Sản xuất -chuyển hoá
Những vấn đề cơ bản về hoạt động thanh
toán và quản lý tài sản lu động
I. Hoạt động thanh toán trong doanh nghiệp
1.Khái niệm và vai trò của hoạt động thanh toán đối với
doanh nghiệp.
Thanh toán là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan tới
các quan hệ trong nền kinh tế, thơng mại và các mối quan hệ khác giữa chủ thể
này với chủ thể khác trong nền kinh tế.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào dù lớn hay nhỏ đều nhằm mục tiêu chung là
tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có một lợng
tài sản nhất định. Nếu nh toàn bộ tài sản do doanh nghiệp nắm giữ đợc đánh giá
tại một thời điểm nhất định thì sự vận động của chúng - kết quả của quá trình trao
đổi - chỉ có thể đợc xác định trong một thời kỳ nhất định. Trong quá trình vận
động - các nhân tố đợc kết hợp với nhau để tạo ra hàng loạt các dịch vụ có ích,
phục vụ cho tiêu dùng hoặc để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nh
vậy trong một thời kỳ nhất định các doanh nghiệp đã chuyển hoá các yếu tố đầu
vào thành các yếu tố đầu ra để trao đổi (bán).
Đầu vào Đầu ra
Tài chính Tài chính
Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ, có một loại tài sản đặc biệt
là tiền. Mọi quá trình trao đổi đều đợc thực hiện thông qua trung gian tiền. Do
đó, tơng ứng với dòng vật chất đi vào là dòng tiền hay dòng tài chính đi ra, đồng
thời làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán của doanh nghiệp đối với nhà cung cấp các
yếu tố đầu vào. Và ngợc lại, tơng ứng với dòng vật chất đi ra là dòng tiền hay
dòng tài chính đi vào. Lúc này nghĩa vụ thanh toán cũng phát sinh giữa ngời mua
với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình này, việc đầu t, mua sắm tài sản của doanh
nghiệp phải đảm bảo thu nhập do đầu t đem lại lớn hơn chi phí đầu t. Điều đó có
nghĩa là các giá trị dòng tiền do tài sản tạo ra phải lớn hơn chi phí của các tài sản
đó.
Vậy là một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải cùng lúc đạt đ-
ợc hai mục tiêu:
- Lợi nhuận
- Duy trì khả năng thanh toán
Trong hai mục tiêu này thì mục tiêu số một là tối u hoá lợi nhuận. Mục
tiêu duy trì khả năng thanh toán thực chất cũng là để hớng tới mục tiêu lợi nhuận.
Trong hoạt động của mình, doanh nghiệp có duy trì đợc hoạt động kinh doanh,
giảm thiểu đợc rủi ro thì mới có thể thu hút đợc lợi nhuận. Vì vậy, việc doanh
nghiệp có duy trì đợc khả năng thanh toán hay không là rất quan trọng.
Hơn nữa, trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trờng, các doanh
nghiệp đều bình đẳng trớc pháp luật. Do vậy, ngoài doanh nghiệp sẽ có rất nhiều
đối tợng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt là các ngân
hàng, các chủ nợ, các nhà đầu t. Không ai lại muốn cho vay hay đầu t vào một
doanh nghiệp mà tình hình tài chính yếu kém. Để biết đợc tình hình tài chính của
doanh nghiệp tốt hay không cần phải xem xét khả năng thanh toán của doanh
nghiệp nh thế nào. Nếu tình hình tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ ít công nợ, khả
năng thanh toán dồi dào, ít đi chiếm dụng vốn. Điều đó tạo điều kiện cho doanh
nghiệp chủ động về vốn, bảo đảm quá trình kinh doanh thuận lợi. Ngợc lại, tình
hình tài chính kho khăn, doanh nghiệp nợ nần dây da kéo dài, mất tính chủ động
trong kinh doanh và đôi khi dẫn đến tình trạng phá sản.
Nhiều doanh nghiệp đạt đợc lợi nhuận rất cao nhng vẫn bị phá sản, nguyên
nhân là do họ có một bảng cân đối tài sản không vững chắc: tình hình tài sản và
nguồn vốn nếu xét riêng rẽ rất tốt nhng họ bỏ qua mối quan hệ hữu cơ giữa tài
sản và nguồn vốn. Tài sản lu động tuy lớn nhng không có khả năng trang trải các
khoản nợ ngắn hạn và các khoản nợ đến hạn chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng
nguồn vốn.
Nh vậy, hoạt động thanh toán ảnh hởng đến sự sống còn của doanh nghiệp,
giúp doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn, từ đó thu đợc lợi nhuận một cách an
toàn. Các doanh nghiệp bị phá sản hầu hết là do không trả đợc các khoản nợ đến
hạn chứ không phải trực tiếp do lợi nhuận thấp.
Do đó trong ba nội dung cơ bản của quản lý tài chính đối với doanh nghiệp:
1) Quyết định đầu t
2) Huy động vốn (nguồn tài trợ dài hạn)
3) Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn
thì quản lý hoạt động thanh toán đóng vai trò hết sức quan trọng trong nội dung
thứ ba kể trên. Ngoài việc xác định mục tiêu cho đầu t dài hạn và tìm nguồn tài trợ
cho đầu t đó, doanh nghiệp phải chú trọng đến các quyết định tài chính ngắn hạn
có liên quan chặt chẽ tới công tác quản lý tài sản lu động và nợ ngắn hạn để
không chỉ nâng cao khả năng sinh lợi mà còn bảo đảm khả năng thanh toán của
doanh nghiệp.
2. Phơng pháp, trình tự và nội dung phân tích khả năng
thanh toán của doanh nghiệp.
2.1.Các phơng pháp phân tích khả năng thanh toán
Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp là một nội dung của phân
tích tài chính doanh nghiệp, nó cho ta một nền tảng vô cùng quan trọng để đa ra
những đánh giá, nhận xét về thực trạng khả năng thanh toán và đa ra những giải
pháp nhằm khắc phục những yếu kém, phát huy những u điểm để nâng cao khả
năng thanh toán của doanh nghiệp.
Vì là một nội dung của phân tích tài chính doanh nghiệp nên nó có các ph-
ơng pháp tơng tự nh phân tích tài chính doanh nghiệp nói chung song vì khả năng
thanh toán có những đặc thù riêng của nó và ta cũng xem xét nó ở một góc độ
khác không quá ràng buộc với những nội dung khác của phân tích tài chính doanh
nghiệp nên nhìn chung ta áp dụng những những phơng pháp sau:
Phơng pháp phân tích tỷ lệ
Trong phân tích khả năng thanh toán ta áp dụng phơng pháp này rất phổ
biến, đây là phơng pháp dựa trên ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lợng tài
chính trong các quan hệ tài chính, trong phân tích tình hình và khả năng thanh
toán thì đây chính là mối quan hệ giữa các chỉ tiêu nợ (chủ yếu là nợ ngắn hạn) và
tài sản lu động. Sự biến đổi của các đại lợng tài chính sẽ dẫn đến sự biến đổi của
các tỷ lệ này một cách tơng ứng. Về nguyên tắc phơng pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác
định đợc các ngỡng, các định mức, để nhận xét, đánh giá tình hình và khả năng
thanh toán của doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với
các tỷ lệ tham chiếu.
Phơng pháp so sánh
Đây là phơng pháp đơn giản nhất song lại có hiệu quả rất cao, so sánh giúp
ta thấy rõ sự tăng giảm, đạt hay không đạt yêu cầu, tốt hay xấu của tình hình và
khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong các năm, các kỳ. Thờng thì gốc so
sánh đợc chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, chỉ số bình quân của ngành, của
doanh nghiệp dẫn đầu và trong phân tích về tình hình và khả năng thanh toán ta
hay lấy giá trị so sánh là các số tơng đối hay các tỷ lệ ta đã nói ở trên. Nh vậy có
thể nói khi phân tích tình hình và khả năng thanh toán ta vận dụng cả hai phơng
pháp trên theo thứ tự lần lợt: phơng pháp tỷ lệ rồi đến phơng pháp so sánh.
2.2.Trình tự và nội dung phân tích tình hình và khả năng thanh toán
Sau khi thu thập đủ các thông tin cần thiết ta tiến hành xác định các chỉ tiêu
về tình hình và khả năng thanh toán nh: tỷ lệ thanh toán hiện hành, tỷ lệ thanh
toán tức thời, tỷ lệ thanh toán nhanh Tiếp đó ta tiến hành phân tích chi tiết nhu
cầu và khả năng thanh toán nhằm đánh giá chính xác tình hình thanh toán của
doanh nghiệp trớc mắt và triển vọng trong thời gian tới đây chính là bớc lập bảng
phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán và dựa vào đó đa ra những nhận xét,
kiến nghị nhất định.
3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán
Tình hình tài chính của doanh nghiệp đợc thể hiện khá rõ nét qua các chỉ
tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của một
doanh nghiệp nh đã trình bày ở phần 1 liên quan tới cả hai bên bảng cân đối tài
chính của doanh nghiệp đó, cụ thể là tài sản lu động và các khoản nợ ngắn hạn.
Mối quan hệ này đợc biểu hiện qua các chỉ tiêu sau:
3.1.Vốn lu động thờng xuyên
Vốn lu động thờng xuyên = Tài sản lu động - Nợ ngắn hạn
Công thức 1
Vốn lu động thờng xuyên là chỉ tiêu dùng để đánh gía điều kiện cân bằng
tài chính của doanh nghiệp.
Vốn lu động thờng xuyên > 0 tức là khả năng thanh toán của doanh nghiệp
khả quan, tài sản lu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn.
Ngợc lại, vốn lu động thờng xuyên < 0 nghĩa là tài sản lu động không đáp
ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất
thăng bằng. Doanh nghiệp phải dùng một phải dùng một phần tài sản cố định để
thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả.
Trong trờng hợp nh vậy giải pháp của doanh nghiệp là giảm các khoản nợ
ngắn hạn hay tăng đầu t vào tài sản lu động hoặc cả hai (trong mối quan hệ tơng
đối của các tài sản và nguồn vốn trong doanh nghiệp thì điều này cũng có nghĩa là
tăng cờng huy động vốn dài hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu t dài hạn).
3.2. Tỷ lệ thanh toán hiện hành
Tỷ lệ thanh Tài sản lu động
=
toán hiện hành Nợ ngắn hạn
Công thức 2
Tỷ lệ thanh toán hiện hành là thớc đo khả năng chi trả của một doanh
nghiệp từ số tài sản sẵn có của mình.
Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng thanh toán cáng tốt và thờng phải >1.
Theo nguyên tắc chung là 2: 1, tuy nhiên con số này thay đổi theo ngành
nghề kinh doanh và theo từng công ty. Tỷ lệ này càng nhỏ bao nhiêu thì doanh
nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán bấy nhiêu; khi tỷ lệ này gần bằng
không thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và có nguy cơ phá sản.
3.3.Tỷ lệ thanh toán nhanh
Tỷ lệ thanh Tiền và các chứng khoán thanh khoản cao+ Phải thu
=
toán nhanh Nợ ngắn hạn
Công thức 3
Tỷ lệ thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn
không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ. Do vậy, chỉ có tiền, các chứng khoán
thanh khoản (CKTK) cao và các khoản phải thu đợc tính đến với giả định rằng số
hàng tồn kho không phải lúc nào cũng chuyển thành tiền đợc, do h hỏng, lạc hậu
hoặc do bản chất của mặt hàng đó.
Thông thờng tỷ lệ này nếu > 1 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp là
lành mạnh.
Ngợc lại, nếu tỷ lệ này < 1 thì tình hình thanh toán của doanh nghiệp sẽ gặp
khó khăn. Doanh nghiệp sẽ bán gấp sản phẩm, hàng hoá để thanh toán các khoản
nợ đến hạn.
3.4. Tỷ lệ thanh toán tức thời
Tỷ lệ thanh toán tức thời thông thờng nếu > 0,5 thì tình hình thanh toán của
doanh nghiệp là khá tốt và ngợc lại nếu < 0,5 thì doanh nghiệp khó khăn trong
khâu thanh toán.
Tỷ lệ thanh Tiền và CKTK cao
=
toán tức thời Nợ ngắn hạn
Công thức 4
Tuy nhiên, tỷ lệ này nếu quá cao lại là điều không tốt vì điều đó có nghĩa là
vòng quay của tiền quá chậm, hiệu quả sử dụng vốn nh vậy là không cao.
4. Các nhân tố ảnh hởng đến khả năng thanh toán
4.1.Các nhân tố khách quan
4.1.1Cơ chế chính sách của Nhà nớc.
Đây là những yếu tố mà doanh nghiệp buộc phải nắm rõ và tuân thủ vô
điều kiện vì yếu tố này thể hiện ý chí của Nhà nớc. Những quy định trong các văn
bản pháp luật của Nhà nớc ảnh hởng chặt chẽ đến mọi hoạt động của doanh
nghiệp, trong đó có khả năng thanh toán. Ví dụ theo Nghị định của Chính phủ số
63/1998/NĐ-CP ngày 18/08/1998 về quản lý ngoại hối, với mục đích thanh toán
tiền nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cho tổ chức, cá nhân ở nớc ngoài, các doanh
nghiệp đợc phép mở và duy trì tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng đợc phép sử
dụng ngoại tệ trên tài khoản. Đồng thời theo Quyết định của Thủ tớng Chính phủ
số 173/1998/QĐ-TTg ngày 12/9/1998 về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của
ngời c trú là tổ chức, các doanh nghiệp phải bán ngay tối thiểu 80% số ngoại tệ
thu đợc từ các nguồn thu vãng lai cho các ngân hàng đợc phép trong thời hạn 15
ngày làm việc kể từ ngày ngoại tệ đợc chuyển hoặc nộp vào tài khoản ngoại tệ
doạnh nghiệp mở tại ngân hàng.
Ngoài ra, các chính sách u tiên, khuyến khích hay hạn chế phát triển đối
với ngành nghề kinh doanh cũng ảnh hởng không nhỏ tới hoạt động thanh toán
của doanh nghiệp.
4.1.2.Sự biến động của tỷ giá hối đoái
Đối với mọi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thì tỷ
giá hối đoái là một nhân tố có ảnh hởng không nhỏ. Nhu cầu thanh toán của
doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động của tỷ giá, do đó khả năng
thanh toán cũng bị ảnh hởng. Chẳng hạn ngày 21/12/2000, doanh nghiệp cần
thanh toán một lô hàng trị giá 10000 USD, nếu tỷ giá tại thời điểm đó là
14000VND/USD thì giá trị lô hàng sẽ ứng với 140000000VND, nhng nếu tỷ giá
tại thời điểm đó là 145000VND/ USD thì giá trị lô hàng sẽ là 145000000 VND,
tức là chênh lệch so với giả thiết trớc là 5000000 VND. Rõ ràng, tỷ giá biến động
đã có tác động rất lớn đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
4.1.3. Sự phát triển của thị trờng tài chính
Kinh tế hàng hoá và thị trờng luôn là những khái niệm gắn bó với nhau.
Những hàng hoá thông thờng đợc mua bán trên thị trờng hàng hoá thông thờng,
còn những hàng hoá đặc biệt, tài sản tài chính, lại đợc mua bán trên thị trờng đặc
biệt - thị trờng tài chính.
Do chu kỳ về thu nhập, chi tiêu và đầu t khác nhau nên ở mỗi thời đểm nhất
định trong nền kinh tế, về phơng diện tài chính, luôn tồn tại hai nhóm ngời: nhóm
ngời đi vay và nhóm ngời cho vay. Thị trờng tài chính là thị trờng trong đó vốn đ-
ợc chuyển từ ngời hiện có vốn d thừa (ngời cho vay) sang những ngời thiếu vốn
(ngời đi vay). Thị trờng này thực hiện chức năng kinh tế cơ bản bằng cách truyền
dẫn vốn từ ngời tiết kiệm sang những nhà đầu t. Đối với doanh nghiệp, thị trờng
tài chính không chỉ là nơi để họ huy động vốn với các kỳ hạn khác nhau mà còn là
nơi giúp họ nâng cao khả năng thanh toán, đáp ứng đợc các nhu cầu thanh toán
ngắn hạn.
Giả sử một doanh nghiệp có nhu cầu tiền cấp bách, thông qua thị trờng tài
chính, họ có thể bán các chứng khoán mà mình nắm giữ để đáp ứng nhu cầu tiền
trớc mắt.
4.1.4.Nhân tố thị trờng cạnh tranh
Là một chủ thể kinh tế, khả năng thanh toán của doanh nghiệp gắn bó chặt
chẽ với nhân tố thị trờng. Thị trờng chính là môi trờng hoạt động của doanh
nghiệp. Trong môi trờng này, các doanh nghiệp phải tự đổi mới, nâng cao chất l-
ợng sản phẩm, đồng thời phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp khác để chiếm
lĩnh thị trờng. Một doanh nghiệp chếm lĩnh đợc thị trờng sẽ dễ dàng trì hoãn đợc
các khoản nợ đến hạn, đồng thời có khả năng dễ dàng trì hoãn đợc các khoản nợ
đến hạn, đồng thời có khả năng chuyển hàng tồn kho thành tiền một cách nhanh
chóng, do đó đáp ứng đợc nhu cầu thanh toán một cách nhanh nhất.
4.2. Nhân tố chủ quan
4.2.1 Cơ cấu tài sản và cơ cấu tài sản lu động của doanh nghiệp
Cơ cấu tài chính là tỷ trọng giữa các nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài
hạn của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có tổng các khoản nợ ngắn hạn lớn hơn tài sản lu động
của mình thì tình hình tài chính của doanh nghiệp đó là thiếu lành mạnh, khả
năng thanh toán quá yếu kém.
Trong các nguồn tài trợ của doanh nghiệp, nợ ngắn hạn là nguồn tài trợ có
chi phí tơng đối nhỏ song nó lại yêu cầu doanh nghiệp phải theo dõi một cách
chặt chẽ, sát sao bởi vì nó gây áp lực nên hoạt động thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng doanh nghiệp có thể trì hoãn các khoản là rất thấp hoặc nếu có trì
hoãn đợc thì chi phí cũng sẽ rất cao. Thông thờng các doanh nghiệp cố gắng duy
trì mức nợ ngắn hạn bằng 50% tổng tài sản lu động.
Tuy nhiên, việc duy trì tỷ trọng nợ ngắn hạn trong cơ cấu tài chính của
doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, khả năng huy
động các nguồn vốn dài hạn, khả năng huy động các nguồn vốn dài hạn, khả năng
linh hoạt về tài chính của doanh nghiệp.
4.2.2.Hiệu quả sử dụng vốn lu động của doanh nghiệp
Doanh nghiệp sử dụng vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện bảo toàn và phát triển
vốn, tránh đợc lãng phí vốn, đồng thời tạo đợc uy tín với bạn hàng. Việc doanh
nghiêp tiết kiệm đợc nhiều vốn lu động sẽ giúp doanh nghiệp một cách gián tiếp
nâng cao khả năng thanh toán.
Vì vậy, trong quản lý vốn lu động, doanh nghiệp cần xác định đợc lợng vốn
lu động cần thiết trong kỳ kinh doanh, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu
nhằm ngăn chặn hiện tợng chiếm dụng vốn, tránh ứ đọng vốn, thúc đẩy tốc độ
luân chuyển vốn và thờng xuyên tiến hành phân tích tình hình sử dụng vốn lu
động nhằm có các biện pháp điều chỉnh kịp thời, bảo đảm khả năng thanh toán
của doanh nghiệp.
4.2.3.Quan hệ với khách hàng và nhà cung cấp.
Một doanh nghiệp có quan hệ tốt với khách hàng và nhà cung cấp thì có rất
nhiều điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trờng, các doanh nghiệp có thể tận dụng nguồn vốn
bằng cách mua bán hàng hoá chịu lẫn nhau. Đây là hình thức tín dụng nhà cung
cấp hay tín dụng thơng mại.
Hình thức tín dụng này xuất hiện do sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm, gây ra hiện tợng có một số nhà doanh nghiệp có hàng hoá muốn bán
nhng không có nhu cầu ngay về tiền mặt trong khi đó có một số nhà doanh
nghiệp khác muốn mua nhng không có tiền.
Trong điều kiện nh vậy, doanh nghiệp với t cách là ngời bán có thể bán chịu
hàng hoá của mình cho ngời mua, mà thực chất là cho vay dới dạng hàng hoá,
dịch vụ và sẽ thu lại giá trị cho vay cùng với lợi tức bằng tiền. Ngợc lại, với t cách
là ngời mua, doanh nghiệp có thể mua chịu hàng hoá. Nguồn này trong bảng cân
đối của doanh ngiệp dới dạng khoản phải trả ngời bán và phải thu ngời mua.
Một doanh nghiệp có mối quan hệ tốt với nhà cung cấp không chỉ tận dụng
đợc các khoản tín dụng thơng mại với các điều kiện u đãi mà còn có khả năng trì
hoãn các khoản nợ phải trả với chi phí thấp hơn, giúp giảm bớt áp lực lên hoạt
động thanh toán.
Thêm vào đó, một doanh nghiệp có uy tín với ngời mua sẽ khiến cho khách
hàng tín nhiệm tin tởng, do đó sẽ có ý thức thanh toán cho doanh nghiệp một
cách đúng hạn nghiêm chỉnh hơn. Doanh ngiệp giảm đợc ít nhiều nguy cơ bị
chiếm dụng vốn, hàng hoá tiêu thụ đợc dễ dàng hơn, nâng cao đợc khả năng thanh
toán.
Trong hoạt động thanh toán của mình, doanh nghiệp phải nắm rõ đợc các
nhân tố ảnh hởng đến khả năng thanh toán của mình để có thể hạn chế đợc các tác
động tiêu cực, cũng nh tận dụng đợc những u thế mà chúng tạo ra.
II. Các vấn đề cơ bản về quản lý tài sản lu động
1.Khái niệm tài sản lu động
Nh ta đã biết, t liệu lao động và đối tợng lao động là hai mặt của phạm trù
t liệu sản xuất. Nếu nh phần lớn t liệu lao động là tài sản cố định thì tài sản lu
động chính là đối tợng lao động và phần còn lại của t liệu lao động.
Khác với t liệu lao động, đối tợng lao động thờng chỉ tham gia vào một chu
kỳ sản xuất và trong chu kỳ ấy chúng chuyển hoá toàn bộ giá trị của mình vào sản
phẩm.
Do đó đến chu kỳ sản xuất sau lại phải sử dụng các đối tợng lao động khác.
Phần lớn các đối tợng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực thể
của sản phẩm nh bông thành sợi, cát thành thuỷ tinh một số khác bị mất đi nh
các loại nhiên liệu. Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần có các đối
tợng lao động, lợng tiền ứng ra để thoả mãn nhu cầu về đối tợng lao động gọi là
vốn lu động của doanh nghiệp chính vì thế ta có thể nói vốn lu động là biểu hiện
bằng tiền của tài sản lu động. Tài sản lu động là những tài sản ngắn hạn (thời hạn
sử dụng dới một năm) và luân chuyển thờng xuyên trong quá trình sản xuất.
Nh ta đã nói ở trên đối tợng lao động có những đặc điểm khác hẳn với t liệu
lao động nên kéo theo đó mà tài sản lu động mang những đặc tính hoàn toàn khác
với tài sản cố định là hầu nh chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và luân chuyển
duy nhất một lần. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp thì tài sản lu động
chủ yếu đợc thể hiện ở các khoản mục nh tiền mặt,các chứng khoán thanh khoản
cao, phải thu và dự trữ tồn kho. Giá trị các loại tài sản lu động của doanh nghiệp
kinh doanh, sản xuất thờng chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của chúng.
Quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản lu động có ảnh hởng rất quan trọng đối
với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Quản lý tài sản lu động có
ảnh hởng trực tiếp tới hai mục tiêu vô cùng quan trọng của doanh nghiệp là lợi
nhuận và khả năng thanh toán cần thấy rằng sự bất lực của một số công ty trong
việc hoạch đinh và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản lu động và các
khoản nợ ngắn hạn là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến mất khả năng thanh toán dẫn
đến phá sản doanh nghiệp. Song do các đặc tính của tài sản lu động củng nh do
sự đa dạng của nó mà việc quản lý tài sản lu động trở nên rất phức tạp đòi hỏi rất
nhiều cố gắng của doanh nghiệp.
2. vai trò của tài sản lu động đối với doanh nghiệp.
Nh ta đã biết trong bất cứ doanh nghiệp nào tài sản lu động cũng là một
phần không thể thiếu trong cơ cấu tài sản của mình. Để tiến hành sản xuất kinh
doanh ngoài tài sản cố định nh: máy móc, thiết bị, nhà xởng.... doanh nghiệp còn
phải bỏ ra một lợng tiền nhất định để mua sắm hàng hoá nguyên nhiên vật liệu...
phục vụ cho quá trình sản xuất. Nh vậy, tài sản lu động là điều kiện đầu tiên để
doanh nghiệp đi vào hoạt động hay nói cách khác tài sản lu động là điều kiện tiên
quyết cho quá trình sản xuất kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào.
Ngoài ra, tài sản lu động còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh
nghiệp đợc tiến hành thờng xuyên liên tục. Do đặc điểm của đối tợng lao động là
giá trị của nó đợc chuyển dịch toàn bộ một lần vào sản phẩm nên trong chu kỳ sản
xuất sau lại phải thờng xuyên mua sắm dự trữ vật t hàng hoá để đảm bảo cho quá