Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Bài thảo luận thanh toán và tín dụng quốc tế trường đại học Thương Mại.Thực trạng sử dụng hối phiếu trong thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.63 KB, 19 trang )

Đề tài: Thực trạng sử dụng hối phiếu trong thanh toán quốc tế của
các doanh nghiệp Việt Nam.
MỞ ĐẦU
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế các hình thức tín dụng cũng phát triển
theo. Nó đòi hỏi việc thanh toán giữa các bên liên quan cần nhanh chóng, thuận
tiện và đảm bảo an toàn. Trong quá trình phát triển, hối phiếu đã trở thành một
công cụ lưu thông tín dụng có thể giảm đáng kể những rủi ro, thiệt hại trong quá
trình thực hiện các giao dịch mua bán, đáp ứng được nhu cầu thanh toán trong
trường hợp có sự khác nhau về địa lý giữa nơi bán và nơi mua. Và hiện nay, hối
phiếu vẫn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế.
I. Khái quát về hối phiếu.
1. Khái niệm và bản chất của hồi phiếu.
Thương mại phát triển kéo theo sự gia tăng nhu cầu về vốn; các thương nhân
có thể vay vốn ngân hàng hoặc vay các thương nhân khác thông qua hình thức mua
bán chịu hàng hoá trên cơ sở lòng tin giữa các thương nhân, các thương nhân cũng
phải sáng tạo ra phương thức thanh toán mới mà không sử dụng cách trả tiền ngay
như thông thường.
Thương phiếu được biết đến như những văn bản ghi nhận nợ khi các thương
gia mua bán chịu hàng hóa thực chất đây là quá trình “chứng chỉ hóa các hợp đồng
mua bán chịu giữa các thương nhân”
Vào cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII Hối phiếu được sử dụng phổ biến với tư
cách công cụ thanh toán có thể chuyển nhượng. Đến khoảng thế kỷ XIV, XV các
thương nhân đã sử dụng hối phiếu đòi nợ và hối phiếu dùng thanh toán bù trù giữa
các khoản vay và cho vay với nhau trên cơ sở thương phiếu. Khi đó, hối phiếu


được sử dụng như một công cụ thanh toán trong quan hệ mua bán trả chậm, vừa là
công cụ tín dụng. Ở Việt Nam, hối phiếu xuất hiện khá muộn, vào thời gian Việt Nam
là thuộc địa của Pháp. Thời kỳ này, hối phiếu được sử dụng chủ yếu trong quan hệ đối
ngoại, thường là được sử dụng để trả nợ nước ngoài.
Sau này, ngay cả khi đã giành được độc lập thì hối phiếu không được nhắc đến.


Bởi vì trong cơ chế cũ, Nhà nước không thừa nhận tín dụng thương mại hay “quan
hệ mua bán chịu hàng hóa”, vì nền kinh tế kế hoạch hóa là nền kinh tế có mục tiêu,
kế hoạch cụ thể, tất cả thực hiện theo kế hoạch. Thậm chí có người cho rằng tín
dụng thương mại là loại quan hệ chiếm dụng vốn lẫn nhau. Tuy nhiên, trên thực tế
trong quan hệ thương mại và dân sự vẫn có những quan hệ mua bán chịu nhưng nó
thường được ghi nhận bằng các giấy ghi nợ và nếu xảy ra tranh chấp thì sẽ được
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
* Khái niệm Hối phiếu: Hối phiếu là lệnh đòi tiền vô điều kiện do một người
kí phát cho một người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến
một ngày cụ thể nào đó có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất
định cho một người nào đó, hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác, hoặc
trả cho người cầm hối phiếu.
*Về bản chất: Hối phiếu là một hành vi pháp lý đơn phương - để ràng buộc
nghĩa vụ của mình đối với việc thanh toán hối phiếu. Tuy nhiên, chỉ khi hành vi
pháp lý đơn phương ấy được thực hiện dưới hình thức và nội dung theo luật định
thì nó mới ràng buộc nghĩa vụ thanh toán hối phiếu của chủ thể đó. Hành vi pháp
lý đơn phương bao gồm: Hành vi ký phát hành, ký chấp nhận, ký bảo lãnh và ký
chuyển nhượng hối phiếu của người ký phát hành, người bị ký phát, người bảo
lãnh, người chuyển nhượng....


2. Các đặc trưng của hối phiếu
Một là, Hối phiếu được nhìn nhận là trái vụ của một bên, do hối phiếu được
hiểu là một lệnh trả tiền hoặc cam kết trả tiền vô điều kiện của người phát lệnh
(người ký phát, người phát hành) cho người thụ hưởng. Khi đó câu hỏi được đặt ra
là: tính chất vô điều kiện của việc trả tiền được thiết lập đối với ai và thiết lập từ
khi nào:
Đối với người ký phát

: kể từ khi lập hối phiếu


Đối với người bị ký phát

: kể từ khi chấp nhận hối phiếu

Đối với bảo lãnh

: kể từ khi ký bảo lãnh

Đối với chuyển nhượng

: kể từ khi hối phiếu được chuyển nhượng hợp lệ.

Hai là, hối phiếu có tình trừu tượng. Xuất phát từ hình thức và nội dung của hối
phiếu, ta thấy trên hối phiếu chỉ ghi số tiền phải trả hoặc cam kết trả mà không ghi
nguyên nhân. Trong lưu thông giá trị của hối phiếu không bị ràng buộc vào nguyên
nhân phát sinh ra nó. Điều đó có nghĩa là khi một hối phiếu được phát hành và
chuyển giao cho người khác thì nó trở thành một chứng thư độc lập và được phép
lưu thông mà không phụ thuộc vào việc có tồn tại hay không một giao dịch cơ sở,
miễn là trong thời hạn còn hiệu lực.
Ba là, Hối phiếu có tính lưu thông (là một công cụ có thể được chuyển
nhượng) trong thời hạn hối phiếu có hiệu lực, hối phiếu được mua bán trong giao
lưu thương mại giữa các thương nhân hoặc giữa thương nhân với một ngân hàng.
Bốn là , hối phiếu là một công cụ thanh toán. Ngoài ra, hối phiếu còn là một
loại công cụ tín dụng. nó được sử dụng rộng rãi trong thương mại, đặc biệt là
thương mại quốc tế. Các thương nhân sử dụng hối phiếu thay cho tiền mặt vì nhiều
mục đích khác, có thể là trong quan hệ mua bán trả chậm có bảo đảm, có thể là
nhằm tạo sự thuận lợi cho các bên trong quan hệ kinh doanh mà khi sử dụng tiền



mặt để thanh toán sẽ không đạt được, vì hối phiếu có thể đem ra mua bán, trao đổi
hay đem chiết khấu tại ngân hàng, hay lưu thông trong dân sự. Chính đặc điểm này
đã giúp hối phiếu ngày càng được sử dụng rộng rãi.
Năm là, hối phiếu có thời hạn thanh toán ngắn, thường thì không quá ba tháng.
Việc quy định này trước hết là nhằm đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng, thời
gian càng dài, rủi ro càng lớn, bởi vậy quy định một thời hạn thanh toán ngắn tạo
nên một tâm lý an tâm cho thương nhân khi sử dụng và cầm giữ hối phiếu.
Mặt khác, việc quy định một thời hạn thanh toán ngắn còn thúc đẩy sự lưu
thông hối phiếu, qua đó việc sử dụng hối phiếu trở nên thông dụng hơn. Thời hạn
thanh toán ngắn giúp người cho người ký phát có thể chuyển nhượng hối phiếu với
khả năng thanh khoản cao. Ngoài ra, nó còn tác động đến kỹ năng thoả mãn yêu
cầu của khách hàng (thỏa mãn yêu cầu về vốn và hàng hóa).
3. Phân loại Hối phiếu.
Hiện nay có rất nhiều tiêu chí phân loại hối phiếu, tuy nhiên người ta thường
căn cứ vào một số tiêu chí sau :
- Căn cứ vào người tạo lập hối phiếu, hối phiếu bao gồm: hối phiếu đòi nợ do
người ký phát lập và hối phiếu nhận nợ do người phát hành lập.
Hối phiếu đòi nợ là chứng chỉ có giá do người ký phát lập yêu cầu người bị ký
phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một
thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng hoặc trả theo lệnh của
người này hay trả cho người cầm hối phiếu. Trên cơ sở sự ràng buộc trách nhiệm
của người bị ký phát thì hối phiếu đòi nợ bao gồm hai loại là:
+ Hối phiếu chưa được ký chấp nhận, trong trường hợp này người bị ký phát
chưa bị ràng buộc nghĩa vụ thanh toán hối phiếu;


+ Hối phiều đã được người bị ký phát ký chấp nhận trong đó người bị ký phát
trở thành người chấp nhận, ràng buộc mình với nghĩa vụ thanh tóan khi hối phiếu
đó đáo hạn
Hối phiếu nhận nợ là chứng chỉ có giá do người ký phát lập, cam kết thanh toán

không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất
định trong tương lai cho người thụ hưởng hoặc trả theo lệnh của người này hoặc trả
cho người cầm hối phiếu. Thông qua việc phát hành hối phiếu, người phát hành
thừa nhận khoản nợ của mình đồng thời cam kết thanh toán khi hối phiếu đến hạn
thanh toán.
- Căn cứ vào thời hạn trả, hối phiếu bao gồm: hối phiếu được thanh toán sau một
thời hạn nhất định, hối phiếu được thanh toán sau khi được chấp nhận và hối phiếu
được thanh toán ngay sau khi xuất trình;
Hối phiếu được thanh toán sau một thời hạn nhất định là các hối phiếu mà trên
đó ghi rõ hối phiếu sẽ được thanh tóan vào một ngày xác định hay sau một thời hạn
nhất định, thông thường người phát hành có thể quy định thời hạn thanh toán theo
một trong số các cách sau: “hối phiếu sẽ được thanh tóan vào ngày” hay “ hối
phiếu được thanh toán sau 30 ngày kể từ ngày phát hành” hay “hối phiếu được
thanh tóan sau 20 ngày kể từ ngày được chấp nhận”
- Căn cứ vào việc thanh toán có kèm chứng từ thương mại hay không, hối phiếu
gồm;
Hối phiếu thanh toán có kèm bộ chứng từ và hối phiếu thanh toán không kèm
bộ chứng từ; hình thức này được sử dụng phổ biến trong thương mại quốc tế.
Trong đó hối phiếu thanh toán có kèm bộ chứng từ có phần nào giống với hình
thức thanh toán bằng cách mở thư tín dụng L/C. Vì kèm theo hối phiếu, nguời thụ


hưởng, người cầm giữ phải có đầy đủ bộ chứng từ chứng minh việc hoàn thành
nghĩa vụ của mình, sau đó hối phiếu mới được thanh toán.
- Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng, hối phiếu bao gồm: hối phiếu có thể
chuyển nhượng và hối phiếu không thể chuyển nhượng. Hối phiếu có thể chuyển
nhượng là các hối phiếu mà trong đó không có các cụm từ như “cấm chuyển
nhượng” hoặc “không được chuyển nhượng” hay các cụm từ có ý nghĩa tương
đương.
- Căn cứ vào phạm vi sử dụng, hối phiếu bao gồm: hối phiếu nội địa và hối

phiếu quốc tế.
Hối phiếu nội địa là hối phiếu được phát hành và thanh toán trong phạm vi
lãnh thổ của một quốc gia hoặc được ký phát tại một quốc gia để đòi tiền một
người khác trong cùng lãnh thổ quốc gia đó thì được coi là hối phiếu nội địa (hối
phiếu trong nước).
Hối phiếu quốc tế là hối phiếu được phát hành và thanh toán tại hai quốc gia
khác nhau hoặc được phát hành để đòi tiền một người khác ở nước ngoài. Việc xác
định hối phiếu là hối phiếu nội địa hay hối phiếu quốc tế có ý nghĩa to lớn trong
việc xác định luật điều chỉnh quan hệ pháp luật hối phiếu.
- Căn cứ vào cơ sở hình thành: hối phiếu bao gồm: hối phiếu thực và hối
phiếu khống. Thực chất hiện nay trong pháp luât các nước hầu hết không còn đề
cập đến tiêu chí phân biệt này. Tuy nhiên, trong một số học thuyết thì đây là một
căn cứ để phân biệt hối phiếu. Theo đó, nếu trên cơ sở một giao dịch có thực xảy ra
trước đó làm phát sinh quan hệ hối phiếu thì hối phiếu đó được coi là hối phiếu
thực. Mặt khác nếu hối phiếu không dựa trên một giao dịch có thực theo quy định
của pháp luật thì sẽ bị coi là hối phiếu khống.


4. Vai trò của hối phiếu.
- Đối với các bên tham gia quan hệ thương mại:
Hối phiếu với vai trò là công cụ thanh toán sẽ giúp cho người bán, bán được
hàng (chủ nợ) có ngay được tài sản tài chính (“công cụ nợ”có thể lưu thông hoặc
dùng vật cầm cố bảo đảm cho nghĩa vụ trong các giao dịch khác) người sở hữu nó
có thể thanh khoản dễ dàng.
Hối phiếu còn tạo cơ hội cho người muốn mua hàng có thể thỏa mãn nhu cầu
của mình ngay cả khi không có tiền thanh toán ngay.
Hối phiếu còn đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng (tính bất khả kháng,
khả năng truy đòi, trách nhiệm liên đới của người có liên quan đến việc thanh toán
tiền trên hối phiếu.
Hối phiếu với tư cách là công cụ tín dụng giúp các thương nhân có thể huy

động được thêm vốn kinh doanh với ưu thế riêng, vì thời hạn linh hoạt, điều kiện
và thủ tục đơn giản;
Đối với ngân hàng, hối phiếu giúp các ngân hàng có mở rộng hơn phạm vi, đối
tượng cấp tín dụng thông qua hình thức chiết khấu hoặc cho vay cầm cố hối phiếu.
Việc cấp tín dụng của các TCTD dựa trên cơ sở có hối phiếu thì mức độ an toàn
trong việc cấp tín dụng cũng được bảo đảm hơn. Ngoài ra, việc sử dụng hối phiếu
giúp ngân hàng đòi nợ dễ dàng hơn đối với những món nợ đã cho vay (ngân hàng
là người ký phát).
Việc sử dụng hối phiếu giúp ngân hàng Trung ương thực thi chính sách tiền
tệ được dễ dàng hơn. Bởi vì có hối phiếu NHTW thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn


ngắn hạn (dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố hối
phiếu); nghiệp vụ thị trường mở thuận tiện hơn trong thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia của mình.
Hối phiếu có vai trò thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội,
Do hối phiếu được hình thành chủ yếu trong quan hệ mua bán chịu hàng hóa nên
thúc đẩy quan hệ thương mại phát triển –lưu thông hàng hoá đẩy nhanh kích thích
sản xuất kinh doanh làm lành mạnh hoá quan hệ thanh toán trong nền kinh tế.
Việc sử dụng hối phiếu sẽ làm giảm áp lực về vốn đối với các doanh nghiệp
trong nền kinh tế đồng thời giúp các doanh nghiệp có thể bổ sung nguồn vốn thực
của mình khi có nhu cầu làm tăng cơ hội kinh doanh cho các thương nhân, vì cơ
hội mua hàng không chỉ thuộc về các thương nhân có tiền mà cơ hội được san sẻ
cho cả các thương nhân tạm thời không có khả năng thanh toán ngay tiền hàng.
Việc sử dụng hối phiếu còn góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm và độ
tin tưởng lẫn nhau giữa các thương nhân. Ưu điểm này được thể hiện rõ nét trong
quá trình phát hành và thanh toán hối phiếu có kèm bộ chứng từ. Theo đó, người
thụ hưởng hay người cầm giữ muốn được thanh toán thì phải đảm bảo đã thực hiện
đầy đủ các nghĩa vụ của mình
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên thì việc sử dụng hối phiếu cũng

chứa đựng nhiều rủi ro, cụ thể như:
Một là, do hối phiếu có tính độc lập tương đối đối với các giao dịch cơ sở
nên dễ tạo khe hở cho những hối phiếu khống. Đây là việc phát hành hối phiếu
không trên cơ sở quan hệ mua bán hàng hóa giữa các thương nhân mà các bên thỏa
thuận phát hành hối phiếu nhằm mục đích đem chiết khấu tại ngân hàng để lấy
tiền.


Hai là, đối với những hối phiếu không có bảo lãnh hay khả năng tài chính
của người có nghĩa vụ thanh toán không rõ ràng cũng có thể đem đến những rủi ro
trong thanh toán đối với người nhận chuyển nhượng, người thụ hưởng hối phiếu.
5. Các nghiệp cụ liên quan đến sử dụng hối phiếu:
- Chấp nhận hối phiếu: (Acceptance)
Hối phiếu sau khi được ký phát phải được xuất trình cho người trả tiền để người
này ký chấp nhận trả tiền, nhất là đối với hối phiếu có kỳ hạn. Một hối phiếu đã
được ký chấp nhận mới có sự tin cậy trong thanh toán. Thời hạn chấp nhận có thể
được giải thích theo hai trường hợp sau đây:
Thứ nhất, nếu hai bên không có quy định gì khác thì theo luật quy định thời hạn
chấp nhận là 12 tháng kể từ ngày ký phát hối phiếu.
Thứ hai, nếu hai bên quy định rõ với nhau trong hợp đồng mua bán hoặc trong
thư tín dụng thời hạn cụ thể phải xuất trình hối phiếu để chấp nhận, thì hối phiếu
phải được xuất trình để chấp nhận trong thời hạn đó.
- Ký hậu hối phiếu: (Endorsement)
Ký hậu hối phiếu là hình thức để chuyển nhượng hối phiếu. Người hưởng lợi
muốn chuyển nhượng hối phiếu cho người khác thì phải ký vào mặt sau của tờ hối
phiếu rồi chuyển hối phiếu cho người đó.
Ký hậu được ghi ở mặt sau của hối phiếu dưới 4 hình thức sau đây:
Ký hậu trắng (Blank endorsement) là việc ký hậu không chỉ định người được
hưởng quyền lợi hối phiếu do thủ tục ký hậu mang lại. Người ký hậu chỉ ký tên ở
mặt sau của hối phiếu hoặc nếu có ghi thì chỉ ghi chung chung như “trả cho..”. Với

cách ký hậu này, người nào cầm hối phiếu sẽ trở thành người được hưởng quyền


lợi hối phiếu và việc chuyển nhượng kế tiếp của người cầm phiếu này không cần
phải ký hậu nữa, chỉ cần trao tay là đủ. Người cầm phiếu có thể chuyển hình thức
ký hậu trắng này sang hình thức ký hậu khác.
Ký hậu theo lệnh (To order endorsement) là việc ký hậu chỉ định một cách suy
đoán ra người hưởng lợi hối phiếu do thủ tục ký hậu mang lại. Người ký hậu chỉ
cần ghi câu “trả theo lệnh ông X” và ký tên.Với cách ký hậu này , hối phiếu sẽ
được chuyển nhượng kế tiếp nhau đến khi nào người hưởng lợi cuối cùng không
ký hậu chuyển nhượng nưã nhưng phải trước khi hối phiếu đến hạn trả tiền. Vì vậy,
ký hậu theo lệnh là loại ký hậu rất thông dụng trong thanh toán quốc tế.
Ký hậu hạn chế (Restritive endorsement) là việc ký hậu chỉ định rõ ràng người
được hưởng lợi hối phiếu và chỉ người đó mà thôi. Đối với loại ký hậu này,không
thể chuyển nhượng tiếp hối phiếu này cho người khác bằng thủ tục ký hậu nữa.
Ký hậu miễn truy đòi (Without recourse endorsement) là việc ký hậu mà người
ký hậu ghi thêm câu “Miễn truy đòi người ký hậu” cùng với một trong ba loại ký
hậu nêu trên. Đối với loại ký hậu này, trong trường hợp này, một khi hối phiếu bị
từ chối trả tiền thì không được truy đòi lại tiền của người ký hậu trực tiếp của
mình. Nếu hối phiếu có nhiều người ký hậu theo lệnh đều ghi chữ “miễn truy đòi”
vào chỗ ký hậu của mình, còn có một hay nhiều người không ghi chữ “miễn
truy đòi” thì đương nhiên những người này không được hưởng quyền miễn truy
đòi nên nếu như hối phiếu bị từ chối thanh toán thì họ phải đứng ra thanh toán cho
người hưởng lợi kế tiếp. Ký hậu miễn truy đòi cũng là một loại ký hậu được sử
dụng nhiều trong thanh toán quốc tế.
-

Bảo lãnh hối phiếu (Aval)



Bảo lãnh hối phiếu là sự cam kết của người thứ ba trả tiền cho người hưởng lợi
khi hối phiếu đến kỳ trả tiền. Hình thức văn tự thông thường của sự bảo lãnh được
ghi bằng chữ “bảo lãnh” và người bảo lãnh ký tên.
Từ chối trả tiền hối phiếu - kháng nghị (Protest)
Khi đến hạn trả tiền của hối phiếu mà người trả tiền từ chối thì người hưởng lợi
phải chứng thực sự từ chối đó bằng một văn bản kháng nghị. Bản kháng nghị do
người hưởng lợi lập ra trong thời hạn 2 ngày làm việc liên tiếp sau ngày hết hạn
của hối phiếu. Sau khi lập bản kháng nghị, trong vòng 4 ngày làm việc, người bị từ
chối trả tiền phải báo cho người chuyển nhượng trực tiếp để đòi tiền hoặc có thể
đòi tiền bất cứ người nào đã ký hậu chuyển nhượng hối phiếu hoặc đòi người ký
phát hối phiếu. Nếu không có bản kháng nghị về việc từ chối trả tiền thì người
được chuyển nhượng được miễn trách nhiệm trả tiền hối phiếu, nhưng người
ký phát và người chấp nhận phải chịu trách nhiệm này đối với người kháng nghị.

II. Thực trạng sử dụng hối phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam:
1. Những thuận lợi và khó khăn trong việc sử dụng hối phiếu.
a. Thuận lợi:
- Do đặc điểm tình hình kinh tế, số lượng doanh nghiệp ở Việt Nam tăng mở
rộng qui mô.
- Gia nhập ASIAN,AFTA,APEC,WTO…mở rộng quan hệ gia lưu thương
mại. Đòi hỏi doanh nghiệp tìm hiểu, sử dụng các phương thức, phương tiện
thanh toán phổ biến trong quan hệ thương mại quốc tế, tín dụng thương
mại quốc tế như séc, hối phiếu đòi nợ…
- Đảng Nhà nước quan tâm và có nhiều giải pháp để phát triển hoạt động tín
dụng thương mại.
- Việc ban hành luật mới vế công cụ chuyển nhượng ở Việt Nam tạo cơ sở
pháp lí cho hoạt động tín dụng thương mại. Thúc đẩy giao lưu thương mại


thông qua công cụ thanh toán, tín dụng mới cho nền kinh tế tăng khả năng

lưu thông của các công cụ chuyển nhượng.
b. Khó khăn:
- Các doanh nghiệp, các nhà sản xuất kinh doanh hiểu biết còn rất ít hoặc còn
hiểu mơ hồ về công cụ chuyển nhượng.
- Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ hối phiếu (Người bán chịu hàng
hoá,người được chuyển nhượng hối phiếu, ngân hàng bảo lãnh…) chưa thật
sự có lòng tinđối với hối phiếu và khả năng chuyển hoá ra tiền của thương
phiếu khi đến hạn.
- Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có những thông tư hướng dẫn cụ thể về việc
thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu, chưa ban hành
mẫu biểu cụ thể cho thương phiếu để nó có thể trở thành một công cụ lưu
thông tín dụng pháp định có thể thay thế cho tiền mặt trong lưu thông
- Pháp lệnh hối phiếu vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng nên tính khả thi vẫn
còn kém. Chính vì những khó khăn trên mà trong thời gian qua, hối phiếu và
các nghiệp vụ liên quan đến hối phiếu vẫn chưa đi vào đời sống kinh tế ở
Việt Nam.
2. Thực trạng sử dụng hối phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam:
a. Những điểm hiệu tích cực hối phiếu đem lại:
Vì pháp luật về hối phiếu ở Việt Nam chưa hoàn chỉnh nên luật áp dụng cho
quan hệ phát hành, sử dụng hối phiếu trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và
hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng của các doanh nghiệp Việt Nam thường là
Luật Thống nhất về hối phiếu của Công ước Geneva năm 1930 hoặc Luật Hối
phiếu 1882 của Vương Quốc Anh, các doanh nghiệp Việt Nam không thể thoả
thuận, lựa chọn pháp luật của Việt Nam để điều chỉnh. Trong quan hệ mua bán
trong nước, các doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa sử dụng hối phiếu làm công cụ
thanh toán phổ biến, các ngân hàng thương mại chưa có đủ điều kiện để cho các


doanh nghiệp vay vốn dưới hình thức chiết khấu hối phiếu hoặc có đảm bảo bằng
cầm cố hối phiếu.

Trước thực trạng về khung pháp lý và tình hình sử dụng hối phiếu, séc ở Việt
Nam, Chính phủ đã trình Quốc hội xây dựng Luật Hối phiếu nhằm bảo hộ, khuyến
khích việc hình thành, phát triển và sử dụng các loại hối phiếu trong đời sống kinh
tế, xã hội của đất nước, tạo cơ sở pháp lý phù hợp hơn với thể chế, chuẩn mực và
thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI, Dự thảo Luật Hối phiếu đã được các đại
biểu Quốc hội cho ý kiến. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các Đại biểu Quốc hội,
Ban soạn thảo Luật đã hoàn thành việc chỉnh lý Dự thảo (lần 9) Luật Hối phiếu
trình Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách Quốc hội xem xét, chuẩn bị trình Quốc hội
thông qua tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khoá XI.
Theo dự thảo lần 9, Luật Hối phiếu điều chỉnh các quan hệ liên quan đến hối
phiếu trong việc phát hành, chấp nhận, chuyển nhượng, bảo lãnh, cầm cố, thanh
toán, truy đòi, khởi kiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
hối phiếu quy định trong Luật bao gồm hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và séc;
người ký phát, người phát hành chỉ được phát hành hối phiếu trên cơ sở các quan
hệ thương mại, quan hệ tín dụng hoặc quan hệ thanh toán.

Các ngân hàng mở rộng các nghiệp vụ liên quan đến thanh toán bẳng hối phiếu
giúp cho các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn, từ đó nâng cao chất
lượng và hiệu quả kinh doanh.Ngoài ra trong quá trình phát triển các nghiệp vụ
thanh toán bằng hối phiếu, các tổ chức tài chính trung gian đã không chỉ đưa hối
phiếu trở thành công cụ hữu ích trên thị trường vốn ngắn hạn mà còn góp phần đẩy


nhanh tiến độ hội nhập của thị trường tài chính Việt Nam với thị trường tài chính
thế giới.
Các doanh nghiệp xuất khẩu được sử dụng dịch vụ chiết khấu hối phiếu của các
ngân hàng. Theo đó, khi xuất khẩu hàng hóa sang nước ngoài, ngay sau khi giao
hàng, doanh nghiệp chỉ cần mang hối phiếu cùng với bộ chứng từ xuất khẩu đến
ngân hàng để được chiết khấu tối đa tới 100% giá trị bộ chứng từ. Với dịch vụ

chiết khấu hối phiếu của ngân hàng, doanh nghiệp không cần phải có tài sản bảo
đảm khác ngoài hối phiếu và bộ chứng từ, được hưởng lãi suất chiết khấu cạnh
tranh (thấp hơn tối đa tới 20% so với lãi suất cho vay thông thường). Một số ngân
hàng cũng áp dụng hình thức chiết khấu dạng miễn truy đòi; Thời gian chiết khấu
lên đến 6 tháng… cùng nhiều tiện ích khác dành cho doanh nghiệp.

b. Những tồn tại trong việc sử dụng hối phiếu:
Cơ sở pháp lý còn nhiều lỗ hổng và thiếu đồng bộ: Năm 1991 sau khi Hội đồng
Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về Ngân hàng, hệ thống ngân hàng từ một cấp
chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp: các giao dịch thanh toán trong nền kinh
tế thông qua NHNN, các tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước, để thực hiện Pháp
lệnh và phù hợp với những đòi hỏi của các tổ chức, cá nhân trong giai đoạn đổi
mới, Chính phủ ban hành Nghị định số 91/CP ngày 25/11/1993 về tổ chức công tác
thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) thay thế Nghị định số 04/CP ngày
7/3/1960 về thể lệ TTKDTM và Nghị định số 15/CP ngày 31/5/1960 quy định


những nguyên tắc thanh toán bằng tiền mặt. Sau đó, ngày 20/9/2001, Chính phủ
ban hành Nghị định số 64/2001/NĐ-CP về hoạt động thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán thay cho Nghị định số 91/CP, đến nay, Nghị định này
vẫn còn hiệu lực thi hành; dù tên gọi hai nghị định có khác nhau nhưng nội dung cả
2 nghị định trên đều quy định “ Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa
vụ đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu về gửi và rút tiền mặt của người sử dụng
dịch vụ thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật” (điều 13). Sau khi thực
hiện công cuộc đổi mới kinh tế nói chung, đổi mới hoạt động ngân hàng nói riêng
thì tất cả những quy định về quản lý tiền mặt đã từng được sử dụng trước đó đều bị
loại bỏ hoặc các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành nhưng không đi vào
cuộc sống.
Do vậy, tiền mặt đã nghiễm nhiên trở thành một công cụ thanh toán không hạn chế
về đối tượng và phạm vi sử dụng. Đây cũng chính là nguyên nhân để tạo ra một

thói quen trong dân chúng, trong các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế trong nền
kinh tế, đó là “việc ưa thích sử dụng tiền mặt trong thanh toán”. Có những quan
điểm cho rằng trong kinh tế thị trường thì Nhà nước không thể bắt ép các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế phải sử dụng phương thức này hoặc phương thức khác
trong thanh toán, việc sử dụng tiền mặt, séc hay uỷ nhiệm chi... để thanh toán cho
nhau. Đây là quan điểm hết sức sai lầm, bởi dù là kinh tế thị trường nhưng vì lợi
ích chung của nền kinh tế, mọi công dân, doanh nghiệp đều phải tuân thủ pháp
luật, trong đó có pháp luật về thanh toán. Thực tế cho thấy rằng, sau khi thực hiện
công cuộc đổi mới kinh tế, ngành Ngân hàng đã có nhiều đổi mới rất quan trọng,
nhưng trong lĩnh vực thanh toán thì không những chưa được đổi mới để phát triển
mà còn gần như bị buông lỏng. Do vậy, tình trạng nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam
đã kéo dài trong nhiều năm là do không có một hành lang pháp lý ngay từ đầu; Nhà
nước không quản lý và cũng không kiểm soát việc thanh toán giữa các doanh


nghiệp, tổ chức kinh tế và giữa các tầng lớp dân cư với nhau, sự buông lỏng của
Nhà nước trong quản lý tiền mặt vô hình chung đã tạo cho kinh tế “ngầm” phát
triển.
Luật Các công cụ chuyển nhượng có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2006
nhưng đến nay, Chính phủ chưa ban hành Nghị định quy định thi hành, tuy NHNN
đã ban hành Quyết định số 44/2006/QĐ-NHNN ngày 5/9/2006 quy định về thủ tục
nhờ thu hối phiếu qua người thu hộ, đến nay trên thực tế, hối phiếu chưa được các
tổ chức kinh tế sử dụng trong giao dịch thương mại và chiết khấu tại các NHTM,
ngày 11/7/2006, Thống đốc NHNN ra Quyết định 30/2006/QĐ-NHNN về Quy chế
cung ứng và sử dụng séc, nhưng đến nay, séc vẫn chưa được nhiều người sử dụng,
vì NHNN vẫn chưa thành lập được các trung tâm bù trừ séc, qua đây có thể thấy
Luật Các công cụ chuyển nhượng đã ban hành nhưng chưa đi vào cuộc sống.
Ở Việt Nam, hiện nay, các doanh nghiệp và các ngân hàng đã sử dụng hối
phiếu trong thanh toán quốc tế theo thông lệ quốc tế. Trong thanh toán nội địa, đặc
biệt là ở các chợ đầu mối, việc mua bán chịu đã xuất hiện những“giấy nhận nợ”

hay “giấy đòi nợ” do người bán hàng hoặc người thanh toán phát hành để mua-bán
chịu lẫn nhau nhưng chưa được Pháp lệnh điều chỉnh. Bộ luật Dân sự và Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế cũng chỉ có một số nội dung điều chỉnh đối với thương phiếu;
Luật Thương mại (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7 đã bỏ
chương về thương phiếu.
Các tổ chức tín dụng đã cho phép các tổ chức tín dụng được cấp tín dụng
dưới hình thức chiết khấu hối phiếu. Nhưng hoạt động chiết khấu hối phiếu vẫn
chưa trở thành kênh cấp tín dụng của các tổ chức này, vì các văn bản hướng dẫn về
nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu chưa được ban hành và hối phiếu cũng chưa được
sử dụng trên thực tế. Bên cạnh đó, một trong những nguyên nhân làm cho hoạt


động của thị trường tiền tệ còn hạn chế là do thiếu các công cụ của thị trường. Việc
thiếu công cụ này xuất phát từ bất cập của quy định pháp luật về hối phiếu.
Rủi ro do việc sử dụng hối phiếu trong hoạt động thương mại còn chưa có
các biện pháp phòng ngừa kịp thời,hiệu quả: hiện nay các doanh nghiệp được tham
gia trực tiếp xuất nhập khẩu, cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân
đều sử dụng hối phiếu. Hối phiếu do doanh nghiệp VN phát hành đòi tiền hàng
xuất cũng như hối phiếu do thương nhân nước ngoài lập đang áp dụng theo thông
lệ quốc tế. Tuy nhiên những bất cập của hành lang pháp lý cho sự vận hành của thị
trường hối phiếu là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong sử dụng hối
phiếu như: thiếu căn cứ pháp lý khi xảy ra tranh chấp, khởi kiện,..
Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ hối phiếu (Người bán chịu hàng hoá,người
được chuyển nhượng hối phiếu, ngân hàng bảo lãnh…) chưa thật sự có lòng tin đối
với hối phiếu và khả năng chuyển hoá ra tiền của hối phiếu khi đến hạn.
Chính từ những bất cập trên mà gần đây đã xảy ra việc sử dụng hối phiếu giả
để gửi ngân hàng hay mua bán hối phiếu giả. Điển hình trong đó là vụ c ơ quan An
ninh điều tra Công an Đồng Nai phát hiện vụ việc có dấu hiệu “tàng trữ, vận
chuyển lưu hành giấy tờ có giá giả” nên đã tạm giữ 3 người gửi hối phiếu vào ngân
hàng là Shieh Der Houa (còn gọi Lý Ngọc Thành, 60 tuổi, quốc tịch Trung Quốc,

trú tại quận 10, TP.HCM), Liên Văn Hào (68 tuổi, quê TP.HCM), Hồ Khả (54 tuổi,
là Giám đốc Công ty cổ phần Long Thuận Phát, tại P.Tam Hiệp, TP.Biên Hòa).
3. Các biện pháp nhằm đẩy mạnh việc sử dụng hối phiếu:
- Nhà nước cần có những chính sách để đẩy mạnh lưu thông hối phiếu, tạo dựng
một hành lang pháp lý cho sự tồn tại và cho việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan
đến hối phiếu được an toàn và thuận lợi. Vì khi hoạt động xuất nhập khẩu sử dụng
hối phiếu là một phương tiện quan trọng trong thanh toán. Nên cần tăng cường lưu


thông hối phiếu chính là việc bôi trơn hoạt động thương mại quốc tế giúp các
doanh ngiệp tăng lợi nhuận nhà nước tăng thuế.
Các quy định về phát hành và đưa hối phiếu vào lưu thông phải rỏ ràng, thuận tiện
cho doanh nghiệp, tránh rườm rà, và những rủi ro có thể xáy ra khi doanh nghiệp
sử dụng hối phiếu trong thanh toán quốc tế. Tăng tính khả dụng của hói phiếu.
- Tạo điều kiện và thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất nhập khẩu những hàng hóa có
giá trị lớn. Khi đó các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam sẽ sử dụng hối phiếu để sử
dụng thanh toán cho lô hàng xuất khẩu đó do tính rủi ro vì giá trị của lô hàng rất
lớn. Lúc này người bán chỉ chấp nhận bán lô hàng khi hối phiếu cho doanh thu bán
hàng đó được lập. Hối phiếu đó có thể là hối phiếu trả ngay hay hối phiếu kỳ hạn.
- Trong điều kiện thương mại quốc tế hiện nay, các doanh nghiệp cúng có thể nghi
ngờ khả năng thanh toán của bên kia. Vì hối phiếu là một mệnh lệnh yêu cầu trả
tiền vào một khoảng thời gian xác định với một người cụ thể hay người giữ hối
phiếu. Do đó bên bán khi nghi ngờ khả năng thanh toán của bên kia sẽ sử dụng hối
phiếu để làm giảm bớt tính rủi ro có thể xảy ra khi bên mua không đủ khả năng
thanh toán . khi đó bên mua sẽ được bên mua đề nghị yêu cầu một ngân hàng đứng
ra chấp nhận trả thanh toán hối phiếu cho bên ký phát. Nếu ngân hàng đồng ý,
nghĩa là ngân hàng chấp nhận một khoản tín dụng cho bên mua để họ thanh toán
cho bên bán khi hối phiếu đến hạn.
Đối với ngân hàng kể từ khi chấp nhận trả tiền hối phiếu chính là thời điểm gánh
chịu rủi ro nếu bên mua không có tiền thanh toán cho bên bán khi hối phiếu đến

hạn thanh toán.
- Cần phát huy những ưu điểm hạn chế những nhược điểm của hối phiếu để tăng
độ tin cậy của doanh nghiệp sử dụng hối phiếu trong thanh toán quốc tế.



×