngày 15/6/1989 liên Bộ Y tế và Tài chính đã ban hành Thông tư số 14/TTLB
hướng dẫn thực hiện Quyết định số 45/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc thu

12


một phần viện phí.
Năm 1992, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/4/1992.
Đây là Hiến pháp được thể chế hóa theo chủ trương đường lối “đổi mới” của Đảng.
Lần đầu tiên phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và cụm từ “bảo hiểm
y tế” đã được đưa vào Hiến pháp nước ta, Điều 39 Hiến pháp 1992 đã quy định:
“Kết hợp phát triển y tế Nhà nước với y tế nhân dân; thực hiện bảo hiểm y tế, tạo
điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khỏe”. Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm y tế sau này.
Trên tinh thần Hiến pháp 1992, chính sách bảo hiểm y tế ở nước ta lần đầu
tiên đã được Hội đồng Bộ trưởng ban hành tại Nghị định số 299/HĐBT ngày
18/8/1992 ban hành Điều lệ BHYT
Qua triển khai thực hiện, hệ thống chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
nhân dân từng bước được hoàn thiện, thể hiện ở các Nghị định số 58/1998/NĐ-CP
ngày 13/8/1998 (Nghị định 58) và Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005
(Nghị định 63) hướng đến mục tiêu công bằng và nhân đạo trong lĩnh vực bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe nhân dân trên cơ sở đóng góp của cộng đồng, chia sẻ nguy cơ
bệnh tật, giảm bớt gánh nặng tài chính của mỗi người dân.
Từ khi luật BHYT được ban hành, quyền lợi của người tham gia BHYT được
nâng lên rõ rệt. Cụ thể, quỹ KCB BHYT sẽ thanh toán 95% chi phí KCB cho các
nhóm đối tượng: người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp bảo trợ
xã hội hàng tháng; người thuộc hộ gia đình nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh
sống tại các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn và đặc biệt khó khăn. Người bệnh
sẽ phải đồng chi trả 5% còn lại. Đối với các đối tượng khác, quỹ sẽ thực hiện thanh
toán 80% chi phí KCB, người bệnh đồng chi trả 20% còn lại. Riêng trường hợp
KCB có sử dụng dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn thì quỹ BHYT thanh toán theo
các mức như trên, nhưng không vượt quá 40 tháng lương tối thiểu cho một lần sử
dụng dịch vụ đó. Ngoài ra, các nhóm: trẻ em dưới 6 tuổi, người có công, một số đối

13



tượng thuộc lực lượng CAND; KCB tại tuyến xã; chi phí của một lần KCB thấp hơn
15% mức lương tối thiểu sẽ được Quỹ BHYT chi trả 100%.
Với trường hợp KCB không đúng cơ sở KCB ban đầu hoặc KCB không theo
tuyến chuyên môn kỹ thuật (trừ trường hợp cấp cứu) thì Quỹ BHYT thanh toán theo
3 mức: 70% chi phí đối với các trường hợp khám ở cơ sở KCB hạng 3, 50% chi phí
đối với cơ sở KCB hạng 2, 30% chi phí KCB đối với cơ sở KCB hạng 1, hạng đặc
biệt… Với chính sách này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có thẻ BHYT có
thể khám chữa bệnh tại bất cứ bệnh viện nào có ký hợp đồng KCB với cơ quan Bảo
hiểm xã hội.
Việc thực hiện đồng chi trả là một chính sách rất cần thiết để nâng cao trách
nhiệm của bệnh viện và người có thẻ BHYT trong việc tuân thủ pháp luật về BHYT,
kiểm soát chi phí KCB, tránh tình trạng lạm dụng quỹ BHYT trong KCB, gây ra vỡ
quỹ kéo dài.
Để đảm bảo cân đối quỹ đáp ứng được quyền lợi của người bệnh có thẻ
BHYT, mức đóng BHYT đã điều chỉnh tăng lên 1,5 lần, từ 3% lên 4,5% (từ
01/01/2014) mức tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao
động hàng tháng hay mức lương tối thiểu. Riêng học sinh, sinh viên, mức đóng
BHYT bằng 3% mức lương tối thiểu. Tuy nhiên, Nhà nước sẽ hỗ trợ cho một số đối
tượng: người nghèo, người có công, người cao tuổi… và giảm mức đóng khi tham
gia BHYT theo hộ gia đình; đồng thời Nhà nước cũng hỗ trợ mức tối thiểu 70%
mức đóng đối với người thuộc hộ cận nghèo, hỗ trợ 100% đối với đối tượng cận
nghèo do thoát nghèo, tối thiểu 30% mức đóng đối với học sinh sinh viên và người
thuộc hộ nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp có mức sống trung
bình…
Luật BHYT ra đời đã ở rộng thêm các đối tượng tham gia BHYT được sự hỗ
trợ của ngân sách Nhà nước, mở rộng thêm quyền lợi tham gia BHYT. Là bước
khởi đầu cho việc thực hiện BHYT toàn dân theo lộ trình đến năm 2018. Từ khi
Luật BHYT số 25/2008/QH12 ra đời thì số người tham gia và được cấp thẻ BHYT

14



tại tỉnh Đồng Nai đã đạt con số 1.043.290 người và tiếp tục tăng theo các năm theo
bảng số liệu dưới đây.

Bảng 2. 1: Số người tham gia BHYT và BHYT tự nguyện theo nhóm đối tượng
từ năm 2014 đến năm 2018
Đơn vị tính: người
Chỉ số

Năm
2014

Năm
2015

Năm
2016

Năm
2017

Năm
2018

I.Nhóm có trách nhiệm
1.060.862 1.073.315 1.099.414 1.105.089 1.109.434
tham gia BHYT
1.Người LĐ và người
252.902

263.208
264.602
269.301
271.000
SDLLĐ
-Hành chính sự nghiệp
47.151
47.785
49.057
51.501
51.600
-Doanh nghiệp và các tổ
205.751
215.423
215.545
217.800
219.400
chức khác
2.Cơ quan BHXH đóng
113.225
117.859
124.713
125.580
127.450
-Hưu trí, trợ cấp BHXH
113.225
117.859
124.713
125.580
127.450

3. Ngân sách NN hỗ trợ
383.412
384.974
391.294
391.078
391.775
100%
-Đại biểu QH, HĐND
1.387
1.362
1.303
1.320
1.325
-Chất độc hóa học, người
có công, thân nhân người
50.668
51.913
49.123
48.900
49.100
có cồng
-Bảo trợ XH
13.379
17.265
22.408
22.510
22.525
-Cán bộ xã hưởng trợ cấp
112
106

302
310
315
NSNN
-Cựu chiến binh, TNXP
16.728
21.325
25.110
25.250
25.133
-Đối tượng nghèo, dân tộc
96.968
67.420
53.934
51.108
48.988
thiểu số
-Người cao tuổi
25.957
30.486
32.155
32.400
33.250
-Thân nhân sĩ quan công
7.958
8.966
9.933
9.980
9.989
an

-Trẻ em dưới 06 tuổi
170.255
186.313
197.025
199.300
201.150
4.NSNN hỗ trợ 1 phần
311.323
307.274
318.805
319.130
319.209
-Cận nghèo
1.220
5.981
11.905
12.150
12.220
-Học sinh sinh viên
310.103
301.293
306.900
306.980
306.989
II. Nhóm tự nguyện tham
123.804
145.303
152.837
172.148
232.250

gia BHYT và tự đóng

15


BHYT
TỔNG CỘNG

1.101.599 1.218.618 1.252.251 1.277.237 1.341.684

(Nguồn: Phòng Cấp sổ, thẻ - BHXH Tỉnh Đồng Nai )
Bảng số liệu 2.1 về số người tham gia BHYT từ năm 2014 đến 2018 đã thể
hiện rất rõ và cụ thể về số lượng người tham gia theo các nhóm đối tượng.
Cả 02 nhóm đối tượng: Người có trách nhiệm phải tham gia và nhóm đối
tượng tự nguyện, tự đóng BHYT đều tăng theo các năm. Tuy nhiên việc tăng số
người tham gia ở đây không giống nhau. Cụ thể:
- Nhóm đối tượng có trách nhiệm tham gia BHYT tăng là do tăng số lao
động trong các doanh nghiệp, trong các đơn vị hành chính sự nghiệp hay đối với trẻ
em, học sinh sinh viên, người có công, người nghèo…cũng có xu hướng tăng theo
các năm; mà đây là các nhóm đối tượng phải tham gia BHYT và được cấp thẻ
BHYT. Ở đây cần lưu lý về đối tượng học sinh – sinh viên được Nhà nước hỗ trợ
kinh phí và thuộc diện bắt buộc tham gia nên số học sinh- sinh viên tham gia BHYT
chiếm gần 100%. Điều này thể hiện Luật BHYT đã có tác động tích cực tới nhóm
đối tượng này. Với đối tượng cận nghèo cũng được ngân sách thành phố hỗ trợ,
(mức hỗ trợ là 70% ) tuy nhiên số tham gia BHYT có tăng nhưng không nhiều, điều
này có thể là lý lo của việc đối tượng thuộc hộ cận nghèo tuy được hỗ trợ nhưng do
thu nhập rất thấp, việc mua thẻ BHYT dù chỉ là 1/3 giá trị thẻ BHYT cũng là điều
hết sức khó khăn.
- Việc tiến tới BHYT toàn dân có đạt được kết quả hay không chủ yếu dựa
vào việc phát triển nhóm đối tượng tự nguyện tham gia BHYT: đó là những người

làm nghề tự do, hộ gia đình nông, lâm, ngư, diêm nghiệp. Các đối tượng tự nguyện
tham gia BHYT cũng tăng nhanh theo các năm nhưng vẫn còn chiếm tỷ lệ rất ít.
Đây chính là khó khăn cho việc thực hiện BHYT toàn dân. Đòi hỏi phải có các biện
pháp mở rộng đối tượng này tham gia BHYT.
1.2. Những nghiên cứu trước đây

16


1.2.1. Những nghiên cứu trong nước
Trong thời gian qua đã có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, các nghiên cứu,
hội thảo, bài viết về phát triển BHYT nói chung và BHYT tự nguyện nói riêng,
đáng chú ý có một số công trình sau:
Tác giả Trần Nga, có bài viết “ Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện: Điều
chỉnh để tăng hấp dẫn”, Báo Kinh tế Đô thị, ngày 26/7/2018. Trong nghiên cứu tác
giả chỉ ra được hiện có khoảng trên 70% số người lao động trong toàn xã hội chưa
tham gia BHYT, trong đó phần lớn là nông dân, lao động tại nông thôn và lao động
phi chính thức. Đây là nhóm đối tượng tiềm năng để phát triển BHYT tự nguyện.
Tuy nhiên, nhóm đối tượng này lại ít được tiếp cận các thông tin, chính sách về
BHYT tự nguyện.
Thứ trưởng Bộ LĐTB&XH Lê Quân cho biết, hiện nhiều người dân muốn
đóng BHYT tự nguyện nhưng lại ngại chờ đợi tới 20 năm sau mới được hưởng chế
độ. Bên cạnh đó, dù người dân rất quan tâm đến các chế độ hưởng ngắn hạn như ốm
đau, thai sản thì BHYT chỉ quy định 2 chế độ hưởng dài hạn là hưu trí và tử tuất.
Đây là điểm kém hấp dẫn của BHYT tự nguyện với các loại hình bảo hiểm tư nhân
khác. Do vậy, Nghị quyết số: 28-NQ/TW ngày 23 tháng 5 năm 2018 đã đề cập đến
vấn đề giảm dần số năm đóng BHYT tối thiểu để được hưởng lương hưu xuống 15
năm, hướng tới 10 năm với mức tính toán phù hợp, đồng thời từng bước mở rộng
các chế độ hưởng của BHYT tự nguyện.
Tác giả Trần Hà (2017), có bài viết “ BHYT tự nguyện: thị trường lớn, khó

khai thác”, báo bizlive.vn ngày 06/11/2017. Trong nghiên cứu của mình tác giả đã
chỉ ra Tổng cục Thống kê và Viện Khoa học Lao động và Xã hội (ILLSA) có báo
cáo về việc làm phi chính thức, với 18 triệu lao động đang làm việc ở các nhóm
nghề công nghiệp chế biến - chế tạo, xây dựng, bán buôn bán lẻ và sửa chữa ô tô,
mô tô xe máy.
Báo cáo này cũng cho thấy, đến hết tháng 9/2017, số người tham gia BHYT
tự nguyện là 243.000 người, nhưng trong số này có hơn 60% lao động đã tham gia
BHYT bắt buộc và đóng tiếp để đủ thời gian hưởng hưu trí. Quan trọng hơn, 98%

17


lao động phi chính thức hiện nay không được đóng bảo hiểm xã hội.
Nguyên nhân của việc chưa khai thác triệt để thị trường từ khu vực phi chính
thức được hé lộ qua khảo sát về lao động phi chính thức tại Hà Nội và Nghệ An do
ILLSA phối hợp Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thực hiện mới đây. Theo kết quả
khảo sát, có tới 41,1% số lao động phi chính thức chưa (hoặc không) biết đến
BHYT tự nguyện, 20,6% mới biết tên chính sách, 25% biết sơ qua và chỉ có 13,2%
biết rõ thủ tục, đối tượng, mức đóng và mức hưởng….
Tác giả Lưu Bích Ngọc (2016), có bài viết “Chính sách phát triển Bảo hiểm
xã hội và BHYT tự nguyện của Việt Nam tại các thành phố không trực thuộc Trung
Ương” Thời báo kinh tế xã hội số 210. Trong nghiên cứu của mình tác giả đã chỉ ra
được tỷ lệ người lao động tham gia BHYT còn rất hạn chế. Hiện các hộ gia đình có
nhu cầu tham gia BHYT tự nguyện rất lớn và tương lai nhu cầu này sẽ còn tăng cao
hơn nữa. Đã đến lúc Nhà nước cần sớm ban hành chế độ BHYT tự nguyện với cơ
chế, chính sách phù hợp để thu hút người dân tham gia, tạo thêm cơ hội cho hộ gia
đình được bảo đảm cuộc sống khi ốm đau, giảm thu nhập do không còn khả năng
hay quá tuổi lao động.
Tác giả Nguyễn Quỳnh Hoa (2013), có nghiên cứu “Yếu tố ảnh hưởng ý định
đóng BHYT tự nguyện trên địa bàn tỉnh Hà Giang”, Khóa luận tốt nghiệp - Đại học

Kinh tế quốc dân. Trong nghiên cứu của mình tác giả đưa ra được: trong nền kinh tế
thị trường, việc tham gia BHYT của các nhóm lao động là cần thiết, nhằm bảo vệ họ
trong những trường hợp giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao
động trong quá trình lao động. Tuy nhiên, để phát triển BHYT phù hợp với các
nhóm lao động khác nhau, nên có sự tổ chức khoa học để thực hiện quản lý được
đối tượng, tập trung được nguồn lực và tạo điều kiện cho mọi hộ gia đình có thể tiếp
cận được tới các dịch vụ xã hội. BHYT có thể thực hiện tới những đối tượng chưa
thuộc diện tham gia BHYT bắt buộc như lao động ở các doanh nghiệp có dưới 10
lao động (hiện nay là từ 1 lao động trở lên phải tham gia BHYT - NCS), lao động
trong nông nghiệp, nông dân, lao động ở khu vực tiểu thủ công nghiệp. Trong
nghiên cứu này tác giả đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tham gia BHYT tự

18


nguyện đó là: An toàn sức khỏe, Giới thiệu người thân quen, An toàn sức khỏe gia
đình, Giảm thiểu chi phí khi nằm viện.
Tác giả Nguyễn Thị Bích (2016), có nghiên cứu “Phát triển chính sách
BHYT tự nguyện cho người lao động với Bảo hiểm xã hội tự nguyện”, Khóa luận tốt
nghiệp - Đại học Bách khoa Hà Nội. Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích
tìm hiểu nhu cầu, khả năng tham gia của hộ gia đình đối với hình thức BHYT tự
nguyện cũng như thái độ, mong muốn của chính bản thân hộ gia đình đối với
phương thức tham gia, đóng góp và cơ chế hưởng chế độ bảo hiểm sau này. Tác giả
đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển và mở rộng quy mô của hộ gia đình tham
gia BHYT.
Tác giả Hà Thị Thủy Tiên (2016), có nghiên cứu "Yếu tố ảnh hưởng ý định
tham gia BHYT tự nguyện trên địa bàn thành phố Thái Nguyên", Khóa luận tốt
nghiệp kinh tế - Đại học Thái Nguyên. Luận văn đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận
về BHYT tự nguyện. Từ khái niệm BHYT tự nguyện, bản chất, vai trò, nguyên tắc
hoạt động của BHYT tự nguyện, nội dung chính sách BHYT tự nguyện, các nhân tố

ảnh hưởng tới việc tham gia BHYT tự nguyện. Luận văn cũng đã phản ánh được
thực trạng tham gia BHYT tự nguyện tại thành phố Thái Nguyên, phân tích được
những nhân tố ảnh hưởng tới công tác triển khai thực hiện BHYT tự nguyện trên
địa, chỉ ra được những khó khăn, tồn tại trong việc triển khai thực hiện BHYT tự
nguyện trên bàn thành phố Thái Nguyên. Luận văn cũng đã đưa ra một số giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao công tác triển khai BHYT tự nguyện trên địa bàn thành phố
Thái Nguyên.
1.2.2. Những nghiên cứu ngoài nước
Sakai and Okura (2011), nghiên cứu “Phân tích kinh tế học về bảo hiểm y tế
tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc” của hai chuyên gia người Nhật đã phân tích về thị
trường bảo hiểm và BHYT mà cả hệ thống bảo hiểm tự nguyện và bắt buộc cùng
tồn tại. Thực tế, nghiên cứu đánh giá xem liệu Bảo hiểm bắt buộc có góp phần
khích lệ sự phát triển của bảo hiểm tự nguyện hay không. Một vài kết luận đã được
đưa ra trong 2 tình huống: (1) Khi thị trường chỉ có bảo hiểm xã hội tự nguyện tồn
19


tại; (2) khi thị trường có cả bảo hiểm tự nguyện và bắt buộc cùng tồn tại.
Jowett and Thompson (1999), nghiên cứu về “Chi trả cho chăm sóc sức khỏe
tại Việt Nam: Mở rộng sự tham gia vào bảo hiểm sức khỏe tự nguyện”. Mục đích
của nghiên cứu là tổng hợp từ các báo cáo và dự án nghiên cứu được thực hiện bởi
Chương trình quốc tế tại Trung tâm kinh tế sức khỏe, liên quan đến hệ thống sức
khỏe tại Việt Nam trong vòng 4 năm qua. Thực tế, nghiên cứu này tập trung vào
mục đích phát triển các chương trình bảo hiểm sức khỏe tự nguyện của nhà nước
với chủ đề là dự án nghiên cứu được tài trợ bởi DFID. Các nghiên cứu trước đó
được thực hiện bởi các thành viên của chương trình quốc tế bao gồm việc đánh giá
tác động của cải cách kinh tế lên hệ thống sức khỏe, đánh giá tác động của các chi
phí người dân nghèo phải trả để tiếp cận với các dịch vụ y tế, và một báo cáo phân
tích chương trình bảo hiểm y tế quốc gia. Mục đích của nghiên cứu là phân tích các
kinh nghiệm về bảo hiểm tự nguyện gần đây, để đưa ra các giải pháp cho các nhà

hoạch định chính sách về các kế hoạch phát triển trong tương lai. Phương pháp
nghiên cứu quan trọng là một phiếu điều tra được thực hiện trên diện rộng ở nhiều
gia đình. Nghiên cứu này trình bày các thực trạng, chỉ ra các điểm phát triển chính,
các thành công và thất bại, và các thách thức chính mà dự án đang phải đối mặt.
Mossialos and Thomson (2004) trong một nghiên cứu về “Bảo hiểm sức
khỏe tự nguyện ở Liên minh Châu Âu” đã cung cấp thông tin tổng thể về thị trường
bảo hiểm sức khỏe tự nguyện trong Liên minh Châu Âu (EU). Nghiên cứu đánh giá
vai trò của bảo hiểm tự nguyện trong việc cung cấp các cơ hội tiếp cận với chăm
sóc sức khỏe; đánh giá các tác động của nó đến sức khỏe con người và các dịch vụ
đi kèm có thể di chuyển tự do; và phân tích các xu hướng và thách thức trong tương
lai đối với những người đóng bảo hiểm tự nguyện và cho các nhà hoạch định chính
sách cấp quốc gia nói riêng và EU nói chung.
Một nghiên cứu các thể chế trong phát triển an toàn kinh tế thông qua các
hoạt động bảo hiểm xã hội, nhóm tác giả nghiên cứu về sự phát triển của bảo hiểm y
tế tự nguyện, trong vòng 3 năm nghiên cứu đã chỉ ra sự phát triển và các phương

20


pháp bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu về chi phí của những người tham gia trong
điều kiện bệnh tật ngày càng gia tăng, nhu cầu có một kế hoạch chi trả trước cần
được xây dựng trong phạm vi dân cư lớn để đa số người dân có thể hưởng lợi (Klem
and McKiever, 1948).
Các công trình nghiên cứu tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên, các
công trình nêu trên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về: “Các nhân tố ảnh
hưởng đến ý định tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện của người dân tại huyện Cẩm
Mỹ, tỉnh Đồng Nai ”. Đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu là mới, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn.
1.3. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
1.3.1. Điều kiện tự nhiên xã hội huyện Cẩm Mỹ

1.3.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Cẩm Mỹ được thành lập theo Nghị định số 97/2003/NĐ-CP, ngày
21/08/2003 của Chính phủ, trên cơ sở sát nhập 07 xã của huyện Long Khánh cũ và
6 xã của huyện Xuân Lộc, đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2004. Diện tích tự nhiên
toàn huyện 46.855 ha,chiếm 7,9% diện tích tự nhiên của tỉnh Đồng Nai.
1.3.1.2. Sự hình thành phát triển
Ngày 1-1-2004, huyện Cẩm Mỹ được thành lập theo Nghị định số
97/2003/NĐ-CP ngày 21-8-2003 của Chính phủ, trên cơ sở tách 7 xã phía Nam của
huyện Long Khánh cũ gồm: Sông Nhạn, Xuân Đường, Xuân Quế, Thừa Đức, Nhân
Nghĩa, Long Giao, Xuân Mỹ; 6 xã phía Tây Nam của huyện Xuân Lộc là: Xuân
Đông, Xuân Tây, Sông Ray, Lâm San, Xuân Bảo và Bảo Bình. Đây là dấu mốc
quan trọng để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân toàn huyện bắt tay vào hành trình
xây dựng, phát triển Cẩm Mỹ.
1.3.1.3. Ranh giới hành chính
+ Phía Bắc giáp Thị xã Long Khánh và huyện Xuân Lộc.
+ Phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
21


+ Phía Đông giáp với xuyện Xuân Lộc và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
+ Phía Tây giáp với huyện Thống Nhất và huyện Long Thành.
- Huyện Cẩm Mỹ gồm 13 đơn vị hành chính cấp xã gồm : Long Giao, Xuân
Đường, Thừa Đức, Sông Nhạn, Xuân Quế, Nhân Nghĩa, Xuân Bảo, Bảo Bình, Xuân
Tây, Xuân Đông, Sông Ray, Lâm San, Xuân Mỹ với 79 ấp, có thuận lợi là trên địa
bàn có Quốc lộ 56 chạy qua, nối kết huyện với thị xã Long Khánh và tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Trung tâm huyện nằm ở xã Long Giao (ngã ba giữa Quốc Lộ 56 và
Hương Lộ 10), nên có lợi thế về không gian phát triển, kết nối giao lưu kinh tế với
các huyện lân cận và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đặc biệt khi sân bay quốc tế Long
Thành được xây dựng và đi vào hoạt động thì tuyến Hương Lộ 10 sẽ là trục giao
thông chính để vận chuyển khách từ sân bay về các tỉnh Nam Trung Bộ và ngược
lại, đồng thời sẽ tạo điều kiện cho các xã nằm trên trục đường này như Thừa Đức,

Xuân Đường, Long Giao có điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh phát triển dịch vụ.

Hình 1. 1.Bản đồ hành chính huyện Cẩm Mỹ

22


Nguồn: (Ủy ban nhân dân huyện Cẩm Mỹ, 2016)
1.3.1.4. Điều kiện tự nhiên
Địa hình:
Địa hình của Cẩm Mỹ có 03 dạng địa hành là: địa hình núi, đồi thoải lượn
sóng và các dải đất tương đối bằng ven suối.
- Địa hình núi: Phân bố rải rác thành các ngọn núi độc lập có độ dốc lớn
(núi Hàng Gòn, Cam Tiên ở xã Long Giao, chiếm khoảng 2% tổng diện tích toàn
huyện, không thích hợp với sản xuất nông nghiệp chỉ thích hợp cho trồng rừng.
- Địa hình đồi thoải lượn sóng: Là dạng địa hình chính, hiện chiếm khoảng
80% tổng diện tích toàn huyện. Độ dốc phổ biến từ 3 đến 80. Khá thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp với các loại hình cây lâu năm nổi tiếng của huyện như: Bơ, cà
phê; sầu riêng, chôm chôm, …
- Địa hình bằng, ven suối: Phân bổ trên các dải dài ven Sông Ray, chiếm
khoảng 18% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện, độ dốc chủ yếu là cấp I (từ 0 - 30)
gần nguồn nước mặt, mực nước ngầm, một số khu vực đất thấp thường bị ngập vào
các tháng mưa lớn. Hầu hết diện tích trên dạng địa hình này đã được sử dụng trồng
lúa và các loại cây ngắn ngày.
Khí hậu thời tiết:
- Huyện Cẩm Mỹ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo,
với những đặc trưng như sau:
Năng lượng bức xạ dồi dào (trung bình 154 - 158 Kcal/cm2-năm). Nắng
nhiều (trung bình từ 5,7 - 6 giờ/ngày), nhiệt độ cao đều trong năm (trung bình
25,40C); tổng tích ôn lớn (trung bình 9.2710C/năm). Ít có những biểu hiện cực đoan

của thời tiết như: bão, lụt, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Lượng mưa lớn (Trung bình từ 1.956 - 2.139mm/năm). Mùa mưa bắt đầu
từ tháng 5 và kết thúc vào khoảng cuối tháng 11. Hạn chế rõ nét nhất trong chế độ
mưa ở đây là thường có những đợt hạn ngắn vào đầu vụ Hè Thu, mưa nhiều, mưa to
23


vào thời kỳ từ tháng 7 đến tháng 9, kết hợp với độ ẩm không khí cao, số giờ nắng
giảm nên năng xuất cây ngắn ngày trong vụ này thường thấp. Mùa khô thường bắt
đầu từ tháng 12 đến tháng 4, do bị mất cân đối nghiêm trọng trong cán cân ẩm nên
để tiến hành sản xuất cần phải có tưới và khi đã cung cấp đủ nước thì sản xuất
thường cho hiệu quả cao và ổn định.
Đất đai và cơ cấu sử dụng:
Theo số liệu thống kê hiện trạng sử dụng đất đến ngày 01/01/2010 của
Phòng Tài nguyên và Môi trường, huyện Cẩm Mỹ có diện tích đất tự nhiên là
46.854,80 ha, với 41.326,28 ha đất nông nghiệp chiếm 88,20%, trong đó:
- Đất trồng cây lúa 1.842 ha, chiếm 4,46% đất nông nghiệp,bao gồm:
+ Đất chuyên trồng lúa nước 2 – 3 vụ/năm có diện tích 691ha, phân bổ chủ
yếu ở các xã Sông Ray (438ha), Sông Nhạn (214ha), Thừa Đức (36ha), Lâm san
(3ha).
+ Đất trồng lúa nước còn lại (trồng 1 vụ/năm hoặc trồng 1 vụ lúa, 1 vụ
màu) có diện tích 1.151ha, phân bố rải rác ở các khu vực thường bị ngập úng vào
mùa mưa hoặc thiếu nước tưới vào mùa khô thuộc các xã Xuân Đông (856ha), Lâm
san (125ha), Xuân Tây (81ha) và rải rác ở các xã Sông Nhạn, Sông Ray, Thừa Đức,
Xuân Bảo .
- Đất cây lâu năm: 34.757,76 ha chiếm 83,67% diện tích đất nông nghiệp,
phân bổ nhiều ở các xã Xuân Quế (4.357ha), Sông Nhạn (4.002ha), Xuân Tây
(3.662ha), Bảo Bình (3.339ha), Xuân Đường (3.229ha) trong đó:
+ Đất trông cây công nhiệp lâu năm: diện tích 31.052ha, chiếm 89,81%
đất trồng cây lâu năm trên địa bàn huyện, trong diện tích đất trồng cây công nghiệp

lâu năm chủ yếu là đất trồng cây cao su và điều, phân bổ nhiều nhất ở các xã Xuân
Quế, Sông Nhạn, Xuân Đường.
+ Đất trồng cây ăn quả: Diện tích 3.147ha, chiếm 9,10% đất trồng cây lâu
năm, các cây trồng lấy quả trên địa bàn huyện cũng rất đa dạng và có giá trịnh kinh

24


tế cao như: mãng cầu, măng cụt, chôm chôm, sầu riêng, bơ…
Đất trồng cây lâu năm khác: diện tích 377ha, chiếm 1,09% đất trồng cây
lâu năm, bao gồm cây lâu năm xen kẽ cây hàng năm, gắn liền với đất ở thuộc khuôn
viên hộ gia đình trong các khu dân cư và cây trồng lấy gỗ rải rác thuộc hộ gia đình
cá nhân.
Nguồn nước:
- Cẩm Mỹ phần lớn sông suối đều ngắn và dốc nên khả năng giữ nước
kém, nghèo kiệt vào mùa khô. Việc xây dựng các hồ chứa kết hợp với chuyển tải
nước từ ngoài vùng vào là rất cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội mà đặc biệt là
cho phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp của huyện, với hệ thống sông suối
chính như:
+ Sông Ray: Bắt nguồn từ khu vực phí nam và tây nam núi Chứa Chan,
diện tích lưu vực trong phạm vi huyện Cẩm Mỹ khoảng 300km2 với các nhánh suối
chính như: Suối Gia Hoét, suối Tầm Bò, Suối Trung, Suối Thề…chiều dài sông
chính 60km, đoạn chảy qua huyện 20 - 25km, lưu lượng trung bình 10,6 m2/s ,
ngoại trừ dòng chính có nước quanh năm, đại bộ phận các nhánh suối đều cạn kiệt
vào cuối mùa khô. Trên hệ thống Sông Ray đã xây dựng được các hồ chứa nước
nhỏ như: hồ Suối Vọng, hồ Suối Đôi đã có tác dụng tốt trong việc cung cấp nước
cho sinh hoạt và sản xuất, nhưng do lượng nước được tích trong hồ không lớn, địa
hình vùng tưới bị chia cắt nên phạm vi tưới thường hẹp, chi phí cho tưới khá cao.
Hồ Suối Rang khả năng giữ nước kém nên năng lực tưới rất hạn chế.
+ Các nhánh sông thuộc hệ thống sông Thị Vải: Các nhánh suối này bắt

nguồn từ khu vực phía tây nam núi Đầu Rừu và núi Hàng Gòn, diện tích lưu vực từ
300 - 400Km2, bao gồm các suối như Suối Quýt, suối Thái Lan, Suối Rừu, Suối
Rầm, Suối Sóc,… nhưng do thảm phủ kém, mùa khô kéo dài nên các suối này đều
bị kiệt vào cuối mùa khô.
- Huyện Cẩm Mỹ nằm trong khu vực nghèo mạch nước ngầm. Trên đất đỏ
được phong hoá từ đá bazan nước ngầm thường xuất hiện ở độ sâu từ 25 - 30m, các
25


×