Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Mở cửa thương mại, mở cửa tài chính và sự phát triển tài chính ở các nước đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.14 KB, 58 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

LÊ THỊ THU QUÍ

MỞ CỬA THƯƠNG MẠI, MỞ CỬA TÀI CHÍNH
VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH Ở CÁC NƯỚC
ĐÔNG NAM Á

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh, Năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

LÊ THỊ THU QUÍ

MỞ CỬA THƯƠNG MẠI, MỞ CỬA TÀI CHÍNH
VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH Ở CÁC NƯỚC
ĐÔNG NAM Á
Chuyên ngành: Tài chính – ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ HẢI LÝ

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn: “Mở cửa thương mại, mở cửa tài chính và sự
phát triển tài chính ở các nước Đông Nam Á” là công trình nghiên cứu độc lập của
tôi.
Các số liệu sử dụng trong bài nghiên cứu là trung thực và có nguồn gốc trích
dẫn rõ ràng. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của cô PGS.TS
Trần Thị Hải Lý.
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TÓM TẮT…………………………………………………………………….1
1. GIỚI THIỆU...............................................................................................2
2.

CƠ SỞ LÝ LUẬN KHOA HỌC VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC

NGHIỆM TRÊN THẾ GIỚI VỀ ĐỘ MỞ THƯƠNG MẠI, ĐỘ MỞ TÀI CHÍNH

VÀ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH.............................................................................4
2.1. Cơ sở lý luận khoa học........................................................................ 4
2.1.1. Lý thuyết về phát triển tài chính................................................... 4
2.1.2. Lý thuyết về độ mở thương mại.................................................... 5
2.1.3. Lý thuyết về độ mở tài chính........................................................ 6

2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về độ mở thương mại, độ mở

tài chính và phát triển tài chính............................................................................. 7
2.2.1. Độ mở thương mại và phát triển tài chính....................................7
2.2.2. Độ mở tài chính và phát triển tài chính......................................... 9
2.2.3. Độ mở thương mại và độ mở tài chính....................................... 11
2.2.4. Tác động của độ mở thương mại, độ mở tài chính đến phát triển tài
chính................................................................................................................ 13
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................................................ 22
3.1. Mô tả dữ liệu:.................................................................................... 22
3.2. Đo lường biến:................................................................................... 23


3.3. Phương pháp phân tích dữ liệu.......................................................... 26
3.3.1. Phân tích thông kê mô tả các biến:............................................. 26
3.3.2. Lựa chọn mô hình hồi quy đa biến:............................................ 27
3.3.3. Các kiểm định có liên quan đến mô hình lựa chọn và hướng xử lý
các vi phạm..................................................................................................... 29
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU....................................................................... 31
4.1. Kết quả ước lượng mô hình............................................................... 31
4.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu............................................................ 32
4.3. Kiểm tra tính vững của mô hình........................................................ 35
5. KẾT LUẬN............................................................................................... 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Bảng 2.1 Bảng tóm tắt các công trình nghiên cứu trước đây
Bảng 2: Bảng 3.1 Danh mục 10 quốc gia trong khu vực ASEAN thuộc bộ dữ

liệu trong bài nghiên cứu
Bảng 3: Bảng 3.2 Bảng tóm tắt các biến sử dụng trong nghiên cứu
Bảng 4: Bảng 3.3 Mối tương quan của các biến tại Việt Nam (2000 – 2015)
Bảng 5: Bảng 3.4. Ma trận tương quan giữa các biến
Bảng 6: Bảng 4.1. Kết quả hồi quy S-GMM cho mẫu 10 quốc gia ASEAN
Bảng 7: Bảng 4.2 Bảng tổng hợp kết quả nghiên cứu để trả lời các giả thiết/câu
hỏi nghiên

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt

ASEAN

Tên gọi đầy đủ
OLS
PMG

DEPT

PCA

FD
FDI

PRV

FEM

PRV


FIR

LLY

FO

TO

GDP

VAR

GMM

WB

GDPCAP

GOV
OECD


Association of
Southeast Asian
Nations -Hiệp hội
các quốc gia

Financial Openness -độ mở tài chính

Đông


tuyến tính

Tổng dư nợ trong
hệ thống tài
chính/ GDP

Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trên người

Financial
Development
-Phát triển tài
chính
Foreign Direct
Investment -Đầu
tư trực tiếp nước
ngoài
Fixed Effects
Mode - Mô hình
hiệu ứng cố định
Tổng số tiền cho
vay và tiền gửi
trong hệ thống tài
chính/GDP

Gross Domestic Product -Tổng sản phẩm quốc nội
Generalized Methods of Moments-Mô hình dữ liệu bảng động

Chi tiêu chính phủ
Organization for Economic Cooperation and Development - Tổ

chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Ordinary Least Squares - Phương pháp bình phương nhỏnhất
Pooled Mean Group – Phương pháp trung bình nhóm gộp
Principal Component Analysis – Phương pháp phân tích thành
phần chính
Tín dụng tư nhân / Tổng tín dụng
Tín dụng tư nhân/GDP
Nợ có tính thanh khoản/GDP
Trade Openness -Độ mở thương mại
Mô hình vector tự hồi quy
World Bank – Ngân hàng thế giới


1

TÓM TẮT
Mục tiêu của bài nghiên cứu này là nhằm xem xét mối liên hệ giữa mở cửa
thương mại, mở cửa tài chính và phát triển tài chính. Bài nghiên cứu sử dụng dữ
liệu bảng bao gồm 10 quốc gia thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN
trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015. Bằng phương pháp ước lượng GMM
(Generalized Method of Moments) đã cho ra kết quả thực nghiệm là có mối quan hệ
hai chiều giữa mở cửa tài chính và phát triển tài chính, mở cửa thương mại và phát
triển tài chính.Từ đó có thể giúp các nhà hoạch định có những chính sách phù hợp
với mục tiêu phát triển của các nước này.
Từ khóa: Độ mở thương mại, độ mở tài chính, phát triển tài chính


2

1. GIỚI THIỆU

Việc toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày càng phát triển thì mối quan hệ giữa việc
mở cửa và phát triển tài chính ngày càng rõ ràng và sâu sắc. Việc gia nhập các tổ chức
Thương Mại thế giới, việc ký kết các Hiệp định thương mai tự do, ký kết Hiệp định đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)… sẽ tạo môi trường mới cho nền kinh tế của các
nước phát triển. Việc tự do hóa thương mại đã thúc đẩy các quốc gia buôn bán, trao đổi
hàng hóa một cách mạnh mẽ. Việc bãi bỏ hàng rào thuế quan khi thực hiện tự do hóa
thương mại cũng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là một nguồn lực quan
trọng để phát triển tài chính, phát triển kinh tế. Mở của tài chính để thu hút vốn đầu tư
nước ngoài không những gia tăng nguồn vốn mà còn học hỏi được kỹ thuật, công nghệ
để áp dụng vào sản xuất tạo ra sản phẩm. Đây là nhân tố quan trọng để mở rộng thương
mại. Như vậy, việc mở cửa thương mại, mở cửa tài chính sẽ ảnh hưởng đến sự phát
triển tài chính, sự phát triển nền kinh tế như thế nào? Trong bối cảnh hiện nay, đây là đề
tài được nhiều người quan tâm nhưng bằng chứng thực nghiệm ở các nước Đông Nam
Á nói chung và Việt Nam nói riêng thì chưa có nhiều và còn nhiều ý kiến tranh luận trái
chiều. Do vậy, tôi chọn đề tài “ Mở cửa

thương mại, mở cửa tài chính và sự phát triển tài chính ở các nước Đông Nam
Á” cho bài nghiên cứu của mình
Bài nghiên cứu thực hiện nhằm mục tiêu kiểm định xem giữa mở cửa thương
mại, mở cửa tài chính và phát triển tài chính có mối quan hệ như thế nào?
Để đạt được mục tiêu trên, bài nghiên cứu lần lượt trả lời các câu hỏi sau:
-

Có tồn tại mối liên hệ giữa mở cửa thương mại, mở cửa tài chính và phát

triển tài chính không?
-

Nếu có tồn tại mối quan hệ giữa mở cửa thương mại, mở cửa tài chính và


phát triển tài chính thì mối quan hệ đó là một chiều hay hai chiều? Tác động tích
cực hay tiêu cực?
Trong bài viết này, tôi sử dụng dữ liệu bảng với phương pháp ước lượng GMM
để nghiên cứu tại 10 quốc gia thuộc Hiệp hội quốc gia Đông Nam Á – ASEAN trong
giai đoạn từ năm 2000 đến 2015. Dữ liệu thu thập và tổng hợp từ tổ chức ngân hàng


3

thế giới (Work Bank)
Cấu trúc luận văn gồm những phần như sau:
Phần 1: Giới thiệu.
Trong phần giới thiệu đề, tác giả sẽ làm rõ lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên
cứu, các câu hỏi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Phần 2: Cơ sở lý luận khoa học và giới thiệu sơ lược về các nghiên cứu
trước đây.
Nội dung của phần này tác giả sẽ trình bày tổng hợp các cơ sở lý luận khoa
học, những nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới với chủ đề mối quan hệ giữa mở
cửa thương mại, mở cửa tài chính và phát triển tài chính.
Phần 3: Phương pháp nghiên cứu, dữ liệu nghiên cứu và mô hình nghiên
cứu.
Trong phần này tác giả sẽ trình bày phương pháp nghiên cứu, giải thích các
biến phụ thuộc, biến độc lập, mô tả đặc điểm của mô hình thực nghiệm và nguồn dữ
liệu nghiên cứu.
Phần 4: Nội dung, kết quả nghiên cứu.
Trong phần này tác giả sẽ trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối
quan hệ giữa mở của thương mại, mở cửa tài chính và phát triển tài chính tại khu vự
Đông Nam Á. Sau đó thảo luận các kết quả thực nghiệm.
Phần 5: Kết luận.



phần này tác giả tổng kết lại các vấn đề nghiên cứu, kết luận lại kết quả thực

nghiệm từ mô hình nghiên cứu, nêu lên hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp
theo.


4

2.

CƠ SỞ LÝ LUẬN KHOA HỌC VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC

NGHIỆM TRÊN THẾ GIỚI VỀ ĐỘ MỞ THƯƠNG MẠI, ĐỘ MỞ TÀI
CHÍNH VÀ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH
2.1. Cơ sở lý luận khoa học
2.1.1. Lý thuyết về phát triển tài chính
2.1.1.1. Định nghĩa về phát triển tài chính
Hiện nay có rất nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau về phát triển tài
chính, tác giả sẽ đưa ra hai khái niệm trong số nhiều các khái niệm đang được sử
dụng trong nghiên cứu về tài chính hiện nay.
Thứ nhất, phát triển tài chính có thể được định nghĩa là các cải thiện về chất
lượng của 05 chức năng tài chính chủ yếu, bao gồm: Tạo ra và xử lý thông tin về
các cơ hội đầu tư tiềm năng và phân bổ vốn dựa trên các đánh giá đó; hướng dẫn
các cá nhân và hang, và thực hiện quản trị doanh nghiệp sau khi phân bổ vốn; làm
quá trình giao dịch, đa dạng hóa và quản lý rủi ro trở nên dễ dàng; huy động và hợp
nhất tiết kiệm; và làm trơn quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ và các công cụ tài
chính. Khái niệm này được đưa ra và sử dụng bởi Ross Levine.
Thứ hai, một khái niệm hẹp hơn như sau: “Phát triển tài chính là sự phát triển
của hệ thống các tổ chức tín dụng, chủ yếu bao gồm hệ thống các ngân hàng thương

mại, phản ánh qua sự mở rộng hoặc thu hẹp ở các tiêu thức sau: quy mô tín dụng
cho khu vực kinh tế tư nhân; khả năng tiếp cận tín dụng và các dịch vụ tài chính
khác của hộ gia đình/ doanh nghiệp; sự tăng/giảm can thiệp của nhà nước trong điều
tiết các dòng vốn tín dụng trên thị trường tín dụng”. (Chu Minh Hội, 2014).
2.1.1.2. Đo lường phát triển tài chính
Trên cơ sở các khái niệm về phát triển tài chính, về lý thuyết có thể xây dựng rất
nhiều các chỉ số đại diện cho phát triển tài chính. Theo WB có khoảng 100 chỉ số khác
nhau đại diện cho các chiều cạnh của phát triển tài chính theo cách tiếp cận xem hệ
thống tài chính dựa vào ngân hàng hoặc dựa vào thị trường. Theo mỗi cách tiếp


5

cận, các chỉ số được chia thành 4 tiêu chí lớn: độ sâu tài chính, tiếp cận tài chính,
tính hiệu quả và tính ổn định.
Thứ nhất, độ sâu tài chính phản ảnh quy mô hay độ lớn của thị trường tài
chính dựa trên hệ thống ngân hàng trong tương quan với quy mô nền kinh tế. Một
số chỉ tiêu thường được sử dụng trong nghiên cứu như sau:
Tỷ lệ (%) giữa dư nợ tín dụng cho khu vực kinh tế tư nhân so với
GDP
-

Tỷ lệ (%) giữa dư nợ huy động tiết kiệm so với GDP

-

Tỷ lệ (%) giữa cung tiền M2 so với GDP

Thứ hai, tiếp cận tài chính là tiêu chí phản ánh chiều phát triển về phạm vi
của hệ thống các tổ chức tín dụng. Một số tiêu chí cụ thể như sau:

Tỷ lệ số chi nhánh ngân hàng thương mại/ 100,000 người trưởng
thành
-

Tỷ lệ (%) số doanh nghiệp được cấp hạn mức tín dụng

-

Tỷ lệ (%) hộ gia đình sử dụng các loại hình dịch vụ tài chính

Thứ ba, hiệu quả hoạt động là đảm bảo khả năng đổi mới về công nghệ của
các ngân hàng thương mại cũng như đảm bảo được khách hàng sẽ được hưởng lợi
nhờ quá trình tư vấn và quản lý dòng tiền mà các ngân hàng thương mại cung cấp
cho khách hàng.
Thứ tư, tính ổn định đảm bảo cho sự vận hành của hệ thống ngân hàng thương
mại được diễn ra đều đặn và qua đó tác động tích cực tới các hoạt động kinh tế

2.1.2. Lý thuyết về độ mở thương mại
2.1.2.1. Định nghĩa về độ mở thương mại
Độ mở thương mại là mức độ mà tại đó các quốc gia hay các nền kinh tế cho
phép kinh doanh hoặc thương mại đối với một quốc gia hay nền kinh tế khác.
2.1.2.2. Đo lường độ mở thương mại
Chỉ tiêu quan trọng và được sử dụng nhiều nhất là độ mở thương mại được
tính bằng cách lấy giá trị tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của một thời kỳ chia cho


6

giá trị của tổng sản phẩm trong nước trong thời kỳ đó.
2.1.3. Lý thuyết về độ mở tài chính

2.1.3.1. Định nghĩa về độ mở tài chính
Có rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra khái niệm về độ mở tài
chính.
Kaminsky và Scmukler (2003) cho rằng tự do hóa tài chính bao gồm việc bãi
bỏ quy định của tài khoản vốn đầu tư nước ngoài, khu vực đầu tư tài chính trong
nước và thị trường chứng khoán.
Johnston và Sundarajan (1999) cho rằng tự do hóa tài chính là tập hợp các
hoạt động cải cách và biện pháp chính sách được nới lỏng quản lý để chuyển đổi hệ
thống tài chính và cấu trúc hướng đến hệ thống thị trường tự do trong khuôn khổ
pháp lý phù hợp.
Có thể thấy được từ các định nghĩa trên, tự do hóa tài chính là tập trung vào
việc loại bỏ kiểm soát hạn chế hoạt động tài chính và cho phép các lực lượng thị
trường tạo nên cơ chế giá thị trường.
2.1.3.2. Đo lường độ mở tài chính
Các bài nghiên cứu trước đây thường sử dụng hai biện pháp đo lường độ mở
tài chính như sau:
Thứ nhất, độ mở tài chính được đo lường bằng khối lượng các tài sản và
khoản nợ nước ngoài của một quốc gia so với GDP. Biện pháp đo lường thực tế này
được phát triển bởi Lane – Ferretti (2006).
Thứ hai, biện pháp chính thống được đề xuất bởi Chinn và Ito (2006). Nó
được xây dựng từ các biến giả để hệ thống hóa các hạn chế về giao dịch tài chính
xuyên biên giới. Chinn và Ito (2006) đo lường bằng hai chỉ số là: chỉ số tự do hóa
tài chính và chỉ số tự do hóa dòng vốn.
Việc xác định độ mở tài chính thật không dễ dàng. Người ta có thể sử dụng cả


7

hai biện pháp trên để phân tích nếu dữ liệu có sẵn. Tuy nhiên trong bài nghiên cứu
này, vì sự hạn chế về dữ liệu nên tác giả sử dụng biện pháp thực tế để đo lường độ

mở tài chính.
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về độ mở thương mại, độ mở tài
chính và phát triển tài chính.
Cả nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm đều nêu bật mối quan hệ tiềm
năng giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế. Ví dụ như Levine (1997); Beck .
Et al (2000); Goodhart (2004); Darrat et al (2006); Guariglia và Poncet (2008); Ductor
và Grechyna (2015). Có những nghiên cứu trong lĩnh vực này hiện đang hướng tới
kiểm tra nguồn gốc phát triển tài chính là từ tự do hóa tài chính (McKinnon (1973)), hệ
thống pháp luật (La Porta et al (1998)), sở hữu nhà nước của các ngân hàng
(Andrianova et al (2008)), và sự ổn định chính trị (Girma và Shortland (2008)).

Một nguồn quan trọng của phát triển tài chính mà ngày càng có nhiều nghiên
cứu đó là độ mở cửa. Có rất nhiều nghiên cứu trước đây đã tập trung vào nghiên cứu
mối quan hệ giữa mở cửa thương mại và phát triển tài chính, mở cửa tài chính và
phát triển tài chính, mở cửa tài chính và mở cửa thương mại. Phần này tôi xin tổng
quan một số nghiên cứu về chủ đề trên.
2.2.1. Độ mở thương mại và phát triển tài chính
Các nghiên cứu đã tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm về việc liệu mở cửa
thương mại có ảnh hưởng đến phát triển tài chính.
Nghiên cứu của Do, Q-T và Levchenko (2004), Trade and Financial
Development.
Nhóm tác giả nghiên cứu có tồn tại tác động của mở cửa thương mại đến phát
triển tài chính của một quốc gia hay không? Thu thập dữ liệu từ 22 quốc gia OECD và
55 nước đang phát triển trong khoảng thời gian 30 năm (từ 1965 – 1995), với hồi quy
bằng phương pháp OLS để trả lời cho câu hỏi trên. Trong bài nghiên cứu, tác giả sử
dụng các biến: độ mở thương mại được đo bằng tổng xuất nhập khẩu/ GDP, phát triển
tài chính được đo bằng tín dụng tư nhân/GDP, và một số các biến kiểm soát


8


khác. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ tác động của độ mở thương mại đến phát
triển tài chính phụ thuộc vào mức thu nhập trung bình của quốc gia đó. Độ mở cửa
của thương mại có tương quan dương với phát triển tài chính đối với những nước có
mức thu nhập trung bình cao. Mối tương quan này ngược lại đối với những quốc gia
có mức thu nhập trung bình thấp. Để đảm bảo tính vững, tác giả đưa thêm vào mô
hình hồi quy các biến công cụ là những biến không tác động đến biến phát triển tài
chính cho biến độ mở cửa thương mại, và kết quả nghiên cứu vẫn không thay đổi.
Do vậy, tác giả cho rằng tác động của độ mở cửa thương mại đến phát triển tài chính
ở những nước có mức thu nhập trung bình khác nhau là khác nhau.
Nghiên cứu của Kim và cộng sự (2009), Dynamic effects of trade openess
on financial development.
Cũng như Do, Q-T và Levchenko, Kim và cộng sự cũng nghiên cứu tác động của
độ mở thương mại đến phát triển tài chính cho các quốc gia trên thế giới. Trước đó, đã
có nhiều tác giả tìm thấy tác động tích cực của tự do thương mại đến phát triển tài
chính. Kim và cộng sự cho rằng mở cửa thương mại còn có thể gia tăng áp lực cạnh
tranh, gia tăng rủi ro, tác động ngắn hạn đến nền kinh tế là dẫn đến các cuộc khủng
hoảng. Do vậy, nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu tác động ngắn hạn và dài hạn của
độ mở thương mại đến phát triển tài chính. Với khoảng thời gian 45 năm (1960 –
2005), tác giả sử liệu dữ liệu bảng cho 88 quốc gia, và được chia thành 3 nhóm: nhóm
nước có thu nhập cao, nhóm nước có thu nhập trung bình và nhóm nước có thu nhập
thấp. Phương pháp PMG (Pooled Mean Group) được lựa chọn để kiểm định tác động
dài hạn dựa vào sự đồng nhất của các quốc gia nghiên cứu và tác động ngắn hạn dựa
vào đặc điểm riêng biệt của từng quốc gia như chính sách tiền tệ, tính linh hoạt của giá
cả và tiền lương… Để đo lường phát triển tài chính tác giả sử dụng 3 biến là tín dụng tư
nhân, cung tiền M3, tài sản ngân hàng. Độ mở thương mại được đo lường bằng logarit
của tổng xuất nhập khẩu/GDP. Ngoài ra, tác giả còn đưa vào các biến kiểm soát:
GDP/đầu người, chi tiêu chính phủ/GDP, tỷ lệ lạm phát để kết quả nghiên cứu không bị
chệch. Kết quả nghiên cứu cho thấy: tác động của độ mở thương mại lên phát triển tài
chính phụ thuộc vào mức thu nhập của các quốc gia.Đối



9

với các quốc gia có thu nhập cao độ mở thương mại không tác động trong ngắn hạn
nhưng tác động cùng chiều đến phát triển tài chính trong dài hạn. Đối với các quốc
gia có thu nhập thấp, độ mở thương mại tác động cùng chiều đến phát triển tài chính
trong dài hạn, tác động nghịch chiều trong ngắn hạn.
Nghiên cứu của Thorsten Beck (2002), Financial development and
international trade: Is there a link?
Tác giả nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển tài chính và thương mại trong
các ngành sản xuất. Mô hình lý thuyết tập trung vào vai trò của các trung gian tài
chính trong việc tạo điều kiện cho các dự án có quy mô lớn, lãi suất cao và cho thấy
nền kinh tế có bộ phận tài chính phát triển tốt hơn thì có lợi thế so sánh trong các
ngành sản xuất. Tác giả sử dụng dữ liệu bảng với 65 quốc gia trong vòng 30 năm.
Kiểm soát các hiệu ứng cố định của từng nước và mối quan hệ nhân quả, kết quả
cho thấy phát triển tài chính tác động lớn đến cả xuất khẩu và cán cân thương mại
của hàng hóa sản xuất.
Nghiên cứu của Frederic S.Miskin (2009), Globalization and Financial
Development.
Tác giả lập luận rằng toàn cầu hóa là yếu tố chủ chốt trong việc thúc đẩy cải
cách thể chế ở các nước đang phát triển dẫn đến phát triển tài chính và tăng trưởng
kinh tế. Các nước tiên tiến có thể giúp đỡ quá trình này bằng cách hỗ trợ mở cửa thị
trường hàng hóa và dịch vụ đối với các quốc gia thị trường mới nổi. Bằng cách
khuyến khích các nước này tham gia vào thị trường toàn cầu, các nước tiên tiến có
thể tạo ra những động lực cho các nước đang phát triển thực hiện việc cải cách để
có thể phát triển tài chính, tăng trưởng kinh tế.
2.2.2. Độ mở tài chính và phát triển tài chính
Nghiên cứu của Ross Levine (2001), International Financial Liberalization
and Economic Growth.

Tác giả đưa ra lý thuyết và bằng chứng hiện có để đánh giá về việc tự do hóa tài
chính có cải thiện hoạt động của thị trường tài chính trong nước và các ngân hàng, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế hay không? Những phân tích đưa ra câu trả lời là “có”.


10

Thứ nhất, tự do hóa đối với dòng vốn đầu tư quốc tế có xu hướng tăng tính thanh
khoản của thị trường chứng khoán. Tăng tính thanh khoản của thị trường chứng
khoán dẫn đến tăng trưởng kinh tế chủ yếu bằng cách thúc đẩy tăng sản xuất. Thứ
hai, cho phép sự hiện diện của ngân hàng nước ngoài lớn hơn có xu hướng nâng cao
hiệu quả của hệ thống ngân hàng trong nước. Kết quả là các ngân hàng phát triển tốt
hơn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chủ yếu bằng cách thúc đẩy tăng trưởng về sản
xuất. Do đó, hội nhập tài chính quốc tế có thể thúc đẩy phát triển kinh tế bằng cách
khuyến khích cải tiến hệ thống tài chính trong nước.
Nghiên cứu của Chinn và Ito (2006), What matters for financial
development? Capital controls, institutions, and interactions.
Tác giả nghiên cứu sự mở cửa tài chính có tác động đến phát triển tài chính
không? Tập trung vào mối liên hệ giữa tự do hóa tài khoản vốn, phát triển thể chế và
pháp lý, và phát triển tài chính, đặc biệt là trong thị trường chứng khoán. Tác giả sử
dụng dữ liệu bảng cho 108 quốc gia trong khoảng thời gian 20 năm (từ năm 1980 đến
2000) và khám phá ra nhiều khía cạnh tài chính. Thứ nhất, tác giả kiểm tra liệu sự mở
cửa về tài chính có thể dẫn đến phát triển thị trường chứng khoán không khi chúng ta
kiểm soát mức độ phát triển pháp lý và thể chế. Sau đó, tác giả kiểm tra liệu việc mở
cửa của ngành hàng hoá là điều kiện tiên quyết để mở tài chính. Cuối cùng, tác giả
nghiên cứu xem liệu ngành ngân hàng phát triển tốt là điều kiện tiên quyết để tự do hóa
tài chính, dẫn đến phát triển thị trường chứng khoán và liệu sự phát triển của ngân hàng
và thị trường chứng khoán có thể bổ sung hay thay thế không. Kết quả thực nghiệm cho
thấy mở cửa về tài chính ở mức cao hơn góp phần vào sự phát triển của thị trường
chứng khoán chỉ khi hệ thống pháp luật và thể chế chung được hoàn thiện và thống

nhất, điều này càng phổ biến ở các nước thị trường mới nổi. Trong số các nước thị
trường mới nổi, mức độ chất lượng của quan chức cấp cao và luật pháp cũng như mức
độ tham nhũng thấp hơn làm tăng hiệu quả của việc mở cửa tài chính trong việc thúc
đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán. Tác giả cũng thấy rằng các quy định về
pháp lý/thể chế liên quan đến tài chính không làm tăng hiệu quả của việc mở tài khoản
vốn mạnh mẽ như các quy định pháp lý/thể chế chung. Ngoài ra, tác giả


11

thấy rằng tự do hóa trong giao dịch hàng hoá qua biên giới được coi là điều kiện
tiên quyết cho tự do hóa tài khoản vốn. Các phát hiện của tác giả cũng chỉ ra rằng sự
phát triển trong ngành ngân hàng là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển thị trường
vốn cổ phần và sự phát triển của hai loại thị trường tài chính này có những tác động
đồng bộ.
2.2.3. Độ mở thương mại và độ mở tài chính
Nghiên cứu của Kandiero và Chitiga (2006), Trade openness and Foreign
Direct Investment in Africa.
Trong nghiên cứu của Lane và Milesi-Ferreti (2006), FDI được xem là nhân tố
đo lường độ mở tài chính. Còn Kandiero và Chitiga (2006) nghiên cứu đến độ mở
thương mại đến đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Như vậy, tác động của độ mở
thương mại đến FDI cũng là tác động đến độ mở tài chính. Với dữ liệu tại các nước
Châu Phi trong thời gian từ 1980 đến 2001, Kandiero và Chitiga hồi quy biến FDI
theo các biến độ mở thương mại (Openess), thuế đánh trên thương mại quốc tế
(TAX), quy mô thị trường (GDP), lương (WAGE), cơ sở hạ tầng (ROAD), tỷ giá hối
đoái thực (REER). Để xử lý tốt vấn đề nội sinh của các biến trong mô hình, tác giả
sử dụng phương pháp GMM để ước lượng. Nghiên cứu cho ta kết quả độ mở
thương mại có tác động tích cực đến sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) của các
nước Châu Phi. Nổi bật nhất là việc hạn chế các hàng rào thuế quan, giảm thuế sẽ có
tác động mạnh mẽ đến thu hút vốn đầu tư FDI. Ngoài ra, ngành dịch vụ đang được

bảo hộ nhiều nên nếu mở rộng tự do hóa trong khu vực này sẽ có được lợi ích rất
lớn. Như vậy, độ mở thương mại tác động tích cực đối với việc thu hút vốn FDI,
đồng nghĩa với độ mở thương mại tác động mạnh đến độ mở tài chính.
Nghiên cứu Thomas và cộng sự (2008), Linkage between Financial
Deepening, Trade openness and Economic Development: Causality Evidence
from Sub – Saharan Africa.
Bằng cách sử dụng chuỗi thời gian 16 nước khu vực Sahara châu Phi, Thomas
và cộng sự (2008) đã nghiên cứu mối liên kết giữa mở cửa thương mại, mở cửa tài
chính, phát triển tài chính và phát triển kinh tế. Tác giả sử dụng các biến như sau:


12

Biến độ mở thương mại được đo lường bằng tổng xuất nhập khẩu/GDP, biến tăng
trưởng được đo lường bằng GDP đầu người, phát triển tài chính được đo lường bằng
các chỉ tiêu như M2/GDP, tín dụng nội địa cho khu vực tư nhân/GDP…Tác giả đã
thực hiện một số các kiểm định để đưa ra kết quả cuối cùng. Đầu tiên, tác giả thực
hiện phân tích nhân tố khám phá để tìm ra những nhân tố đo lường phát triển tài
chính. Sau đó tác giả thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị và kiểm định đồng liên kết
để xem tính dừng và mối liên hệ đồng liên kết trong chuỗi dữ liệu. Sau đó tác giả
thực hiện các kiểm định nhân quả giữa các biến trong mô hình. Sau cùng là các
kiểm định nhân quả Granger, VAR và VECM, tác giả đưa ra các kết quả nghiên cứu
như sau: Đầu tiên là không có mối quan hệ trong dài hạn giữa các nhân tố phát triển,
độ mở và tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, tác giả chỉ phát hiện sự tương tác hạn chế
giữa độ sâu tài chính và tăng trưởng kinh tế. Thứ ba tồn tại mối liên hệ giữa độ mở
thương mại và độ mở tài chính.
Nghiên cứu của Asongu Simplice Anutechia (2010), Linkages between
Financial Development and Openness: panel evidence from developing countries.
Asongu (2010) thu thập dữ liệu trong thời gian 21 năm (1987-2008) tại 29 nước
ở Châu Phi để nghiên cứu lý thuyết về mối liên hệ giữa phát triển tài chính và độ mở.

Tác giả sử dụng các biến như sau: phát triển tài chính được đo lường bằng 2 yếu tố là
cung tiền M3/GDP (LLgdp) và tín dụng tư nhân bằng tiền gửi ngân hàng/GDP

(PCRgdp), độ mở thương mại được đo bằng tổng xuất nhập khẩu/GDP (IXgdp), độ
mở tài chính được đo lường bằng đầu tư nước ngoài/ GDP (FDIgdp) và dòng vốn tư
nhân/GDP (PCFgdp) và biến kiểm soát tăng trưởng GDP trên đầu người. Tác giả đã
tiến hành một số các kiểm định để tìm ra kết quả ước lượng. Đầu tiên, tác giả tiến
hành phân tích nhân tố bằng phương pháp PCA (Principal Component Analysis) để
đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến các biến phát triển tài chính và độ
mở tài chính. Tiếp theo tác giả thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị để xem xét tính
dừng của chuỗi dữ liệu. Cuối cùng, tác giả thực hiện phương pháp GLS with FE
(Generalized Least Squares with Fixed Efect) để tìm ra các ước lượng và kiểm định
các ước lượng bằng kiểm định Robust. Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy độ mở


13

thương mại và độ mở tài chính có quan hệ hai chiều và là quan hệ cùng chiều. Phát
triển tài chính và độ mở tài chính có quan hệ hai chiều và quan hệ nghịch chiều.
Tất cả các nghiên cứu trên được nghiên cứu trên phạm vi các nước trên thế giới,
còn ở Việt Nam thì sao? Đã có nghiên cứu nào xem xét đến các mối quan hệ giữa độ
mở thương mại, độ mở tài chính và phát triển tài chính ở Việt Nam chưa? Xin được
tổng quan nghiên cứu của TS. Lê Thanh Tùng (2014), Mối quan hệ giữa vốn đầu tư
nước ngoài và độ mở thương mại tại Việt Nam. Bằng phương pháp ước lượng ECM, tác
giả kiểm định mối quan hệ giữa FDI và độ mở thương mại tại Việt Nam trong khoảng
thời gian từ năm 1989 – 2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy tồn tại quan hệ đồng tích
hợp giữa FDI và độ mở thương mại theo hướng tỷ lệ thuận, theo kiểm định Granger
cũng khẳng định tồn tại quan hệ nhân quả từ FDI đến độ mở thương mại, tuy nhiên
không tồn tại mối quan hệ nhân quả từ độ mở thương mại đến FDI.


2.2.4. Tác động của độ mở thương mại, độ mở tài chính đến phát triển tài
chính.
Những bài nghiên cứu trên đều nghiên cứu mối quan hệ của 2 biến giữa độ mở
thương mại và phát triển tài chính, độ mở tài chính và phát triển tài chính. Bắt
nguồn từ chuyên đề của Rajan và Zingales (2003) cho rằng những phát hiện này dựa
trên các kiểm định mối quan hệ hai biến có thể sẽ là không đầy đủ và thậm chí làm
sai lệch kết quả. Do đó, Rajan và Zingales đề nghị một mối quan hệ ba biến quan
trọng giữa mở cửa thương mại, công khai tài chính và phát triển tài chính.
Nghiên cứu của Rajan và Zingales (2003), The great reversals: the politics
of financial development in the twentieth century.
Rajan và Zingales đưa ra giả thuyết rằng mở cửa thương mại mà không có sự
mở cửa tài chính là không thể dẫn đến sự phát triển tài chính và họ đã xem xét tính
hiệu lực của giả thuyết này bằng cách sử dụng dữ liệu bảng cho 24 nước trong thời
gian từ 1913 – 1999 với phương pháp hồi quy đa biến (đa số các nước mà tác giả
chọn là các nước phát triển trên thế giới). Trong bài nghiên cứu, phát triển tài chính
được đo bằng bốn yếu tố: phát triển ngân hàng (được đo lường bằng tỷ số tiền gửi
ngân hàng/GDP); phát triển thị trường vốn (được đo lường bằng tỷ số tổng vốn đầu


14

tư của những công ty nội địa được niêm yết/tổng vốn đầu tư cố định nội địa); tổng
chỉ số vốn hóa chứng khoán thị trường; và số công ty nội địa được niêm yết/1000
dân). Tác giả còn sử dụng các biến chỉ số công nghiệp/GDP, độ mở thương mại,
biến tương tác của độ mở thương mại và chỉ số công nghiệp, biến tương tác của chỉ
số công nghiệp và thuế làm biến độc lập. Kết quả bài nghiên cứu cho thấy, khi quốc
gia mở cửa dòng vốn mạnh, phát triển tài chính tương quan dương mạnh với tự do
hóa thương mại; nhưng nếu mức độ mở cửa dòng vốn giảm thì mức độ tương quan
giữa phát triển tài chính và tự do hóa thương mại cũng giảm theo.
Nghiên cứu của Siong Hook Law (2006), Openness, Institutions and

Financial Development.
Nghiên cứu của Law đã hỗ trợ tiếp cho nghiên cứu của Rajan vàZingales
(2003). Với dữ liệu bảng của 43 nước đang phát triển trong 21 năm từ 1980 – 2001,
Law đã nghiên cứu tác động của độ mở thương mại, độ mở tài chính đến phát triển
tài chính. Phát triển tài chính được đo lường bởi 2 chỉ tiêu: Phát triển khu vực ngân
hàng (đo lường bằng cung tiền M3/GDP, tín dụng dành cho tư nhân/ GDP, và tín
dụng nội địa của khu vực ngân hàng/ GDP) và phát triển thị trường vốn (đo lường
bằng số công ty nội địa được niêm yết trên sàn chứng khoán). Độ mở tài chính được
đo lường dựa vào xây dựng của Chinn và Ito(2002) bằng dòng vốn tư nhân và chỉ số
tự do hóa tài chính. Tổng xuất nhập khẩu/GDP và tỷ trọng nhập khẩu/tổng nhập
khẩu để đo lường độ mở thương mại. Biến thể chế (institution) được đo lường bằng
những biến đo lường rủi ro quốc gia. Bằng phương pháp ước lượng GMM và PMG
(Pooled Mean Group), kết quả cho thấy rằng độ mở thương mại và độ mở tài chính
có tác động thúc đẩy phát triển tài chính. Bài nghiên cứu còn khẳng định độ mở
thương mại tác động đến phát triển tài chính đối với mỗi quốc gia phụ thuộc vào
mức độ thu nhập trung bình của mỗi quốc gia.
Nghiên cứu của Hanh (2009), Financial Development, Financial openness
and Trade openness: New evidence.
Với dữ liệu của hai mươi chín nước trong vòng 14 năm từ 1994 – 2008, Hanh
nghiên cứu các mối liên kết hai chiều giữa phát triển tài chính với độ mở thương mại


15

và độ mở tài chính. Đối với phát triển tài chính tác giả đo lường bằng cung tiền
M3/GDP và tín dụng cho khu vực tư nhân/GDP. Với độ mở tài chính tác giả đo
lường bằng FDI/GDP và dòng vốn tư nhân/GDP. Với độ mở thương mại tác giả đo
lường bằng tổng xuất nhập khẩu/GDP. Ngoài các biến chính như trên, tác giả còn sử
dụng một số biến kiểm soát khác như sau: tốc độ tăng trưởng GDP, biến đo lường
độ rủi ro quốc gia, tỷ giá hối đoái thực, biến giả để đo lường khủng hoảng tài chính.

Bằng phương pháp GMM để ước lượng, tác giả đã đưa ra kết quả khá thú vị như
sau: Đầu tiên, bài nghiên cứu cho thấy giữa phát triển tài chính với độ mở tài chính
và độ mở thương mại có mối quan hệ nhân quả. Ở các nước đang phát triển điều
kiện tiên quyết cho sự phát triển là sự mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ. Và
ngược lại, phát triển tài chính và độ mở tài chính tạo điều kiện cho các nước đang
phát triển đạt được lợi ích lớn hơn trong việc mở cửa. Thứ hai, bài nghiên cứu cho
thấy mối quan hệ giữa độ mở tài chính và phát triển tài chính là không đồng nhất.
Độ mở tài chính tương quan dương với tín dụng cho khu vực tư nhân. Trong khi đó,
không có bằng chứng cho thấy mối quan hệ giữa độ mở tài chính với cung tiền M3.
Nghiên cứu của Baltagi và cộng sự (2009), Financial Development and
openness: Evidence from panel data.
Baltagi và cộng sự đã bổ sung giả thuyết của Rajan và Zingales (2003) sử dụng
dữ liệu bảng cho các nước đang phát triển và phát triển để làm nổi bật hiệu ứng tương
tác giữa độ mở thương mại và độ mở tài chính đến phát triển tài chính. Phát triển tài
chính được đo lường bằng chỉ số vốn hóa chứng khoán thị trường và tín dụng tư nhân.
Với các nước đang phát triển, để đo lường độ mở tài chính tác giả sử dụng 2 biến là chỉ
số tự do hóa tài chính được tính bằng tổng tài sản và nợ nước ngoài/GDP, và chỉ số tự
do hóa dòng vốn. Độ mở thương mại được đo lường bằng tổng xuất nhập khẩu/GDP.
Dữ liệu thu thập từ 42 nước trong giai đoạn 1980 – 2003 và phương pháp ước lượng
GMM. Trong mô hình nghiên cứu, tác giả cũng đưa thêm các biến để đo lường rủi ro
quốc gia. Biến công cụ được sử dụng trong mô hình là độ mở thương mại của các nước
láng giềngvà dòng vốn của Mỹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy tác động biên của mở cửa
thương mại và mở cửa tài chính có tác động nghịch chiều với


16

độ mở tài chính và độ mở thương mại. Tức là một nền kinh tế đóng cửa sẽ được
hưởng lợi từ việc mở cửa thương mại hoặc mở cửa tài chính. Các kết quả trong
Baltagi (2009) cho thấy cả mở cửa thương mại và tài chính là yếu tố quyết định ý

nghĩa thống kê về phát triển ngành ngân hàng. Và mở cửa thương mại mà không
cần mở cửa tài chính hoặc mở cửa tài chính mà không cần mở cửa thương mại vẫn
có thể tạo ra lợi nhuận trong phát triển tài chính.
Nghiên cứu Zhang, Zhu và Lu (2015), Trade Openness, Financial
Openness and Financial Development in China.
Zhang, Zhu và Lu đã nghiên cứu tác động của độ mở thương mại, độ mở tài chính
đến phát triển tài chính. Với dữ liệu bảng của 30 tỉnh tại Trung Quốc trong giai đoạn từ
2000 – 2009 và phương pháp ước lượng GMM. Tác giả sử dụng các biến như sau: Biến
phát triển tài chính được đo lường thông qua quy mô, hiệu quả và cạnh tranh tài chính.
Biến quy mô được đo lường bởi 3 yếu tố là tổng dư nợ trong hệ thống tài chính/GDP
danh nghĩa (DEPT), tổng tiền cho vay và tiền gửi trong hệ thống tài chính/GDP danh
nghĩa (FIR) và tổng số tiền tiết kiệm của các hộ gia đình. Biến hiệu quả tài chính được
đo lường bằng tín dụng phân bổ cho doanh nghiệp tư nhân với tổng tín dụng trong nước
(PRV). Biến cạnh tranh được đo lường bởi tỷ lệ tiền gửi giữa các tổ chức tài chính phi
nhà nước với tổng số tiền gửi trong tất cả các tổ chức tài chính. Biến độ mở thương mại
được đo lường bằng tổng thương mại (tổng xuất nhập khẩu)/GDP (TO). Biến độ mở tài
chính được đo bởi tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với GDP (FO). Kết quả
nghiên của nghiên cứu cho thấy như sau: Thứ nhất, độ mở thương mại và độ mở tài
chính có tác động ngược chiều với quy mô, nhưng có tác động cùng chiều với hiệu quả
và cạnh tranh tài chính. Thứ hai, tác động biên của sự mở cửa tới hiệu quả tài chính và
cạnh tranh là tích cực đối với các tỉnh mở cửa nhiều nhất, trong khi tác động biên của
độ mở cửa tới quy mô phát triển tài chính nói chung là tiêu cực. Thứ ba, tác động biên
của sự mở cửa đến phát triển tài chính là khác nhau giữa các tỉnh khác nhau ở Trung
Quốc và vấn đề lợi ích nhóm đặc biệt nghiêm trọng ở các tỉnh Trung Quốc mà có mức
độ mở cửa thấp.

Qua kết quả của các bài nghiên cứu trên, ta thấy được mối quan hệ giữa độ mở


17


thương mại, độ mở tài chính và phát triển tài chính. Phụ thuộc vào mức thu nhập
trung bình của quốc gia đó mà độ mở thương mại có mối tương quan khác nhau với
phát triển tài chính. Đối với quốc gia có thu nhập cao độ mở thương mại có tương
quan dương với phát triển tài chính, các nước có thu nhập trung bình thấp độ mở
thương mại tác động ngược chiều với phát triển tài chính. Và ngược lại, phát triển
tài chính cũng có tác động tới mở cửa thương mại. Mở cửa tài chính khuyến khích
cải thiện hệ thống tài chính trong nước, góp phần phát triển thị trường chứng khoán
dẫn đến phát triển thị trường tài chính. Không dừng lại ở mối quan hệ của hai yếu
tố, các tác giả đã kiểm tra mối quan hệ của ba yếu tố trên và phát hiện tồn tại mối
quan hệ nhân quả giữa phát triển tài chính, độ mở tài chính và độ mở thương mại.
Bảng 2.1 Tóm tắt các công trình nghiên cứu trước đây
Nội dung
nguyên cứu
Độ
mại
triển tài chính

mở



18

Tác động độ mở
tài chính đến
phát triển tài
chính



×