Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Mẫu hợp đồng mẫu điện tử tình trạng không đọc hợp đồng của người tiêu dùng, từ góc độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.39 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

TRẦN NGUYÊN HẠNH

HỢP ĐỒNG MẪU ĐIỆN TỬ- TÌNH TRẠNG
KHÔNG ĐỌC HỢP ĐỒNG CỦA NGƯỜI TIÊU
DÙNG: TỪ GÓC ĐỘ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

TRẦN NGUYÊN HẠNH

HỢP ĐỒNG MẪU ĐIỆN TỬ- TÌNH TRẠNG
KHÔNG ĐỌC HỢP ĐỒNG CỦA NGƯỜI TIÊU

DÙNG: TỪ GÓC ĐỘ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM DUY NGHĨA

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016




LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Trần Nguyên Hạnh, mã số học viên: 7701241069A, là học viên lớp Cao
học Luật LLM 01, Khóa chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế
TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “HỢP ĐỒNG MẪU
ĐIỆN TỬ- TÌNH TRẠNG KHÔNG ĐỌC HỢP ĐỒNG CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG: TỪ
GÓC ĐỘ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG ” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết quả
nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học.
Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác
giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng.
Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện

Trần Nguyên Hạnh


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TÓM TẮT LUẬN VĂN
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG – HỢP ĐỒNG MẪU VÀ HỢP ĐỒNG
MẪU ĐIỆN TỬ........................................................................................................................6
1.1. Những vấn đề về hợp đồng và hợp đồng với bên yếu thế.........................................6
1.1.1. Hợp đồng và nguyên tắc giao kết hợp đồng.............................................................6
1.1.2. Hợp đồng với người tiêu dùng với tư cách là bên yếu thế....................................... 9

1.2. Hợp đồng mẫu và hợp đồng mẫu điện tử..................................................................14
1.2.1. Khái niệm hợp đồng mẫu....................................................................................... 14
1.2.2. Bản chất hợp đồng mẫu trong quan hệ hợp đồng với người tiêu dùng..................16
1.2.3. Các loại hợp đồng mẫu trong giao dịch thương mại điện tử.................................. 17
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC ĐỌC HỢP
ĐỒNG CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG.....................................................................................22
2.1. Thực trạng đọc hợp đồng của người tiêu dùng........................................................22
2.2. Các yếu tố tác động đến việc đọc hợp đồng của người tiêu dùng..........................28
2.2.1. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng không đọc hợp đồng của người tiêu dùng..........28
2.2.2. Mong đợi của người tiêu dùng từ hợp đồng mẫu................................................... 36
2.2.3. Nghĩa vụ công khai hợp đồng của thương nhân.....................................................39
2.3. Quy định về nghĩa vụ đọc hợp đồng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
hợp đồng mẫu.........................................................................................................................41
2.3.1. Nghĩa vụ đọc hợp đồng...........................................................................................41
2.3.2. Quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không đọc hợp đồng....................43
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG KHÔNG ĐỌC HỢP
ĐỒNG CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG.....................................................................................49
3.1. Quy định về công khai thông tin hợp đồng...............................................................49
3.2. Quyền rút lui khỏi hợp đồng.......................................................................................55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLDS 2005


Bộ luật Dân sự 2005

BLDS 2015

Bộ luật Dân sự 2015

Luật BVQLNTD 2010

Luật Bảo vệ Quyền lợi Người tiêu dùng 2010

EULA

End User License Agreement – Thỏa thuận người dùng
cuối

PLSC

Principle of the Law of Software Contracts

TMĐT

Thương mại điện tử


TÓM TẮT LUẬN VĂN
Vấn đề đọc hợp đồng, đặc biệt là hợp đồng mẫu, ít được đặt ra trong hoạt động tiêu
dùng, mà mặc nhiên được hiểu rằng khi giao kết hợp đồng, người tiêu dùng đã đọc hợp
đồng, hay chí ít có cơ hội đọc hợp đồng. Tuy vậy, trong bối cảnh hợp đồng được giao kết
hàng ngày, hàng giờ, dưới nhiều hình thức khác nhau, cùng với sự phát triển bùng nổ của
về công nghệ thông tin thế kỷ 21, dù có thêm nhiều lựa chọn về kênh tiêu dùng, tiếp cận

thêm nhiều loại hình dịch vụ, hàng hóa, các giao dịch tiêu dùng cũng từ đó trở nên phức tạp
hơn, đặc biệt là giao dịch thương mại điện tử. Luận văn, thông qua việc phân tích, đánh giá
làm rõ cơ sở khoa học, lý luận trong pháp luật hợp đồng quốc tế, cụ thể là Mỹ và Châu Âu,
và pháp luật trong nước, cũng như tìm hiểu về tình hình thực tiễn trong giao kết hợp đồng
mẫu, góp phần đưa đến một cái nhìn tổng quát hơn về tình trạng không đọc hợp đồng của
người tiêu dùng từ đó đóng góp những suy nghĩ đầu tiên trong việc hình thành những lý
luận làm nền tảng cho quan hệ hợp đồng hết sức tiềm năng này.
Từ khóa: Đọc hợp đồng; Người tiêu dùng; Thương mại điện tử; Hợp đồng tiêu
dùng; Hợp đồng mẫu; Hợp đồng mẫu điện tử.


Abstract
The contractual reading problem, particularly in standard form contracts, rarely has
been placed in consumer transactions, but implicitly understood that whenever the contract
is entered into, the consumers have read, or at least have an opportunity to read the
consumer contracts. Nevertheless, on the ground where contracts are executed daily, even
hourly, and under variety of forms, together with the explosive growth of information
st

technology in this 21 century, the consumers, though having more options in choosing
purchase channels, or types of services and goods, facing a reality that consumer contracts
have become more and more complex, especially in e-commerce transactions. This Thesis,
by analysing and evaluating, aims to clarify the scientific and theoretical background,
namely in international contract law, i.e. the US and Europe’s; and internal laws of
Vietnam, as well as study on the composing and performance of standard form contracts in
practice. Consequently, the Thesis is expected to provide a more general overview over the
non-reading problem in the consumer contracts which accordingly contributes a very first
thought in the basical theoretical formation for this potential contractual relationship.
Keywords: The reading problem; The consumers; E-Commerce; Consumer
contracs; Standard-form contracts; Electronic standard-form contracts.



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Hợp đồng tiêu dùng có lẽ là loại hợp đồng đầu tiên xuất hiện trên trái đất. Từ nhu

cầu thiết yếu của cuộc sống, những trao đổi hàng hoá diễn ra. Với mô hình đơn sơ ấy, khi
tiền tệ ra đời, các giao dịch vì mục đích tiêu dùng cho đến nay gần như không thay đổi về
hình thức: người mua trả tiền để nhận được hàng hoá mà họ sử dụng cho cuộc sống hàng
ngày của mình mà không cần ký tên lên bất kỳ văn bản nào.
Thế kỷ 20 với máy tính, thế kỉ 21 với Internet, Google, Facebook, hay tương lai là
thực tế ảo, xa hơn nữa là trí tuệ nhân tạo... đang đưa mô hình tồn tại tưởng như vĩnh cửu
này đứng trước một thách thức về thay đổi. Chỉ với thao tác tối giản của click chuột, người
có nhu cầu được dẫn dắt vào những giao dịch mà ngoài tiền, họ sẽ phải cam kết với người
bán, để nhận được thứ mình cần – nhanh chóng hơn nhưng cũng phức tạp hơn.
Ai cũng từng ít nhất một lần nhìn thấy dòng chữ “Bằng cách nhấp vào ô này, bạn
đã đồng ý với những điều khoản/cam kết trên đây”, nhưng có những ai biết về dòng chữ
này sẽ mang đến những gì cho người mua?
Hiện nay chưa có một nghiên cứu xã hội cũng như pháp lý tại Việt Nam, có thể chỉ
ra những vấn đề cần giải quyết cho loại hình “tất yếu” của thời đại này.
Hãy xem xét một khảo sát ở Anh được tiến hành năm 2011 bởi Skandia, một tổ
chức tư vấn đầu tư và nghiên cứu thị trường của Anh, đã chỉ ra rằng, chỉ 7% người Anh đọc
những điều khoản trên mạng khi ký vào hợp đồng mua bán hàng hóa hay sử dụng dịch vụ,
và có khoảng 43% số còn lại cho rằng chữ nhỏ và nội dung quá nhàm chán, khó hiểu. Tuy
nhiên, tỷ lệ người tiêu dùng chịu hậu quả những hợp đồng đó lại gấp ba lần con số những
hợp đồng được đọc. Từ đây có thể thấy rắc rối từ việc không đọc kỹ hợp đồng trước khi

giao kết, đặc biệt trong trường hợp hợp đồng có thể chứa những điều khoản bất lợi cho
chính người tiêu dùng, trong khi họ lại không thể biện luận rằng không biết nó chứa đựng
những điều khoản đó.
Mặc dù hiện nay, pháp luật Việt Nam và các nước đã có những quy định như buộc
người bán hàng phải thực hiện công bố thông tin công khai, không được loại bỏ trách
nhiệm của mình trong hợp đồng hay thậm chí đăng ký hợp đồng mẫu trong một số loại
giao dịch… Tuy vậy, điều này cũng không thúc đẩy người tiêu dùng đọc hợp đồng trước
khi ký hay cải thiện tình trạng người tiêu dùng bị tổn hại từ các hợp đồng tiêu dùng. Từ
đây dẫn đến một vấn đề: Làm sao có thể nói rằng một người thật sự đồng ý với các điều
khoản mà họ không hề biết?
Câu hỏi đã được đưa ra ở trên, là một vấn đề lớn, một thách thức pháp lý đối với cả
các quốc gia phát triển như Anh, Mỹ, Pháp, Đức... và thật sự là một vấn đề dù chưa được


2

quan tâm đúng mức, song mang tính cấp thiết trong một xã hội chưa thực sự phát triển
nhưng ngày càng “hội nhập” trong một “thế giới phẳng” như Việt Nam.
2.
Giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu
2.1.
Giả thuyết nghiên cứu
Những giả thuyết nghiên cứu được kiểm chứng, làm rõ xuyên suốt đề tài bao gồm:
Việc người tiêu dùng không đọc hợp đồng không bị xem là người tiêu dùng từ
bỏ quyền đó, nhưng họ bị ràng buộc bởi những điều khoản mà họ không có hiểu biết và
không nhận thức được.
-

Việc áp dụng hợp đồng mẫu có thể là nguyên nhân chính dẫn đến tâm lý, nhận
thức của người tiêu dùng về việc đọc hợp đồng mẫu là không cần thiết và dần hình thành

tình trạng không đọc hợp đồng.
-

Pháp luật đóng vai trò quan trọng trọng việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
nhưng sự bảo vệ này sẽ mang ý nghĩa tích cực hơn, nếu như những quy định hướng tới
việc tạo điều kiện để người mua có thể đọc và nắm bắt đầy đủ nội dung của các “thoả
thuận” một bên đưa ra này.
-

2.2.

Câu hỏi nghiên cứu

1.

Hợp đồng tiêu dùng là gì và có ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng không đọc

hợp đồng của người tiêu dùng?
2.

Việc một người click chuột để hoàn tất thủ tục mua bán hàng hoá tiêu dùng trên môi

trường thương mại điện tử có đồng nghĩa với việc họ đồng ý với toàn bộ nội dung hợp đồng

không?
3.

Cần có quy định về việc điều chỉnh hành vi của người bán để đảm bảo quyền lợi

cho người mua hay không?

3.
3.1.

Tình hình nghiên cứu
Về vấn đề hợp đồng mẫu
Có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật hợp đồng nói chung, trong đó có đề cập

đến các nguyên tắc giao kết hợp đồng, hợp đồng mẫu, các học thuyết áp dụng trong hợp
th

đồng thông thường và hợp đồng với bên yếu thế như: The Law of Contract, 5 ed của
Janet O’Sullivan và Johnathan Hilliard; Analyzing Unconscionability Problems của Joh A.
Spanogle; Bargaining Power in Contract Theory của Daniel D. Barnhizer; Chế định hợp
đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam của Nguyễn Ngọc Khánh; Protection of the Weaker
Party in European Contract Law: Standardized and Individual Inferiority in Multi-Level
Private Law của Hannes Rosler…


3

3.2.

Về vấn đề không đọc hợp đồng của người tiêu dùng

Việc nghiên cứu vấn đề không đọc hợp đồng của người tiêu dùng được quan tâm và
khai thác bởi các nhà khoa học nước ngoài. Cụ thể, trong công trình nghiên cứu The NoReading Problem in Consumer Contract Law của hai tác giả Ian Ayres và Alan Schwartz,
vấn đề này được đề cập dưới góc độ tìm hiểu nhu cầu, mong đợi của người tiêu dùng, phân
tích các học thuyết pháp lý để từ đó đưa ra các đề xuất để bảo vệ người tiêu dùng trước
tình trạng các hợp đồng mẫu không đạt được mong đợi của người tiêu dùng. Bài viết chưa
đề cập đến các khía cạnh khác tác động đến tình trạng không đọc hợp đồng như vấn đề

công khai thông tin của người bán hay tác động của hợp đồng mẫu. Tuy vậy, bài viết này là
tiền đề và là một trong những nguồn tài liệu tham khảo bổ trợ tích cực trong suốt quá trình
thực hiện Luận văn.
Bên cạnh đó còn một số bài báo khoa học có liên quan đến khía cạnh pháp lý của
vấn đề không đọc hợp đồng như One-Sided Contracts in Competitive Consumer Markets
của Lucian A. Bebchuk and Richard A. Posner; Your Terms or Mine? The Duty to Read the
Fine Print in Contracts của Avery Katz; Does Anyone Read the Fine Print? Consumer
Attention to Standard Form Contracts của Yannis Bakos hay các bài viết của giáo sư
Robert A. Hillman: Standard-Form Contracting in the Electronic Age; Online Consumer
Standard-Form Contracting Practices: A Survey and Discussion of Legal Implications …
Tại Việt Nam, trong khi đó, vấn đề không đọc hợp đồng chưa được đánh giá đúng
mức và chưa từng xuất hiện trong bất cứ bài viết học thuật hay các công trình nghiên cứu
khoa học nào. Có chăng, vấn đề này chỉ được nhắc đến như một hậu quả của việc áp dụng
hợp đồng mẫu trong tiêu dùng hay khi phân tích về hợp đồng với bên yếu thế, như trong
bài viết của Đỗ Giang Nam, “Bình luận về các quy định liên quan đến hợp đồng theo mẫu
và điều kiện giao dịch chung trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)” hay bài viết đăng
trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luât: “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết và
thực hiện hợp đồng gia nhập”.
3.3.

Về vấn đề bảo vệ người tiêu dùng
Vấn đề bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt trong giao dịch điện tử chưa được đề cập

nhiều trong các nghiên cứu, công trình mà phàn lớn chỉ được công bố dưới các bài viết được
đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành. Đơn cử như một số học giả nước ngoài như
Florencia Marotta-Wurgler (Does Contract Disclosure Matter?), Omri Ben-Shahar (The Right
to Withdraw in Contract Law) hay Macaulay (Freedom From Contract: Solution in


4


Search of a Problem?) có cách tiếp cận vấn đề bảo vệ người tiêu dùng khác, đó là thông
qua các quy định, pháp luật gián tiếp trao cho người tiêu quyền để tự bảo vệ mình.
Nhìn chung các công trình khoa học, bài viết học thuật trên là tài liệu vô cùng quan
trọng giúp tác giả có thêm thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu Luận văn. Tuy vậy, có thể
khẳng định rằng, chưa cócông trinh ̀ nào nghiên cứu, đánh giámột cách có hệ thống, toàn
diện về vấn đề không đọc hợp đồng mẫu của người tiêu dùng đểtừ đóđề xuất một số giải
pháp giúp cải thiện tình trạng này tại nước ta hiện nay.
4.
4.1.

Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Từ góc nhìn pháp luật hợp đồng, thông qua những nghiên cứu sơ khởi về một loại

hình giao kết mới nhưng cũng không còn lạ lẫm trong xã hội hiện nay, đề tài mong muốn
đóng góp những suy nghĩ đầu tiên trong việc hình thành những lý luận làm nền tảng cho
quan hệ hợp đồng hết sức tiềm năng này.
Trong tương lai không xa, khi con người ngày càng chìm vào thế giới của công nghệ,
người tiêu dùng sẽ cần đến pháp luật – như bản chất cơ bản nhất của nó – để bảo vệ quyền lợi
của mình, trong xu hướng không thể cưỡng lại được của thời đại, những giao kết sẽ được bảo
vệ đúng với bản chất của nó – một quan hệ nghĩa vụ giữa người bán và người mua.

Bằng những lý luận cơ bản, việc tạo ra một môi trường phát triển trong tương lai cho
loại hình này, dựa trên luật định là điều hết sức cần thiết. Và chỉ khi có pháp luật, người mua
với những thiệt thòi về thông tin và nhu cầu dựa trên chi phí cơ hội, mới được tham gia vào
một quan hệ giao dịch “trong sáng” như vốn dĩ bản chất hợp đồng về tiêu dùng vẫn có.

4.2.


Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về các vấn đề lý luận liên quan đến hợp đồng mẫu và hợp

đồng mẫu điện tử được sử dụng trong lĩnh tiêu dùng, cũng như tác động của hợp đồng mẫu
đến nhận thức, hành vi của người tiêu dùng; các học thuyết và quy định pháp luật về hợp
đồng nói chung và về người tiêu dùng nói riêng.
4.3.

Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là một vấn đề rộng. Mặt khác, hợp

đồng mẫu dường như đang phát triển và phân nhánh với tốc độ không chỉ quy định mà cả lý
luận pháp lý cũng không thể theo kịp. Do đó nội dung của Luận văn sẽ chủ yếu phân tích và đề
cập đến dạng hợp đồng mẫu điện tử khi mua hàng hóa, sử dụng phần mềm hoặc tải các ứng
dụng trên mạng điện tử (hay còn gọi là các Thỏa thuận cấp phép người dùng cuối


5

- EULA) mà không phân tích sâu về các hợp đồng mẫu được điều chỉnh riêng như hợp

đồng điện, nước, bảo hiểm.
Về mặt thời gian, cùng với việc nghiên cứu các học thuyết và các quy định của
pháp luật, đề tài cũng dành thời gian để nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực
hợp đồng mẫu và biện pháp bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt trong khoảng thời gian năm
năm trở lại đây, khi mà công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống và
việc sử dụng các phần mềm, ứng dụng trên mạng trở thành một nhu cầu thiết yếu, nhất là
đối với tầng lớp trí thức, sinh viên, nhân viên văn phòng ở Việt Nam.
Các phương pháp tiến hành nghiên cứu, khung lý thuyết


5.
-

Phương pháp nghiên cứu tại bàn: thu thập các thông tin, bài viết, tài liệu, số liệu về

hoạt động thương mại điện tử liên quan đến tình trạng không đọc hợp đồng tiêu dùng.
-

Phương pháp phân tích tổng hợp, đánh giá.

-

Phương pháp so sánh pháp luật chủ yếu là pháp luật Mỹ, Châu Âu để làm rõ quan

điểm lập pháp về tình trạng không đọc hợp đồng và về việc bảo vệ người tiêu dùng trước
ảnh hưởng của tình trạng không đọc hợp đồng.
6.

Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Nghiên cứu đưa ra những suy nghĩ sơ khởi nhất qua quá trình đánh giá tác động của
vấn đề cũng như các nghiên cứu của các học giả trên thế giới và quy định pháp luật của các
nước phát triển về vấn đề này. Từ đó làm nền tảng cho việc phát triển lý luận pháp lý cho
các nghiên cứu chuyên sâu hơn về vấn đề đã nêu.
Góp phần tạo lập góc nhìn pháp lý về thực tiễn hợp đồng tiêu dùng trong môi
trường thương mại điện tử, từ đó giúp đưa ra những quy định mang tính giải pháp cho các
vấn đề gặp phải.


6


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG – HỢP ĐỒNG MẪU VÀ HỢP
ĐỒNG MẪU ĐIỆN TỬ
Chế định về hợp đồng không là một vấn đề xa lạ hiện nay, khi hợp đồng được giao
kết hàng ngày, hàng giờ, dưới nhiều hình thức khác nhau và trong nhiều lĩnh vực khác
nhau. Không những vậy, hợp đồng còn là công cụ chính yếu trong việc xác lập quan hệ
giữa các cá nhân, tổ chức với nhau, chẳng hạn như giữa người tiêu dùng với nhà sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Tuy vậy, hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, vốn là một chủ thể đặc biệt, không
chỉ mang bản chất của một hợp đồng thông thường, mà còn chứa đựng những đặc trưng
của một hợp đồng với bên yếu thế. Từ đó khiến cho việc điều chỉnh loại hợp đồng này cần
có những khác biệt nhất định so với các hợp đồng thông thường.
Trước khi đi đến phân tích nội dung chính về “tình trạng không đọc hợp đồng của
người tiêu dùng”, chúng ta cần có cái nhìn tổng quan về hợp đồng và hợp đồng với bên yếu
thế, cũng như tìm hiểu về hợp đồng mẫu, loại hợp đồng chủ yếu áp dụng trong giao dịch
với người tiêu dùng. Từ đó có thể rút ra những đặc trưng riêng biệt trong giao kết hợp đồng
với bên yếu thế nói chung và người tiêu dùng nói riêng so với nguyên tắc giao kết hợp
đồng thông thường, đồng thời hiểu rõ hơn một số loại hợp đồng mẫu điện tử.
1.1.

Những vấn đề về hợp đồng và hợp đồng với bên yếu thế
1.1.1. Hợp đồng và nguyên tắc giao kết hợp đồng
Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con người thực
1

hiện các giao dịch, trao đổi để phục vụ nhu cầu chính đáng của mình . Trong quá trình phát
triển của mình, hợp đồng xuất hiện dưới nhiều tên gọi, và nhiều loại hình khác nhau: từ
hợp đồng mua bán, hợp đồng vay mượn, hợp đồng ủy thác... Từ đây đưa đến câu hỏi, vậy
hợp đồng là gì?
Hiện nay không có một khái niệm thống nhất về hợp đồng mà tùy thuộc vào quan

2

điểm, góc nhìn, hệ thống luật mà cách hiểu về hợp đồng có thể khác nhau . Theo các quốc gia
thuộc hệ thống Civil Law, hợp đồng là tổng hòa của ba yếu tố (i) kết quả của sự gặp gỡ ý chí;
(ii) sự ràng buộc về nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng; và (iii) sự tự do ý chí giữa

1

Lê Minh Hùng, 2010. Hiệu lực của hợp đồng, Luận văn tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

2Xem Chú thích số 1, tr. 10


7

3

các bên giao kết. Các quốc gia theo hệ thống Common Law lại có cách hiểu về hợp đồng
4

đơn giản là một sự thống nhất ý chí của các bên trong hợp đồng .
Trong khi đó, pháp luật Việt Nam đưa ra khái niệm hợp đồng theo Điều 385 Bộ luật
Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) như sau: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”.
Có thể thấy rằng, khái niệm hợp đồng theo BLDS 2015 mang tính khái quát, hợp lý và
thuyết phục bởi trong đó đã bao gồm đầy đủ các đặc trưng của hợp đồng, thể hiện được vai trò,
bản chất của hợp đồng. Đặc biệt, khái niệm này đã khắc phục được bất cập trong khái niệm cũ
về “hợp đồng dân sự” theo Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005). Thật vậy, Điều
388 BLDS 2005 quy định khái niệm hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận


giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Trong đó

cụm từ “dân sự” đã gây nên nhiều tranh cãi về phạm vi điều chỉnh của BLDS đối với các
loại hợp đồng khác và gây những hiểu nhầm không cần thiết về đối tượng hợp đồng.
Nhìn chung, hợp đồng có bản chất là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, tổ chức nhằm
tạo lập hiệu lực pháp lý, tức là tạo ra sự ràng buộc pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
giữa các bên.

5

Có thể thấy rằng tất cả các hợp đồng đều xuất phát từ sự thỏa thuận. Tuy nhiên,
6

không phải mọi sự thỏa thuận của các bên đều là hợp đồng . Để một thỏa thuận được xem
là hợp đồng khi thỏa thuận đó phù hợp với ý chí các bên và để hợp đồng đó có hiệu lực thi
hành, thỏa thuận giữa các bên phải tuân theo theo những nguyên tắc sau:
(i)

Nguyên tắc tự do ý chí

Hợp đồng theo cách hiểu thông thường là một loại thỏa thuận mà đặc điểm chung của
chúng là sự thống nhất ý chí. Do vậy, ý chí có vai trò vô cùng quan trọng và là yếu tố cơ bản
của hợp đồng. Ở bất kỳ hệ thống luật nào hay pháp luật hợp đồng của quốc gia nào, thì

3 Nguyễn Ngọc Khánh, 2007. Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Tư pháp,
tr. 29

4 Giuditta Cordero Moss, 2007. International Contracts between Common Law and Civil Law: Is Non-state
Law to Be Preferred? The Difficulty of Interpreting Legal Standards Such as Good Faith. Global Jurist, Vol. 7
5Hoàng Thế Liên (Cb), 1997. Bình luận khoa học Một số vấn đề cơ bản của BLDS (1995), Hà Nội: Nhà xuất

bản CTQG, tr. 162.
6 Phạm Hữu Nghị, 2005. Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) với vấn đề cải cách pháp luật hợp đồng. Nhà nước
và Pháp luật, số 4 (204), tr. 22-27


8

7

nguyên tắc tự do ý chí luôn được thừa nhận như nền tảng của pháp luật hợp đồng . Tự do ý
chí được thể hiện ở nhiều khía cạnh như: tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng nhưng không
trái pháp luật, tự do giao kết hợp đồng, tự do lựa chọn chủ thể giao kết...
Nguyên tắc tự do ý chí có nguồn gốc từ học thuyết tự do bắt nguồn từ tại Pháp, và
được phát triển tại các quốc gia theo hệ thống Common Law vào cuối thế kỷ XIX và trở
8

thành học thuyết trung tâm của luật hợp đồng cổ điển .
Tuy vậy, học thuyết tự do cũng có những giới hạn nhất định. Khi các mối quan hệ
xã hội ngày càng trở nên phức tạp, vị thế của các bên trong hợp đồng cũng không còn hoàn
toàn ngang bằng chẳng hạn như hợp đồng lao động, hợp đồng bảo hiểm hay hợp đồng thế
chấp thì nguyên tắc tự do ý chí, tự do giao kết hợp đồng không thể điều chỉnh một cách
hợp lý được nữa. Từ đó, buộc Nhà nước phải can thiệp và hạn chế tự do ý chí của hợp đồng
trong một số trường hợp để bảo vệ những lợi ích lớn hơn.
(ii)

Nguyên tắc thiện chí, trung thực

Cũng như nguyên tắc tự do ý chí, nguyên tắc thiện chí, trung thực là nguyên tắc cơ
bản và xuyên suốt quá trình giao kết hợp đồng, thậm chí tồn tại trước khi hợp đồng được
9


xác lập . Thiện chí, trung thực là những thuật ngữ trừu tượng và được xác định tùy theo
từng trường hợp. Nguyên tắc này được ghi nhận trong BLDS 2005 và mới đây được thể
hiện lại trong BLDS 2015 của Việt Nam cho thấy vai trò và vị trí của nguyên tắc trong
pháp luật về hợp đồng quốc tế nói chung và của Việt Nam nói riêng.

10

“Thiện chí” là ý định tốt, hoặc động cơ không bao gồm vụ lợi hay mong muốn lừa
11

dối . Còn “trung thực” được hiểu là tôn trọng sự thật, ngay thẳng, thật thà. Tuy vậy, trong hệ
thống pháp luật Common Law, từ được dùng để chỉ chung cho nguyên tắc thiện chí, trung thực
là “good faith”. Trên thực tế, một trường hợp có thể vừa thuộc phạm trù thiện chí và

7 Ngô Huy Cương, 2008. Tự do ý chí và sự tiếp nhận tự do ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay. Nghiên
cứu Lập pháp, số 02, tr. 11-20
8Edwards, C., 2009. Freedom of Contract and Fundamental Fairness for Individual Parties: The Tug of War
Continues. UMKC Law Review, Volume 77:3
9 Chẳng hạn theo Nguyên tắc Luật Hợp đồng Châu Âu (Principles of European Contract Law - PECL), nguyên
tắc thiện chí được xem là một yếu tố ràng buộc trách nhiệm của các bên kể cả trong giai đoạn tiền hợp đồng. Điều 6.1
PECL quy định: “Mỗi bên được tự do thỏa thuận về việc giao kết hợp đồng mà không bị ràng buộc bất kỳ trách nhiệm
nào nếu hợp đồng không được giao kết, trừ khi hành vi của bên đó là không thiện chí”.

10
11

Điều 6 BLDS 2005 và Điều 3 BLDS 2015
/>


9

12

vừa thuộc phạm trù của trung thực như vấn đề thông tin của hợp đồng . Nguyên tắc thiện
chí, trung thực cũng chỉ đúng nhất khi đặt trong môi trường hợp đồng thông thường, khi
các bên có vị thế tương đương nhau và có sự cân bằng về lợi ích.
Định nghĩa về hợp đồng theo lý thuyết cổ điển, mặc dù có thể áp dụng để giải thích
hợp lý trong hầu hết mọi trường hợp, và theo một cách chung nhất, vẫn được xem là một
trong những cách hiểu “khung” trong pháp luật về hợp đồng. Nhưng với sự phát triển
nhanh chóng và phức tạp của các mối quan hệ xã hội, những nguyên tắc trên không thể bao
quát được hết các lĩnh vực mà thực tiễn đang xảy ra.
Và thực tế loại hợp đồng không có sự tự do thỏa thuận và sự trung thực vẫn còn là
dấu hỏi đã, đang và sẽ luôn tồn tại, đó là hợp đồng với người tiêu dùng mà được làm rõ
trong Mục 1.1.2 dưới đây.
Khái niệm hợp đồng và những nguyên tắc cơ bản giao kết hợp đồng là chế định
trung tâm, làm cơ sở cho việc hình thành cũng như xác định hiệu lực hợp đồng. Tuy vậy,
trong những giao dịch dân sự đặc biệt như hợp đồng giao kết với người tiêu dùng, cần thiết
phải có những chế định cụ thể hơn, điều chỉnh bao quát hơn bởi tính chất khác biệt của chủ
thể hợp đồng. Phần tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu về hợp đồng với bên yếu thế để có cái
nhìn rõ nét hơn về vị trí của người tiêu dùng trong hợp đồng.
1.1.2. Hợp đồng với người tiêu dùng với tư cách là bên yếu thế
Người tiêu dùng, theo một nghĩa chung nhất là “người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ
nhằm mục đích phục vụ cho các nhu cầu của chính bản thân, gia đình hoặc tổ chức của mình,
không nhằm mục đích lợi nhuận. Hàng hoá, dịch vụ được mua cho sử dụng cuối cùng bởi các
13

cá nhân, được coi là “người sử dụng cuối cùng”, “người tiêu dùng cuối cùng” .

Trong mối quan hệ với thương nhân, người tiêu dùng rõ ràng ở vị trí bất lợi hơn rất

nhiều, bất lợi về khả năng thương lượng, về thông tin hợp đồng... Hàng ngày, người tiêu
dùng tham gia giao kết vô số hợp đồng, từ những giao dịch phục vụ sinh hoạt thiết yếu như
điện, nước, internet hay phục vụ nhu cầu làm việc, học tập hay vui chơi của mỗi người như

12
Lê Trường Sơn, 2015. Giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật Việt Nam. Tóm tắt luận án tiến sĩ
luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.7
13
Lò Thùy Linh, 2010. Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia
nhập. Tóm tắt Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 3


10

mua sắm các thiết bị, các ứng dụng điện tử. Các giao dịch trên đều được gọi chung là giao
dịch tiêu dùng. Nhưng liệu người tiêu dùng có nhận thức được vị trí thế yếu của mình?
Để có thể phân tích và làm rõ về hợp đồng với người tiêu dùng, trước tiên cần tìm
hiểu về bản chất hợp đồng có một bên yếu thế.
Khái niệm về hợp đồng có một bên yếu thế chưa được ghi nhận trong pháp luật hợp
đồng quốc tế hay quốc gia, pháp luật về hợp đồng chỉ ghi nhận về việc những điều khoản
bất lợi áp dụng cho một bên của hợp đồng mà khiến quan hệ hợp đồng của các bên trở nên
không cân bằng, và xảy ra tình trạng một bên khai thác bên còn lại để đạt được lợi ích lớn
hơn nhờ việc lợi dụng những điểm yếu của bên còn lại. Bên bị áp dụng những điều khoản
14

bất lợi hơn đó được gọi là “bên yếu thế” .
Tuy vậy, từ tên gọi, có thể thấy rằng bản chất của loại hợp đồng này là có sự bất cân
xứng ở một khía cạnh nào đó trong hợp đồng. Sự bất cân xứng này có thể khác nhau tùy
từng trường hợp, không chỉ là về quyền, nghĩa vụ hay về năng lực hành vi, mà còn về
thông tin, chẳng hạn về các mặt hàng trên thị trường, hay về thông tin cổ phiếu; và cũng có

thể là bất cân xứng về năng lực đàm phán

15

như trong các hợp đồng soạn theo mẫu.v.v..

Vậy hợp đồng với bên yếu thế khác biệt như thế nào với hợp đồng thông thường và
tại sao hợp đồng tiêu dùng lại là hợp đồng với bên yếu thế?
Quay lại lý thuyết cổ điển về hợp đồng, có ba vấn đề liên quan:

16

Một là, hợp đồng là

một thương lượng, tức một thỏa thuận “có đi có lại”, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng là đối ứng với nhau mà không phải là trao đổi một lời hứa hẹn. Thứ hai, hợp đồng, theo
một cách cơ bản, là kết quả thỏa thuận giữa các bên trong giao dịch và qua đó các bên công
nhận các quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng và thể hiện ý định của mình về việc chịu
17

sự ràng buộc về pháp lý . Thứ ba, tự do giao kết hợp đồng, đây là một vấn đề rất quan trọng
khi giao kết hợp đồng. Với mục đích và ý nghĩa tôn trọng sự thỏa thuận của các

14
Hannes, R., 2010. Protection of the Weaker Party in European Contract Law: Standardized and
Individual Inferiority in Multi-Level Private Law. European Review of Private Law, Volume 18, p. 729.
15
Barnhizer, D.D., 2005. Inequality in Bargaining Power, University of Colombia Law Review,
Volume 76, p.
199-223


16

O’Sullivan, Janet; Hilliard, Jonathan, 2012. The Law of Contract. fifth edition. Oxford: Oxford
University

Press, p. 2

17

/>

11

bên, mọi người đều có quyền tự do quyết định có giao kết hợp đồng không, giao kết với ai,
18

quyền và nghĩa vụ như thế nào .
Đối chiếu với hợp đồng tiêu dùng, có thể thấy rằng, (i) yếu tố đầu tiên không tồn tại
trong hợp đồng tiêu dùng, đặc biệt là những hợp đồng theo mẫu như hợp đồng bảo hiểm,
hay đặt vé máy bay, người tiêu dùng không có khả năng thương lượng với thương nhân; (ii)
tương tự, yếu tố thứ hai cũng không thỏa bởi các quyền và nghĩa vụ hợp đồng tiêu dùng
không được tạo nên bởi sự thỏa thuận ý chí, mà dựa trên các điều khoản soạn sẵn do
thương nhân đưa ra; và (iii) yếu tố tự do ý chí trong quan hệ hợp đồng bị hạn chế trong hợp
đồng với người tiêu dùng. Cụ thể, do thương nhân cung cấp một hoặc một số hàng hóa,
dịch vụ cụ thể nên thương nhân không thể lựa chọn chủ thể giao kết nào khác ngoài người
tiêu dùng. Ngược lại, người tiêu dùng lại bị giới hạn quyền tự do thỏa thuận về nội dung
hợp đồng, dù trong đó có thể chứa đựng những điều khoản bất lợi hơn cho mình.
Từ đây có thể thấy đối với hợp đồng với bên yếu thế như hợp đồng tiêu dùng, việc
giải thích và áp dụng các nguyên tắc truyền thống như khi áp dụng với hợp đồng thông

thường sẽ làm cho người tiêu dùng, vốn là bên yếu thế của hợp đồng bị bất lợi. Chính vì
vậy cần phải có vận dụng các nguyên tắc riêng biệt hơn để có sự điều chỉnh phù hợp hơn.
Khác với quan niệm truyền thống, hợp đồng không còn là một ràng buộc bất biến,
mà hiệu lực, nội dung của hợp đồng cũng có thể thay đổi để bảo vệ sự công bằng về lợi ích
19

của các bên .
Từ đây đặt ra vấn đề khi đề cập đến hợp đồng với bên yếu thế là làm sao để bảo vệ
bên yếu thế trong hợp đồng trước những điều khoản bất lợi đưa ra bởi bên còn lại.
Theo pháp luật hệ thống Common Law, một trong những học thuyết được áp dụng để
bảo vệ bên yếu thế trong hợp đồng, đó là học thuyết về giao dịch không cân bằng
(unconscionability doctrine). Đây là tiền đề và cơ sở quan trọng nhất để điều chỉnh hợp đồng
chứa đựng những điều khoản bất lợi cho một bên, hay còn gọi là hợp đồng có một bên yếu thế
mà trong đó, các nguyên tắc của một hợp đồng thông thường không thể được áp dụng.
Theo đó, một giao dịch nếu hội đủ bốn yếu tố của một giao dịch không công bằng
(unconscionable bargains) sẽ có thể bị tuyên hủy bao gồm: (i) bên yếu thế đang ở trong một

18
19Việt

Xem Chú thích số 7, tr.13
Phạm Duy Nghĩa, 2003. Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật hợp đồng

Nam. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 05, tr.39.


12

tình trạng bất lợi nghiêm trọng vì một hay một số điểm yếu hoặc hạn chế; (ii) bên còn lại
có hành vi trục lợi do biết được điểm yếu này của bên yếu thế, (iii) các điều khoản trong

hợp đồng rõ ràng là không công bằng hoặc mang tính áp bức; và (iv) bên yếu thế không
20

nhận được sự tư vấn pháp lý độc lập .
Trong đó, yếu tố (i) và (ii) là điều kiện cần để giúp xác định tính bất cân xứng trong
giao dịch, còn yếu tố (iii) và (iv) đóng vai trò như điều kiện đủ để chế tài hủy hợp đồng có
thể được áp dụng.
Học thuyết về giao dịch không công bằng đã được pháp điển hóa trong Bộ luật
Thương mại Thống nhất - Uniform Commercial Code (UCC) tại Điều 2-302, theo đó tòa
án được quyền từ chối cho thi hành những điều khoản hay những hợp đồng bất công cho
một bên. Từ đây, học thuyết này được biết đến rộng rãi hơn và được áp dụng như một công
21

cụ để giải quyết các vấn đề mà nguyên tắc hợp đồng truyền thống còn bỏ sót .
Theo pháp luật Việt Nam, một quốc gia theo hệ thống Civil Law, Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng 2010 (Luật BVQLNTD 2010) Việt Nam có quy định tương tự
học thuyết về giao dịch không cân bằng. Cụ thể, theo Điều 16 Luật BVQLNTD 2010 thì
những điều khoản gây bất lợi nghiêm trọng cho người tiêu dùng như loại trừ trách nhiệm
của thương nhân, giới hạn quyền của người tiêu dùng… sẽ không có hiệu lực. Quy định
22

này cũng xuất hiện trong Luật Bảo vệ quyền và lợi ích người tiêu dùng Trung Quốc .
Bên cạnh việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu, bên yếu thế trong hợp đồng còn có thể
được bảo vệ thông qua việc diễn giải hợp đồng theo hướng có lợi cho bên yếu thế (contra
proferentem). Đây là một nguyên tắc thường gặp, không chỉ trong hợp đồng với bên yếu
thế, mà còn trong các hợp đồng thông thường. Theo đó, khi hợp đồng có chứa điều khoản
với nội dung không rõ ràng, thì điều khoản sẽ được ưu tiên giải thích theo hướng ngược lại
23

với lợi ích của bên soạn thảo điều khoản .


20
21

Xem Chú thích số 16, p.292-293.

Spanogle, J. A., 1969. Analyzing Unconscionability Problems. University of Pennsylvania Law
Review, Volume 117, p. 931

22
Điều 24 Luật Bảo vệ quyền và lợi ích người tiêu dùng Trung Quốc quy định những hợp đồng mẫu, thông
báo, hay tuyên bố nếu chứa đựng các quy định không công bằng hoặc không phù hợp với người tiêu dùng hoặc vi phạm quyền
lợi của người tiêu dùng sẽ bị xem là vô hiệu.
23

Xem Chú thích số 1, tr. 194


13

Nguyên tắc này cũng được đề cập theo pháp luật hợp đồng Việt Nam, cụ thể việc
giải thích hợp đồng theo hướng có lợi cho bên yếu thế trong trường hợp bên mạnh thế đưa
24

vào hợp đồng nội dung bất lợi .
Có thế thấy rằng, pháp luật Việt Nam cũng rất tiệm cận với pháp luật thế giới về
việc bảo vệ bên yếu thế trong hợp đồng, đặc biệt là người tiêu dùng. Tuy vậy, việc áp dụng
trên thực tế vẫn gặp phải rất nhiều bất cập.
Và một vấn đề khi áp dụng các điều khoản này đó là khái niệm quá mơ hồ. Không
Tòa án hay luật sư, kể cả người soạn hợp đồng có thể chắc chắn về việc học thuyết trên

25

được áp dụng như thế nào . Chính vì vậy, Tòa án, tùy từng trường hợp và dựa trên những
án lệ trước đây, sẽ quyết định các tiêu chuẩn phù hợp.
Một học thuyết khác cũng được sử dụng để bảo vệ bên yếu thế theo thông luật đó là
học thuyết về khó khăn trở ngại (hardship). Hardship được hiểu là trong những trường hợp
khi xảy ra làm thay đổi một cách căn bản tính cân bằng của hợp đồng thì bên bị thiệt hại,
tức bên yếu thế, có quyền yêu cầu đàm phán lại hợp đồng hoặc yêu cầu tòa án chấm dứt
26

hợp đồng nếu hai bên không tìm được tiếng nói chung .
Nhìn chung, pháp luật về hợp đồng có sự bảo vệ nhất định đối với người tiêu dùng
với tư cách là một bên yếu thế trong hợp đồng với nhà sản xuất, người cung cấp hàng hóa/
dịch vụ. Mặc dù các học thuyết trên là nhằm bảo vệ bên yếu thế trước những điều khoản
bất lợi trong hợp đồng, nhưng việc bảo vệ này chỉ theo hướng thụ động, tức không bên yếu
thế vẫn không thể tự bảo vệ mình mà khi có tranh chấp, Tòa án sẽ quyết định như thế nào
là công bằng cho bên yếu thế nhất.
Theo giả thuyết đề tài rằng việc không đọc hợp đồng sẽ có thể khiến người tiêu dùng
gánh chịu những hậu quả pháp lý không mong muốn, nhưng không phải trường hợp nào người
tiêu dùng cũng có thể đem vụ việc đến Tòa án, cũng có thể áp dụng unconscionability doctrine
hay giải thích theo hướng có lợi để được bảo vệ. Tuy vậy, đây vẫn là tiền đề quan trọng để giúp
người tiêu dùng thoát khỏi những hợp đồng không mong muốn hay những bất lợi không lường
trước được, vốn là hậu quả của việc không đọc hợp đồng.

24
25

Khoản 8 Điều 409 BLDS 2005 và được giữ nguyên tại Khoản 6 Điều 404 BLDS 2015

Marrow, P. B., 2000. Contractual Unconscionability: Identifying and Understanding Its Potential

Elements. Journal of the New York State Bar Association, Volume 72, p. 18

26
Lê Minh Hùng, 2009. Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi (Hardship) trong pháp luật
nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam. Nghiên cứu Lập pháp, số 6, tháng 3, tr. 41 - 51


14

Một trong những yếu tố chính khiến người tiêu dùng rơi vào thế yếu khi giao kết
với thương nhân, đó là việc không thể thương lượng. Yếu tố này xuất phát từ việc hợp
đồng áp dụng cho người tiêu dùng là hợp đồng mẫu. Từ đây đưa đến vấn đề cần thiết phải
tìm hiểu về hợp đồng mẫu và vai trò của chúng trong quan hệ tiêu dùng.
1.2.

Hợp đồng mẫu và hợp đồng mẫu điện tử
Với sự phát triển của công nghệ thông tin, ngày càng nhiều giao dịch tiêu dùng

được thực hiện thông qua mạng Internet. Theo Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam 2015
do Bộ Công thương phát hành định kỳ, Việt Nam là một trong những thị trường tiềm năng
phát tiển thương mại hàng đầu Đông Nam Á.
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải cũng từng nhận định về sự phát triển của công
nghệ thông tin: “Phi tin bất phú”

27

. Quả thật, thương mại điện tử (TMĐT) đang dần chiếm

lĩnh và cho thấy sức ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của người tiêu dùng, các hoạt
động tiêu dùng trên Internet cũng đa dạng, biến hóa không ngừng, việc bảo vệ người tiêu

dùng cũng vì thế mà trở nên khó khăn hơn. Từ đây đặt ra vấn đề làm sao để bảo vệ người
tiêu dùng trước những giao dịch TMĐT như hiện nay. Nhưng trước tiên, chúng ta cần tìm
hiểu hợp đồng trong giao dịch TMĐT được hiểu như thế nào, phát triển ra sao.
1.2.1. Khái niệm hợp đồng mẫu
Nếu như hợp đồng thông thường được tạo lập trên cơ sở thương lượng, thống nhất
thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, thì hợp đồng mẫu lại đưa đến một cách hiểu hoàn
toàn khác. Trong lĩnh vực tiêu dùng, hợp đồng không được giao kết bằng phương thức thỏa
thuận thông thường, mà để giảm bớt thời gian giao dịch, người bán, các công ty lớn chuyên
cung cấp hàng hóa, dịch vụ thường giao kết với người tiêu dùng bằng các loại hợp đồng
được soạn sẵn và được áp dụng hàng loạt. Hợp đồng theo mẫu có nhiều tên gọi khác nhau
cũng như tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau.
Hợp đồng theo mẫu là “hợp đồng được soạn thảo bởi một bên trong hợp đồng (thường
là người bán với năng lực đàm phán cao hơn) và được ký bởi bên yếu thế hơn (thường là
người tiêu dùng có nhu cầu về hàng hóa hay dịch vụ) mà chịu ràng buộc bởi hợp

27
Chia sẻ của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại Hội nghị “Triển khai Nghị quyết Trung ương 4
khóa XI về phát triển hạ tầng thông tin: Xuân Bách, 2013. Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải: “Phi tin bất phú”
< [truy cập ngày 07/10/2016]


15

đồng và do đó không có hoặc có rất ít khả năng để thỏa thuận về các điều khoản trong hợp
28

đồng” .
Một số quốc gia gọi tên loại hợp đồng này là hợp đồng mẫu (standard form contract)
được hiểu là hợp đồng soạn sẵn và được áp dụng cho nhiều đối tượng và không thể thương
lượng. Theo đó, yếu tố hình thức được chú trọng, tức hợp đồng được soạn sẵn theo khuôn mẫu,

quy định những điều khoản và điều kiện nhất định và hướng đến một nhóm đối tượng áp dụng
cụ thể mà không phân biệt nhân thân, giới tính hay địa vị xã hội

29

, chẳng hạn như người mua

hàng điện tử, người sử dụng dịch vụ chuyển nhà, hợp đồng tín chấp…

Trong khi đó ở một số quốc gia khác như Mỹ, Canada lại dựa trên yếu tố phương
thức giao kết, loại hợp đồng này được gọi dưới các tên như hợp đồng gia nhập (adhesion
contract), tức hợp đồng do một bên soạn thảo và bên còn lại chỉ có thể lựa chọn đồng ý
hoặc không đồng ý, ký hoặc không ký mà không được thương lượng về bất kỳ điều khoản
nào của hợp đồng; hay hợp đồng hàng loạt (boilerplate contract) được gọi theo tính ứng
dụng của hợp đồng trong đời sống.
Dựa trên định nghĩa về hợp đồng mẫu cũng như phân tích của các một số học giả,
có thể khái quát những đặc điểm của hợp đồng mẫu như sau:
-

Hợp đồng không được tạo lập trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận, thống nhất

mà các điều kiện, điều khoản của hợp đồng mẫu được đưa ra bởi một bên trong hợp đồng,
cụ thể là trong lĩnh vực tiêu dùng là người bán, nhà sản xuất với tư cách là bên mạnh thế
hơn.
-

Nội dung của hợp đồng mẫu thường chi tiết, đôi lúc dài dòng để có thể bao quát

được các trường hợp mà người soạn thảo muốn điều chỉnh, và mang tính học thuật cao.
-


Vị thế giữa các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng là bất cân xứng. Hầu như

trong mọi trường hợp, bên đưa ra các điều khoản, soạn thảo hợp đồng tức doanh nghiệp là
bên có địa vị cao hơn, có khả năng tài chính, pháp lý và thông tin về giao dịch. Ngược lại,
bên không soạn thảo, trường hợp này là người tiêu dùng, phải chấp nhận vô điều kiện các
điều khoản có trong hợp đồng và hầu như luôn ở vị thế thấp hơn rất nhiều.

28

Legal
Information
Institute,
Cornell
University
Law
[Truy cập ngày 11/10/2016]

School,

29
Nguyễn Thị Ngọc Anh, 2011. Pháp luật về Hợp đồng dân sự theo mẫu trên thế giới – Những kinh
nghiệm đối với Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ trường Đại học Luật Hà Nội..


16

-

Hợp đồng được áp dụng hàng loạt trong một lĩnh vực nhất định, cho một nhóm


khách hàng nhất định giao dịch một hàng hóa, hay dịch vụ nhất định mà không thể đàm
30

phán riêng lẻ nội dung hợp đồng .
Việc sử dụng cùng một điều khoản mẫu cho nhiều giao dịch khác nhau đóng vai trò
quan trọng trong việc giảm chi phí và thời gian đàm phán, qua đó tăng hiệu quả kinh tế của
31

việc giao kết hợp đồng . Chính vì lý do thiết thực này, điều khoản mẫu đã trở thành một
phần không thể thiếu trong đời sống hiện đại, đặc biệt là trong kỷ nguyên số với sự phát
triển của TMĐT hiện nay.
1.2.2. Bản chất hợp đồng mẫu trong quan hệ hợp đồng với người tiêu dùng
Sự tồn tại của hợp đồng mẫu trong các giao dịch tiêu dùng thường ngày là cần thiết,
bởi tính chất của hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng là tính nhỏ lẻ và tương đồng. Dù đối tượng
giao kết là đa dạng về địa vị, độ tuổi, giới tính… nhưng tựu trung lại họ cũng đều là người
tiêu dùng, với mục đích giao kết rất rõ ràng là tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ đó. Việc sử
dụng hợp đồng mẫu trong tiêu dùng giúp doanh nghiệp cắt giảm rất nhiều chi phí về
thương lượng, soạn thảo, ký kết hợp đồng.
Tuy nhiên, cũng chính vì yếu tố áp đặt, không thể đàm phán nên trong quan hệ với
người tiêu dùng, hợp đồng mẫu không mang tính chất của một hợp đồng, mà có bản chất
32

như một sự ràng buộc về mặt pháp lý . Thương nhân, trong khi đó, vì có lợi thế về mặt
soạn thảo, thông tin nên đã lạm dụng vị trí của mình để đưa vào những điều khoản không
công bằng cho người tiêu dùng để tự bảo vệ mình.
Trong khi đó, thương nhân, tòa án, kể cả người tiêu dùng (một cách không tự
nguyện) đều mặc định rằng việc người tiêu dùng ký tên mình trên hợp đồng, hoặc nhấn vào
nút “Tôi đồng ý” trên hợp đồng thương mại điện tử tức đã thể hiện sự tự nguyện giao kết
và đồng thuận về tất cả các nội dung quy định trong hợp đồng, bất kể người tiêu dùng có

đọc hợp đồng đó không.
Từ thập niên 90, nhiều quốc gia trên thế giới, đa ̃ ban hành các chính sách, văn bản
pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chống lại sự lạm dungg̣ của những nhà sản
30
Bebchuk, A. L. & Posner, A. R., 2006. One-Sided Contracts in Competitive Consumer Markets.
Michigan Law Review, Volum 104, No.5, p. 827; Omri, B., 2006. Foreword to Boilerplate: Foundation of Market Contract
Symposium. Michigan Law Review, Volum 104, No. 5, 821-826
31
32

Gillette, C. P., 2009. Standard Form Contracts. N.Y.U Law and Economics Research, p. 09-18

Katz, A., 1990. Your Terms or Mine? The Duty to Read the Fine Print in Contracts. The RAND
Journal of Economics, Vol. 21, No. 4, p. 518-537, Available at: [Accessed
25/11/2016]


17

33

xuất kinh doanh và những bất công trong xã hội . Tại Việt Nam, vấn đề bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng cũng được đặt ra từ rất sớm, nhưng cho đến nay, quyền và lợi ích hợp pháp
của người tiêu dùng trong hợp đồng mẫu với một bên là nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa
vẫn chưa được bảo đảm.
1.2.3. Các loại hợp đồng mẫu trong giao dịch thương mại điện tử
Hiện trong lĩnh vực TMĐT, có đến 99% các hợp đồng được cung cấp đều là hợp
34

đồng mẫu , và được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như hợp đồng kích hoạt

(Clickwrap agreement), hợp đồng trình duyệt (Browsewrap agreemnent) hay hợp đồng gói
35

bọc (Shrinkwrap agreement) . Các tên gọi của hợp đồng mẫu hiện vẫn chưa được làm rõ
theo pháp luật Việt Nam, tuy nhiên việc phân loại và điều chỉnh các hợp đồng mẫu điện tử
đã được đề cập trong pháp luật Anh, Mỹ.
Mặc dù đều được gọi chung là hợp đồng mẫu, nhưng các loại hợp đồng đều có sự
khác biệt nhất định, và sự khác biệt này cũng ảnh hưởng nhất định đến cơ hội đọc hợp
đồng của người tiêu dùng nói riêng và việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung.
Thứ nhất, Clickwrap là một dạng hợp đồng mà trong đó, các nội dung được thể hiện
sẵn và người dùng được yêu cầu thế hiện sự đồng ý với các điều khoản và điều kiện của nhà
36

cung cấp trước khi sử dụng sản phẩm hay dịch vụ . Định dạng và nội dung của hợp đồng
clickwrap thường khá đa dạng tùy thuộc vào sản phẩm hay dịch vụ cung cấp, nhưng đều có
điểm chung là các điều khỏan và điều kiện của hợp đồng sẽ hiển thị trên cùng một trang với
ô “OK”, “Tôi đồng ý”, hoặc “Bằng việc nhấp vào nút này, bạn đồng ý với…” hiện trên màn

hình hay trình duyệt.
Nhìn chung, để có thể đồng ý với các điều khoản và điều kiện đó, người tiêu dùng
cần phải cuộn thanh công cụ qua các điều khoản trước khi thể hiện việc chấp nhận bằng
cách nhấn vào ô đồng ý.
Tính pháp lý của hợp đồng Clickwrap được thừa nhận rộng rãi tại Mỹ. Cụ thể, Viện
Lập pháp Hoa Kỳ đã ban hành Nguyên tắc của Luật Hợp đồng Phần mềm (PLSC - Principle

of the Law of Software Contracts) vào tháng 5 năm 2009 trong đó chấp nhận hợp đồng
33
34

Xem Chú thích số 13


35

Xem Chú thích 18

Hillman, Robert A; RachLinski, Jeffrey J;, 2002. Standard-Form Contracting in the Electronic Age.
N.Y.U Law Review, Volume 77:429, p. 456
36

Teachopedia. Clickwrap Agreement, Available at: [Accessed on 26/10/2016]


18

37

Clickwrap có hiệu lực ràng buộc các bên , do người tiêu dùng đã được trao cơ hội đọc
hợp đồng, và giả định rằng người tiêu dùng đã đọc hợp đồng.
Chẳng hạn như trong vụ Barnett v. Network Solutions 356 F. 3d 393 (2nd Cir. 2004), vụ
án này liên quan đến tính hợp lệ của điều khoản đăng ký tên miền trong hợp đồng giữa nguyên
đơn, Randall Barnett and Network Solutions, Inc. (NSI) dưới dạng clickwrap. Trong hợp đồng
có điều khoản liên quan đến nơi giải quyết tranh chấp. Khi nguyên đơn yêu cầu cung cấp tên
miền và đòi bồi thường, NSI từ chối và viện dẫn điều luật về giải quyết tranh chấp. Tòa án
cũng cho rằng điều khoản quy định trong hợp đồng là có hiệu lực vì nội dung điều khoản được
38

thể hiện công khai và nguyên đơn đã có cơ hội đọc hợp đồng .

Loại hợp đồng mẫu thứ hai được nhắc đến là hợp đồng trình duyệt – Browsewrap.
Đây là loại được sử dụng khá phổ biến trên có trang web, ứng dụng điện thoại và cho cả

phần mềm. Chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy các hợp đồng Browsewrap trên Internet như
Facebook, Kaspersky, Blackberry hay như Zalora…
Vậy Browsewrap là gì? Không giống với Clickwrap, Hợp đồng Browsewrap có các
điều khoản và điều kiện ở một trang riêng biệt, và thể hiện dưới dạng một liên kết nhỏ ở
dưới cùng của trang web, chẳng hạn “Điều khoản và Điều kiện” hay “Điều khoản Dịch vụ”
và sẽ chuyển hướng người dùng đến trang hợp đồng, và chỉ khi nhấn vào liên kết, người
dùng mới có thể đọc được nội dung hợp đồng, nếu người dùng bỏ qua không nhấp vào,
39

người dùng vẫn bị xem là đã đồng ý với toàn bộ nội dung . Có thể thấy rằng, hợp đồng
Browsewrap chỉ đơn giản là một liên kết đến một thỏa thuận pháp lý và không hề tập trung
40

sự chú ý vào hợp đồng thực sự .
41

Về mặt thực tiễn, hiệu lực hợp đồng Browsewrap ít có khả năng được công nhận ,
bởi các điều khoản không được thể hiện một cách rõ ràng và người tiêu dùng không được
biết về các điều khoản mà mình sẽ bị ràng buộc.

37
Mann, R. J. & Siebeneicher T., 2007. Just One Click: The Reality of Internet Retail Contracting.
University of Texas Law, Law and Econ Research, Paper No. 104
38 Randall BARNETT, Appellant, v. NETWORK SOLUTIONS, INC., Appellee. No. 11-00-00079 [Accessed on 26/10/2016]
39 Termsfeed, 2016. Browsewrap vs. Clickwrap. Available at [Accessed on 18/10/2016]
40

Xem Chú thích số 38

41

Kunz C. L. et al., 2003. Browse-Wrap Agreements: Validity of Implied Assent in Electronic Form
Agreements. Business Lawyer, Vol. 59, No.1, 279-280


×