Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Các tội phạm tham nhũng theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.5 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ THỊ THANH ĐỨC

CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ THỊ THANH ĐỨC

CÁC TỘI PHẠM THAM NHŨNG
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH)
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS TRỊNH QUỐC TOẢN


Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên

Ngô Thị Thanh Đức


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ Đ U .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ V N ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM THAM
NHŨNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................ 6
1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội phạm tham nhũng ........................................... 6
1.1.1. Khái niệm các tội phạm tham nhũng ...................................................... 6
1.1.2. Các đ c điểm cơ bản của các tội phạm tham nhũng .............................. 9
1.2. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về các tội phạm tham nhũng . 12
1.2.1. iai đoạn trư c Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ............................ 13

1.2.2.

iai đoạn t sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trư c khi ban

hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ...................................................... 17
1.2.3. iai đoạn t sau khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến
trư c khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ............................................... 20
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI PHẠM THAM NHŨNG TRONG
BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................. 24
2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm tham nhũng và hình phạt
áp dụng .................................................................................................................................... 24
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý đ c trưng của các tội phạm tham nhũng ............. 24
2.1.2. Hình phạt áp dụng đối v i các tội phạm tham nhũng ............................ 35
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội
phạm tham nhũng của các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Nam Định........... 37
2.2.1. Khái quát tình hình xét xử các tội phạm tham nhũng trên cả nư c.............. 37
2.2.2. Thực tiễn xét xử các tội phạm tham nhũng trên địa bàn t nh Nam Định
......................................................................................................................... 39
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót trong áp dụng các quy định về
các tội phạm tham nhũng trong Bộ luật hình sự năm 1999 ............................. 47

4


Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TỘI PHẠM THAM
NHŨNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ............... 61
3.1. Một số kiến nghị tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về
các tội phạm tham nhũng....................................................................................................... 61
3.1.1. Một số nội dung m i trong Bộ luật hình sự năm 2015 về các tội phạm

tham nhũng ...................................................................................................... 61
3.1.2. Một số kiến nghị tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình
sự năm 2015 về các tội phạm tham nhũng ....................................................... 65
3.2. Một số biện pháp nâng cao hiệu qu áp dụng các quy định về tội phạm
tham nhũng ............................................................................................................................ 75
3.2.1. Đổi m i phương thức đào tạo, nâng cao trình độ chính trị, phẩm chất
đạo đức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm của đội ngũ
cán bộ tư pháp ................................................................................................. 75
3.2.2. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát v i Cơ quan điều tra,
Tòa án .............................................................................................................. 78
3.2.3. Thực hiện tốt cơ chế: Kiểm soát, giám sát quyền lực; xử lý nghiêm minh
và đãi ngộ hợp lý ............................................................................................. 78
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82

5


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

BLHS

CTTP

Cấu thành tội phạm

KTXH


Kinh tế - xã hội

LHQ

Liên hợp quốc

PCTN

Phòng, chống tham nhũng

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

PLHS

Pháp luật hình sự

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

UBTVQH

Ủy Ban Thường vụ Quốc hội


BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

6


MỞ Đ U
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Các tội phạm về tham nhũng được quy định tại Mục A, Chương XXI,
Bộ luật hình sự năm 1999; sửa đổi, bổ sung năm 2009. Các tội phạm tham
nhũng trên có thể gây ra rất nhiều hậu qu nghiêm trọng trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội, là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói
mòn lòng tin của nhân dân đối với Đ ng, Nhà nước. Các tội phạm tham
nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đ o lộn những chuẩn mực đạo đức
xã hội, tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước [1,tr12].
Các tội phạm về tham nhũng hiện nay đang là những loại tội phạm phổ
biến, tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng cao, hậu qu của các tội phạm
này nghiêm trọng và khó khắc phục, do đó nghiên cứu, đánh giá thực trạng
các loại tội phạm này, xác định tính chất, mức độ, xu hướng diễn biến trong
thời gian tới, phân tích nguyên nhân phạm tội của loại tội phạm này, đề ra gi i
pháp ngăn chặn, gi m thiểu tội phạm giúp cho các cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền đề ra các chủ trương, chính sách, biện pháp ngăn chặn, gi m
thiểu tội phạm là rất cần thiết.
Đấu tranh phòng, chống các tội phạm nói chung, các tội phạm tham
nhũng nói riêng là nhiệm vụ quan trọng liên quan đến sự tồn vong, của chế độ

ta. Tuy nhiên, đây là cuộc đấu tranh hết sức phức tạp, đòi hỏi có sự lãnh đạo
toàn diện và tuyệt đối của Đ ng, sự chung tay, vào cuộc của c hệ thống chính
trị và sự tham gia tích cực của toàn xã hội.
Công tác đấu tranh, phòng, chống các tội phạm về tham nhũng trên
phạm vi toàn quốc nói chung và trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng trong
những năm qua đã được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo; tuy nhiên hiệu qu còn hạn chế.
Hiện nay, tình hình phạm tội liên quan đến chức vụ, quyền hạn ở nước
ta đã ở mức nghiêm trọng, đáng báo động. Những tội phạm này x y ra ở cấp
Trung ương, ở cấp địa phương, ở những chương trình, ở các dự án. Tác hại
1


nguy hiểm của những tội phạm về tham nhũng nh hưởng trực tiếp đến hiệu
qu của việc thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và
một số nhiệm vụ qu n lý nhất định của Nhà nước. Điều đáng báo động đối
với những tội phạm về tham nhũng, quyền hạn dường như đã trở thành bình
thường trong quan niệm của một số cán bộ, công chức, viên chức... Đó chính
là biểu hiện của sự suy thoái, xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức [3,tr 21].
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về nguyên nhân, thực trạng các tội phạm
về tham nhũng; gi i pháp phòng, chống loại tội phạm này trên phạm vi c
nước. Tuy nhiên, nghiên cứu, đề xuất các gi i pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu qu áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 đối với các tội
phạm về tham nhũng tại địa bàn tỉnh Nam Định hiện chưa có một nghiên cứu
chính thức nào.
Từ những lý do trên tôi chọn nghiên cứu đề tài “Các tội phạm tham
nhũng theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh
Nam Định)" làm luận văn thạc sỹ luật học.
2 Tình hình nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm tham nhũng mặc dù không

ph i là vấn đề mới, nhưng nó là vấn đề khá phổ biến và quan trọng trong luật
hình sự Việt Nam, do đó, dưới góc độ các công trình nghiên cứu, sách, báo, tạp
chí đã được các tác gi , nhà nghiên cứu, học viên quan tâm nghiên cứu đề cập
trực tiếp hoặc gián tiếp dưới các góc độ khác nhau, trong đó:
+ Các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án: Các Tội phạm về
tham nhũng trong Luật hình sự Việt Nam, Trần Văn Đạt, Luận án Tiến sĩ
(2012); Các Tội phạm về tham nhũng trong luật Hình sự Việt Nam, Trần Văn
Đạt, Luận văn thạc sĩ luật (2002); Đấu tranh phòng chống các tội phạm tham
nhũng trong thành phố Hồ Chí Minh, Dương Ngọc H i, Luận văn thạc sỹ luật,
trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011; Tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự
Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Trần Quang Sơn; Luận văn thạc sĩ
luật, Đại học luật Hà Nội, 2007...
2


+ Sách, báo, tạp chí: Trách nhiệm hình sự đối v i các tội phạm về tham
nhũng t những qui định của pháp luật hình sự hiện hành đến thực tiễn áp
dụng của Nguyễn Ngọc Tính, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, Số
1/2016, tr. 31 – 37; Một số ý kiến góp ý đối v i phần các tội phạm về tham
nhũng trong Dự th o Bộ luật hình sự (sửa đổi 2015), Hoàng Đình Thanh, tập
chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật, Số 9/2015, tr. 55 – 60;
Một số ý kiến đóng góp về chương XXIII các tội phạm về tham nhũng trong dự
thảo Bộ Luật Hình sự (sửa đổi 2015) của Trương Thế Nguyễn, Thanh tra, tạp
chí Thanh tra chính phủ, Số 9/2015, tr. 35- 36; óp phần hoàn thiện một số quy
định đối v i các tội phạm về tham nhũng trong Bộ luật Hình sự năm 1999,
Nguyễn Ngọc Tính , Kiểm sát, Tạp chí Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số
22/2015, tr. 23 – 29, 42; Các tội đưa và nhận hối lộ của Luật hình sự Hoa Kỳ
trong sự so sánh v i Luật hình sự Việt Nam của Trần Hữu Tráng, tạp chí Luật
học Số 12/2010. H.; Đại học Luật Hà Nội; 2010. - tr. 51-60…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên đã làm rõ được các vấn

đề về cấu thành tội phạm các tội phạm về tham nhũng, khát quát được lịch sử
lập pháp về các tội phạm này và thực tiễn áp dụng xét xử các tội phạm về tham
nhũng trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, các công trình này chưa làm nổi bật
được các vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về
tham nhũng, với tư cách là hậu qu pháp lý bất lợi áp dụng đối với người có
hành vi phạm tội thuộc nhóm các tội phạm về tham nhũng… từ đó, đánh giá
các quy định của BLHS năm 1999 về vấn đề này, phát hiện tồn tại, bất cập, qua
đó kiến gi i hoàn thiện pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở các kết qu nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật và
thực tiễn áp dụng quy định các tội phạm tham nhũng theo Luật hình sự Việt
Nam, luận văn đề xuất các gi i pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
qu áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 đối với các tội phạm về tham
3


nhũng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu những
nội dụng sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, sự cần thiết quy định các tội phạm
tham nhũng theo Luật hình sự Việt Nam
- Nghiên cứu lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam quy định các tội phạm
tham nhũng.
- Nghiên cứu, so sánh quy định về các tội phạm tham nhũng trong Luật
hình sự Việt nam với một số nước.
- Các dấu hiệu pháp lý và đường lối xử lý đối với các tội phạm tham
nhũng theo Bộ luật hình sự năm 1999.
- Thực tiễn áp dụng các quy định đối với tội phạm tham nhũng, những

tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó trong áp dụng các quy định về các tội
này.
- Đề xuất các gi i pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu qu áp dụng quy
định về các tội phạm tham nhũng trong BLHS năm 1999.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài có đối tượng nghiên cứu là các tội phạm tham nhũng trên cơ sở
xét xử thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định.
- Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn tỉnh Nam Định.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ
nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, các quan điểm, chính
sách hình sự của Đ ng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: nghiên cứu tài
liệu kết hợp với phân tích, so sánh, tổng hợp logic lịch sử, tổng hợp, phân
tích, thống kê...

4


6 Tính mới và nh ng đ ng g p của đề tài
- Phân tích chuyên sâu về khái niệm, đặc điểm, cơ sở và ý nghĩa của
trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm tham nhũng.
- Khái quát quá trình phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm tham nhũng và so sánh với
các tội phạm tham nhũng tại một số quốc gia trên thế giới (Luật hình sự một số
quốc gia trên thế giới).
- Phân tích các vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm tham nhũng trên địa bàn tỉnh Nam Định.
- Phân tích những bất cập còn tồn tại về lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật liên quan đến vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các tội tham nhũng.

- Kiến nghị gi i pháp hoàn thiện thiện quy định của pháp luật hình sự
cũng như nâng cao hiệu qu áp dụng đối với các tội tham nhũng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham kh o,
luận văn có nội dung gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về các tội phạm tham nhũng theo Luật
hình sự Việt Nam;
Chương 2: Các quy định về các tội phạm tham nhũng theo Bộ Luật
hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Nam Định;
Chương 3: Một số gi i pháp hoàn thiện các quy định đối với các tội
phạm tham nhũng trong Bộ Luật hình sự năm 1999 và nâng cao hiệu qu áp
dụng tại địa bàn tỉnh Nam Định.

5


Chương 1
MỘT SỐ V N ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM THAM NHŨNG TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1 1 Khái niệm và đặc điểm của các tội phạm tham nhũng
1.1.1. Khái niệm các tội phạm tham nhũng
Tội phạm tham nhũng là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, mang
tính lịch sử. Sự hình thành, phát triển của tội phạm về tham nhũng nói riêng
và tệ nạn tham nhũng nói chung gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra
đời, phát triển của bộ máy nhà nước. Tội phạm tham nhũng diễn ra ở tất c
các quốc gia trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, điều kiện và trình
độ phát triển kinh tế - xã hội. Tội phạm tham nhũng diễn ra thường xuyên
và luôn tồn tại ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gây ra những hậu qu hết
sức nguy hại về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, c n trở sự phát triển đi
lên của xã hội, thậm chí có thể dẫn đến sự sụp đổ của c một thể chế [4, tr

02].
Tội phạm tham nhũng xuất hiện khi một người được giao một quyền
lực nhất định và người đó đã sử dụng quyền lực được giao để thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội và
của công dân nhằm mục đích vụ lợi.
Tội phạm tham nhũng luôn luôn gắn liền với yếu tố quyền lực, không
có quyền lực thì không thể có tội phạm tham nhũng. Đối với một người có
quyền lực phạm tội tham nhũng, thì quyền lực đó được thể hiện ở việc người
đó được giao một chức vụ, quyền hạn nhất định. Người được giao chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi trái
với các quy định của pháp luật, xâm phạm đến uy tín và hoạt động đúng đắn
của các cơ quan, tổ chức, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của
công dân nhằm mục đích vụ lợi. Tuy nhiên, không ph i lúc nào người có chức
vụ, quyền hạn cũng có thể lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực
6


hiện hành vi xâm hại các quan hệ xã hội được luật hình sự b o vệ, mà ph i
trong những điều kiện, hoàn c nh và lý do nhất định như: do hạn chế của pháp
luật, chế độ qu n lý cán bộ, công chức lỏng lẻo, yếu kém hoặc do thờ ơ, thiếu
trách nhiệm với nhiệm vụ được giao v.v... Đồng thời, hành vi lợi dụng chức
vụ, quyền hạn ph i gắn liền với việc thi hành công vụ của người có chức vụ,
quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực
hiện hành vi trái pháp luật trên cơ sở công vụ được giao và người đó có quyền
hạn nhất định đối với công vụ đó [4, tr2].
Để tìm hiểu khái niệm tội phạm tham nhũng cần ph i đi từ khái niệm
người có chức vụ. Trong Bộ luật Hình sự, các tội phạm do người có chức vụ,
quyền hạn thực hiện không chỉ bao gồm các tội phạm tham nhũng mà còn bao
gồm các tội phạm được quy định ở các chương khác. Mặt khác, công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện cho

thấy còn gặp những khó khăn vướng mắc nhất định, một số quy định của pháp
luật về vấn đề này còn trừu tượng, chung chung, khó gi i thích, khó áp dụng
nhất là trong tình hình xã hội hiện nay đã có nhiều sự chuyển biến, thay đổi
trên các phương diện khác nhau, nhiều lĩnh vực đã được xã hội hóa (những
công việc trước đây chỉ có nhà nước đ m trách giờ đã được giao cho nhân dân
cùng làm)… Vì vậy, về mặt nhận thức cần có sự thống nhất trong việc xác
định như thế nào là người có tham nhũng, và thế nào là lợi dụng chức vụ để
phạm tội? Đó chính là nội dung chúng tôi muốn trao đổi trong bài viết này.
Trước hết, khái niệm người có chức vụ được quy định tại Điều 277 Bộ
luật Hình sự 1999 như sau: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu
cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không
hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn
nhất định trong khi thực hiện công vụ”.
Theo khái niệm này, có rất nhiều căn cứ khác nhau để xác định một
người có chức vụ như do được bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức khác…Hình thức khác ở đây có thể hiểu là bất cứ hình thức
7


nào mà gắn những quyền năng nhất định của chủ thể với chức vụ mà họ có.
Như vậy, trong khái niệm này theo chúng tôi người có chức vụ có thể được
hiểu một cách ngắn gọn là “người được giao thực hiện công vụ (mang tính
chất hợp pháp) và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ đó”.
Chẳng hạn: Bác sĩ được giao nhiệm vụ khám sức khoẻ để tuyển dụng cán bộ,
viên chức; thủ kho được giao nhiệm vụ qu n lý kho hàng của công ty, dân
phòng đang đuổi bắt tội phạm… Tất c những người này đều được coi là
người có chức vụbởi vì họ được giao thực hiện công vụ vì lợi ích chung của
toàn xã hội và có những quyền năng nhất định trong khi thi hành công vụ.
Trong Bộ luật hình sự năm 2015 cũng đưa ra khái niệm người có chức
vụ như sau: Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng

hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được
giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi
thực hiện công vụ, nhiệm vụ [45, tr 03].
Theo quy định của Điều 352 BLHS năm 2015 các tội phạm tham nhũng
trong pháp luật hình sự là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của
cơ quan, tổ chức do người có chức vụ (là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do
hợp đồng hoặc do một hình thức khác có hưởng lương hoặc không hưởng
lương được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định
trong khi thực hiện công vụ) thực hiện trong khi thi hành công vụ, xâm phạm
hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Các tội phạm tham nhũng trực
tiếp xâm hại sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội. Xâm hại đến quan hệ sở hữu Nhà nước và xâm hại đến quyền và lợi ích
hợp pháp cơ b n của công dân. Trong đó, hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ
chức là những hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ do pháp luật hoặc điều lệ
quy định, những hoạt động này nhằm thực hiện chức năng và mục đích đã đề
ra. Ví dụ: Theo quy định của pháp luật thì cán bộ, công chức ph i chí công,
vô tư, không được lợi dụng chức vụ để trục lợi, nhưng trong cơ quan, tổ chức
nào đó có cán bộ đã tham ô, nhận hối lộ, hoặc lấy tiền của cơ quan, tổ chức
8


mà mình là thành viên để đưa hối lộ... là đã xâm phạm đến hoạt động đúng
đắn của cơ quan, tổ chức đó. Có thể nói, những hoạt động đúng đắn của cơ
quan, tổ chức bị xâm phạm do các tội phạm về tham nhũng gây ra, chính là
những quy định của pháp luật hoặc của điều lệ buộc ph i làm mà không làm,
cấm không được làm thì lại làm. Những quy định cụ thể này được thể hiện
trong từng hành vi phạm tội cụ thể trong từng tội phạm về tham nhũng trong
chương này. Hành vi khách quan của các tội phạm tham nhũng là đa số các
tội phạm về tham nhũng được thể hiện bằng hành động. Đa số các tội phạm
tham nhũng có cấu thành tội phạm (CTTP) hình thức - tức là trong mặt khách

quan chỉ có dấu hiệu hành vi khách quan mà không có dấu hiệu hậu qu [7,tr
14].
Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm các tội phạm tham
nhũng như sau: Tội phạm tham nhũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong luật hình sự do người có chức vụ thực hiện trong khi
thực hiện công vụ bằng l i cố ý trực tiếp xâm phạm hoạt động đúng đắn của
cơ quan, tổ chức.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản c a các tội phạm tham nhũng
Thứ nhất, các tội phạm tham nhũng xâm phạm trực tiếp đến hoạt động
đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nư c, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân:
Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình
để thực hiện hành vi trái với công vụ được giao nhằm mục đích vụ lợi nhưng
không xâm hại đến uy tín và hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì không được coi
là tội phạm về tham nhũng mà chỉ là những vi phạm pháp luật khác của người
có chức vụ, quyền hạn. Thông thường, một người có chức vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thực hiện hành vi trái với công vụ
được giao, thì sẽ xâm hại đến uy tín và hoạt động đúng đắn của các cơ quan,
tổ chức, lợi ích của hà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là
9


những quan hệ xã hội được luật hình sự b o vệ. Hay nói cách khác, sự xâm
hại đến các quan hệ xã hội nói trên là hậu qu tất yếu của hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn làm trái với công vụ của người có chức vụ, quyền hạn.
Trên thực tế, người có chức vụ, quyền hạn mặc dù đã lợi dụng chức vụ, quyền
hạn của mình thực hiện hành vi trái với công vụ được giao nhằm mục đích vụ
lợi nhưng không xâm phạm đến những quan hệ xã hội nói trên hoặc mức độ
xâm hại đến những quan hệ xã hội đó chưa đến mức độ nguy hiểm cho xã hội,

thì hành vi đó không được coi là phạm tội tham nhũng [9, tr 22].
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, ở mỗi giai đoạn khác nhau,
PLHS quy định mức độ xâm hại đến các quan hệ xã hội của hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn của người có chức vụ, quyền hạn cũng khác nhau. Tuy
nhiên, cần khẳng định rằng, không thể quy kết bất kỳ một hành vi lợi dụng
chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ của người có chức vụ, quyền hạn là
phạm tội tham nhũng khi hành vi đó không xâm hại đến uy tín và hoạt động
đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân.
Thứ hai, trong các tội phạm tham nhũng, người có chức vụ lợi dụng
chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi trái v i công vụ.
Trên cơ sở quyền hạn được giao, trong khi thi hành công vụ, người có
chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi (hành động hoặc không hành động)
trái với công vụ được giao, trái với các quy định của pháp luật. Tội phạm về
tham nhũng bao giờ cũng được thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ với chức
năng, quyền hạn của người có chức vụ, quyền hạn. Hay nói một cách cụ thể
hơn, trong tất c các tội phạm về tham nhũng nhất thiết ph i có dấu hiệu lợi
dụng chức vụ, quyền hạn của người có chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành
vi trái công vụ được giao. Trường hợp không chứng minh được dấu hiệu lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái công vụ được giao, thì
không thể coi bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào của người có chức vụ,
quyền hạn là tội phạm về tham nhũng. Đối với các tội phạm khác, dấu hiệu lợi
10


dụng chức vụ, quyền hạn chỉ là tình tiết tăng nặng định khung trong BLHS.
Thứ ba, chủ thể của các tội phạm tham nhũng là người có chức vụ,
quyền hạn.
Chức vụ và quyền hạn là hai dấu hiệu quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng
không đồng nhất. Một người có chức vụ thì đương nhiên người đó có một số

quyền hạn nhất định. Tuy nhiên, một người có quyền hạn thì không nhất thiết
người đó ph i là người có chức vụ. Tùy theo từng cách tiếp cận, có nhiều
quan điểm về các dấu hiệu, điều kiện của người có chức vụ, theo các phạm vi
rộng, hẹp khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn các quan điểm đều thống nhất rằng,
người có chức vụ ph i là người thỏa mãn các điều kiện sau:
- Do bổ nhiệm, do dân cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác;
- Đang làm việc trong một cơ quan hoặc tổ chức;
- Có hưởng lương hoặc không hưởng lương;
- Được cơ quan, tổ chức, giao cho thực hiện một công vụ nhất định;
- Theo nhiệm vụ được giao, khi thực hiện công vụ, người đó có quyền
hạn nhất định [9, tr 35].
Thứ tư, các tội phạm tham nhũng được thực hiện bằng l i cố ý trực tiếp
và mục đích vụ lợi. Tội phạm về tham nhũng là các hành vi cố ý trực tiếp, có
mục đích. Mục đích của các tội phạm về tham nhũng ph i là mục đích vụ lợi.
Trường hợp một người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi không cố ý
hoặc không có mục đích vụ lợi thì hành vi đó không được coi là hành vi lợi
dụng chức vụ quyền hạn. Việc chứng minh dấu hiệu mục đích vụ lợi để từ đó
truy cứu trách nhiệm của người phạm tội luôn là vấn đề khó khăn, phức tạp
nhất trong các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng. Trước khi Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2005 được ban hành, trong các văn b n pháp luật về phòng,
chống tham nhũng của Việt Nam quy định về dấu hiệu vụ lợi chỉ dừng lại ở
các lợi ích vật chất có thể định lượng được một cách cụ thể. Điều này đã làm
hạn chế không nhỏ đến hiệu qu của công tác phòng, chống tham nhũng nói
chung và tội phạm về tham nhũng nói riêng. Để thống nhất về mặt nhận thức
11


và tạo cơ sở cho việc áp dụng pháp luật, tại kho n 5, Điều 2 Luật Phòng,
chống tham nhũng năm 2005 quy định: “Vụ lợi là lợi ích vật chất, tinh thần
mà người có chức vụ, quyền hạn đạt được hoặc có thể đạt được thông qua

hành vi tham nhũng” [42, tr 11].
Như vậy, dấu hiệu vụ lợi đối với các hành vi tham nhũng được xác
định, không chỉ riêng trường hợp người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được
lợi ích mà còn bao gồm c trường hợp người đó sẽ đạt được lợi ích trong
tương lai. Đồng thời, lợi ích bao gồm c lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần.
Theo quy định của BLHS năm 2015 thì ngoài các lợi ích vật chất thì các lợi
ích phi vật chất.
1.2 Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về các tội
phạm tham nhũng
Các tội phạm về tham nhũng là một hiện tượng mang tính lịch sử xã
hội, nó ra đời, tồn tại gắn với sự tồn tại của Nhà nước. Đó không chỉ là sự
băng hoại đạo đức, bất công xã hội mà còn có thể làm suy vong những quốc
gia hùng mạnh nhất, sụp đổ c thể chế chính trị. Đặc biệt, các tội về tham
nhũng chức vụ làm xói mòn nền pháp quyền và gây tổn hại đến uy tín của
Nhà nước, cũng như làm gi m niềm tin của người dân vào hệ thống chính trị,
nhất là các cơ quan Nhà nước. Lịch sử loài ngừời đã chứng minh rằng tham
nhũng là mặt trái của quyền lực nhưng song hành với quyền lực. Xã hội
nguyên thủy không có tư hữu, của c i dùng chung hoặc chia đều; không có
giai cấp với đặc quyền, đặc lợi, không áp bức, bóc lột nên không có các tội về
tham nhũng, tham nhũng. Chế độ tư hữu, giai cấp và Nhà nước đã tạo ra
quyền lực với các loại chức tước, đẳng cấp, đặc quyền, đặc lợi... Quyền lực đó
không được giám sát chặt chẽ sẽ x y ra hiện tượng độc quyền, cửa quyền, lạm
quyền…là nguồn gốc của tham nhũng và các tội phạm tham nhũng. Tham
nhũng là một căn bệnh của Nhà nước. Do đó, nghiên cứu tham nhũng, phòng,
chống tham nhũng chủ yếu là nghiên cứu Nhà nước, phương thức tổ chức và
thực thi quyền lực Nhà nước. Vậy nên việc kiểm soát và tiêu trừ các tội phạm
12


liên quan đến tham nhũng là mục tiêu của hầu hết các chính quyền, nhà nước.

Nhưng đến nay, có thể khẳng định chưa có Nhà nước nào trên thế giới dám
tuyên bố đã có thể kiểm soát và tiêu trừ được hoàn toàn các tội phạm tham
nhũng [19, tr21]. Do đó, đối mặt và tuyên chiến với các tội phạm tham nhũng,
tham nhũng là vấn đề của mọi quốc gia, dân tộc. Bởi lẽ tham nhũng luôn gắn
liền với quyền lực, gắn liền với Nhà nước nên khi còn quyền lực, còn Nhà
nước thì còn tham nhũng, còn tội phạm về tham nhũng. Ngay c những quốc
gia tiên tiến nhất thế giới cũng cần thường xuyên phòng, chống tham nhũng.
Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó và đã có một lịch sử lập pháp lâu
dài ghi dấu những nỗ lực đấu tranh chống tham nhũng và các tội phạm về tham
nhũng khác như được ghi nhận dưới đây.
1.2.1. iai đoạn tr

c Cách mạng háng ám n m 1 45

Ở nước ta, ngay từ trong xã hội phong kiến, việc đấu tranh phòng,
chống các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội đã được đặt ra
như một yêu cầu tất yếu để b o vệ chế độ và bộ máy nhà nước phong kiến
đương thời. Các đạo luật quan trọng trong lịch sử như: Bộ luật Hình thư (Nhà
Lý), Bộ Quốc triều Thông lễ (Nhà Trần), Bộ Quốc triều Hình luật (Nhà Lê),
Bộ luật Gia Long (Nhà Nguyễn) đều có ghi nhận và trừng trị những hành vi
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội của những người có chức vụ, quyền
hạn trong xã hội thời bấy giờ. Nổi bật trong đó là Bộ Quốc triều Hình luật đã
đặt ra các quy định trừng trị nhiều hành vi phạm tội tham nhũng, tội phạm
liên quan đến tham nhũng như: nhận hối lộ, đưa hối lộ, làm trung gian hối lộ,
lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài s n; v.v... Hành vi nhận hối lộ được Quốc
triều Hình luật quy định chung tại Điều 138 - quan lại ăn hối lộ với khung
hình phạt nghiêm khắc: “Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ t 1 quan
đến 9 quan thì xử tội biếm hay bãi chức; t 10 đến 19 quan thì xử tội đồ hay
lưu, t 20 quan trở lên thì xử tội chém. Những bậc công thần, quý thần cùng
những người có tài dự vào hạng bát nghị mà ăn hối lộ t 1 quan đến 9 quan

thì phạt tiền 50 quan; t 10 đến 19 quan thì phạt tiền 60 quan đến 100 quan,
13


t 20 quan trở lên thì xử tội đồ, những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào
kho” [11, tr 12]. Bên cạnh quy định chung này, Bộ luật còn có quy định về
các hành vi nhận hối lộ trong lĩnh vực cụ thể như: Điều 170 về nhận hối lộ
trong việc tuyển đinh, tráng vào quân đội; Điều 197 về nhận hối lộ trong khi
mật tra của quan Liêm phóng; Điều 229 về nhận hối lộ để không tâu với quan
trên về hành vi khinh nhờn; .... Như vậy, có thể khẳng định rằng, những quy
định này khá chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp, xác định ra các mức khung hình
phạt rạch ròi, từ thấp đến cao, tương ứng với mức độ nghiêm trọng của hành
vi nhận hối lộ. Tuy nhiên, đằng sau đó vẫn ẩn chứa tính bất bình đẳng khi ít
nhiều nương nhẹ cho tầng lớp quý tộc, hoàng thân, quốc thích phạm tội bằng
việc đặc cách cho áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt nhẹ hơn quy định.
Đồng thời với trừng phạt hành vi nhận hối lộ, Quốc triều Hình luật cũng có
những quy định tiến bộ về xử lý c hành vi đưa hối lộ, trung gian, môi giới
hối lộ. Điều 137 quy định: “Những kẻ đến cầu cạnh v i quan chủ ty việc trái
pháp luật và kẻ vì người khác mà đến cầu cạnh thay, đều xử tội biếm hay
phạt; quan chủ ty nghe theo thì phải ghép vào tội làm trái pháp luật, việc
chưa thi hành thì xử tội biếm hay phạt. Việc làm trái pháp luật ấy thuộc về
tội n ng thì quan chủ ty phải ghép tội ăn tiền mà xóa tội hay gán tội cho
người ta trái sự thực; kẻ vì người mà đến cầu cạnh thì xử tội nhẹ hơn quan
chủ ty ba bậc; tự mình có tội mà đến cầu cạnh thì xử tội nhẹ hơn quan chủ ty
hai bậc”. Ngoài ra, Điều 140 quy định: “Những người đưa hối lộ mà xét ra
việc của họ có trái lẽ thì theo việc của họ mà định tội. Còn người nào thật
oan khổ, vì muốn cho khỏi tội mà hối lộ thì được giảm tội. Người nào không
phải việc mình mà đi hối lộ thay người khác thì xử tội nhẹ hơn người ăn hối
lộ hai bậc. Những người thuộc hạ mà xúc xiểm quan trên thì cũng xử tội như
thế. Của hối lộ phải nộp vào kho” [22, tr 32]... Những quy định này đã đặt ra

những gi định rất cụ thể, sát với tình huống trong đời sống thực tế (hối lộ,
giúp hối lộ, nhận hối lộ, đưa hối lộ vì muốn gi i oan, nhận hối lộ nhưng chưa
thực hiện việc được yêu cầu…); cũng như phân hóa trách nhiệm hình sự sâu
14


sắc tương ứng với từng loại chủ thể và tính chất của hành vi (người đưa hối
lộ, người trung gian, người nhận hối lộ); thể hiện tinh thần nhân đạo với
những tình tiết gi m nhẹ trách nhiệm hình sự hợp lý, hợp tình. Ngoài hành vi
nhận, đưa, trung gian đưa hối lộ, Quốc triều Hình luật còn quy định một số
hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn khác để trục lợi như: quan giám qu n tự
tiện dùng dân đinh làm việc riêng cho mình (Điều 166); quan thu thuế giấu
bớt thuế đã thu hoặc thu thêm thuế để làm của riêng (Điều 206); ... Như vậy,
có thể nói rằng những quy định của Quốc triều Hình luật về các tội phạm về
tham nhũng, tham nhũng là một điểm sáng trong lịch sử lập pháp Việt Nam.
Sau đó, Hoàng Việt luật lệ của triều Nguyễn mặc dù chịu nh hưởng
sâu sắc từ pháp luật phong kiến Trung Hoa nhưng cũng vẫn tiếp thu được
một phần những tiến bộ đó trong quy định các tội phạm về tham nhũng, tham
nhũng. Luật này quy định về các hành vi nhận hối lộ hoặc lợi dụng chức vụ
nhũng nhiễu nhân dân và đều bị xử lý nghiêm khắc. Chẳng hạn, Chương IX Nhận hối lộ, Quyển XVII quy định chín điều luật để xử lý như: Điều 1 - Quan
lại nhận tiền của; Điều 2 - Tọa tang chí tội; Điều 3 - Sau công việc mới nhận
tiền; Điều 4 - Quan lại hứa nhận tiền của; Điều 5 - Có công việc dùng tiền của
cầu cạnh; Điều 6 - Làm quan lại sách nhiễu vay mượn tiền của của dân; Điều
7 - Cho người nhà sách nhiễu tiền của; Điều 8 - Nhận việc công bắt dân đóng
góp và Điều 9 - Lưu giữ tang vật ăn trộm. Điều 1 quy định quan lại nhận tiền
của nêu rõ: “Phàm quan lại mà nhận của thì tính hết tang vật mà định tội.
Quan thì bị truy thu bằng sắc và bị cấm không được dùng các danh hiệu
quan chức ho c phẩm hàm, lại thì bị bãi chức dịch, đều không được tiếp tục
sử dụng... Theo lệ thì các quan viên phạm tội t phạt 100 trượng đều bị bãi
chức, không được tiếp tục sử dụng, riêng phạm tội nhận hối lội ch t 1 lạng

trở xuống, nếu uổng pháp phạt 70 trượng, nếu bất uổng pháp phạt 60 trượng,
đều bị bãi chức…” [22, tr 23]; Điều 4 quy định về quan lại hứa nhận tiền của
nêu: “Phàm quan lại đồng ý cho đem tiền của t i, tuy chưa tiếp nhận, nhưng
nếu là trường hợp việc bị xử sai, chuẩn theo điều uổng pháp mà luận tội…”;
15


Điều 6 quy định về làm quan lại sách nhiễu, vay mượn tiền của dân nghiêm
trị “phạm quan lại cấu kết v i đồng bọn cường hào sách nhiễu, vay mượn
tiền của của dân sở tại thuộc mình cai quản, thì tính toàn bộ tang, chuẩn
theo điều bất uổng pháp mà luận tội. Nếu là cưỡng mức thì chuẩn theo điều
uổng pháp mà luận tội, tiền của trả lại cho chủ…”; Điều 9 quy định trường
hợp “phàm quan tuần bố đã bắt được bọn trộm cư p kèm theo tang vật mà
lưu giữ tang vật không đưa lên quan thì phạt 40 roi. Nếu bỏ túi tính tang thì
lấy bất uổng pháp luận tội...”. Thậm chí, ngay c các quan lợi dụng chức vụ,
quyền hạn sử dụng dân đinh, phu thợ làm việc riêng cũng bị xử lý. Điều 9
(Chương I - Hộ dịch, Quyển VI) quy định: “Phàm các quan ty sai khiến dân
sở tại làm việc riêng cho mình và quan giám công sai dân thợ làm việc riêng
cho mình ở nơi xa ngoài 100 d m ho c sai khiến lâu ngày ở nhà mình, thì đối
v i quan ti cứ sai khiến 1 tên dân là bị xử đánh 40 roi, cứ 5 tên lại tăng thêm
một mức, tội n ng nhất cũng ch đánh 80 trượng…”. Tiếp đến, c việc gây
khó dễ ở cửa quan, bến đò cũng bị xử lý nghiêm khắc. Điều 3 (Chương III Quan i, Quyển XI) quy định: “Người và thuyền bè qua lại nơi cửa quan, bến
đò mà thủ bá không lập tức xét hỏi, kiểm tra rồi quan đi qua mà vô c gây
cản trở, thì cứ chậm một ngày bị xử phạt 20 roi, thêm một ngày thì xử tăng
một mức, tội ch t i mức 50 roi. Nếu nhận hối lộ thì chiếu theo lệ quan lại
làm việc nhận hối lộ thì người hữu sự, luận tội uổngpháp, tính theo số tang
vật mà xử tội...”. Đặc biệt, để phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, tham ô, Bộ
luật còn quy định tại Ðiều 5 - Tậu ruộng đất, nhà cửa ở khu vực mình cai
qu n (Chương II - Ruộng đất, Quyển VI) nêu rõ: “Phàm quan lại đương chức
không được mua tậu ruộng đất, nhà cửa ở khu vực mình cai quản. Nếu vi

phạm, xử phạt 50 roi, bãi nhiệm, ruộng đất nhà cửa đem sung công”; Điều 7 Vay mượn riêng tiền lương của công (Chương IV - Kho tàng, Quyển VIII)
quy định: “Phàm giám thủ, chủ thủ đem các loại tiền lương của Nhà nư c
mượn riêng ho c chuyển cho người khác vay mượn, tuy có văn tự, đều bị tính
theo tang vật mà xử vào tội giám thủ tự lấy trộm... Nếu đem đồ vật của mình
16


thay thế đổi lấy đồ vật của Nhà nư c thì cũng xử tội như thế. Đồ vật của
riêng đó đem sung công...” [22, tr41]...
Tóm lại, trong xã hội phong kiến Việt Nam, việc đấu tranh phòng,
chống tội phạm chức vụ và các tội phạm về tham nhũng đã được các triều
đình quan tâm sâu sắc. Mặc dù pháp luật phong kiến quy định về các tội
phạm mà đối tượng là quan lại hoặc những người có chức sắc nhất định có
thể còn chứa đựng sự bất công, phân biệt đẳng cấp (về sau đặc biệt là trong
thời kỳ thực dân Pháp xâm lược) hoặc chịu nh hưởng chi phối của pháp luật
Trung Hoa nhưng cơ b n đã đạt được các thành tựu nhất định trong đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực mà những điểm tiến bộ
của chúng có thể kế thừa để hoàn thiện pháp luật (hình sự) Việt Nam hiện
đại.
1.2.2.

iai đoạn từ sau Cách mạng háng ám n m 1 45 đ n tr

c

khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam n m 1 85
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời. Nhận thức rõ muốn xây dựng được chính quyền
trong sạch, vững mạnh và củng cố nền độc lập vừa giành được thì ph i chú
trọng việc ngăn chặn tệ nạn tham nhũng và các tội phạm về tham nhũng, b o

vệ tài s n xã hội chủ nghĩa, tài s n của nhân dân, Đ ng và Nhà nước ta đã
sớm ban hành nhiều văn b n pháp luật quy định và trừng phạt các hành vi
tham nhũng. Trước khi có một Bộ luật hình sự năm 1985, ph i kể đến một số
các văn b n tiêu biểu có quy định trực tiếp hoặc gián tiếp các tội phạm về
tham nhũng như: Sắc lệnh 267/SL ngày 15/6/1946 quy định trừng trị những
âm mưu và hoạt động phá hoại tài s n của Nhà nước, của hợp tác xã và của
nhân dân làm c n trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch của Nhà nước; Sắc
lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946 về trừng trị các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ
công quỹ; Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài s n xã hội chủ
nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài s n riêng của công
dân được ban hành ngày 21/10/1970; Sắc luật 267/SL ngày 15/5/1956 về tội
17


cố ý làm trái công tác phụ trách gây hậu qu nghiêm trọng; Sắc luật số
001/SL ngày 19/4/1957 về cấm mọi hành vi đầu cơ kinh tế; Quyết định số
550/QĐ-TTg ngày 16/02/1971 của Thủ tướng Chính phủ về việc nghiêm
cấm lập quỹ trái phép trong các xí nghiệp và các cơ quan Nhà nước; Pháp
lệnh trừng trị các tội hối lộ được ban hành ngày 20/5/1981...Trong đó, Sắc
lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946 về trừng trị các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ
công quỹ là văn b n pháp luật đầu tiên tập trung quy định riêng về tội phạm
tham nhũng của Nhà nước ta. Mặc dù được ban hành khi Nhà nước non trẻ
mới ra đời một năm nhưng Sắc lệnh này đã có nhiều điểm tiến bộ đáng ghi
nhận như: Một là, Sắc lệnh quy định và trừng phạt hai dạng hành vi cơ b n
liên quan đến tham nhũng: hối lộ (đưa, nhận hối lộ) và tham ô (phù lạm, biển
thủ). Điều 1 Sắc lệnh quy định: “Tội đưa hối lộ cho công chức, tội công chức
nhận hối lộ ho c phù lạm, biển thủ công quỹ hay của công dân đều bị phạt
khổ sai t năm đến hai mươi năm và phạt bạc gấp đôi tang vật hối lộ, phù
lạm hay biển thủ; tang vật hối lộ bị tịch thu sung công; người phạm tội có thể
bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản; các đồng phạm và tòng

phạm cũng bị phạt như trên” [24, tr 45]. Hai là, Sắc lệnh đã xác định một
cách rõ ràng về chủ thể của các tội phạm về tham nhũng. Điều 3 Sắc lệnh này
quy định: “Đối v i tội trên, công chức còn gồm nhân viên Chính phủ, trong
Ủy ban hành chính các cấp, các cơ quan do nhân dân bầu lên, trong bộ đội
và tất cả những người phụ trách một công vụ”. Như vậy, chủ thể của tội
phạm về tham nhũng khá rộng, là cán bộ, công chức và có thể là bất kỳ ai có
chức vụ, quyền hạn. Ba là, các hình phạt được quy định hợp lý và hiệu qu .
Hình phạt ở đây vừa thể hiện tính nghiêm khắc vừa có tinh thần nhân đạo, lại
phù hợp với đặc thù của tội phạm về tham nhũng. Hình phạt cao nhất đối với
các tội phạm này có thể lên đến 20 năm tù khổ sai, thể hiện thái độ đấu tranh
kiên quyết và không khoan nhượng của Nhà nước. Các hình phạt mang nặng
tính kinh tế rất phù hợp để thu hồi tài s n thất thoát do tham nhũng. Tuy
nhiên, quy định “tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản” của người
18


phạm tội lại thể hiện tính nhân văn sâu sắc của chế độ dân chủ mới (để lại
một phần tư gia s n có thể b o đ m cuộc sống cho những người phụ thuộc).
Bốn là, Sắc lệnh đã thể hiện sự phân hóa trách nhiệm hình sự sâu sắc trong
đường lối xử lý - phân biệt người đưa hối lộ chủ động hay bị bắt ép; khoan
hồng đối với những người tự thú, tố giác đồng bọn. Theo đó, Điều 2 Sắc lệnh
này quy định: “Người phạm tội đưa hối lộ cho một công chức mà tự ý cáo
giác cho nhà chức trách việc hối lộ ấy và chứng minh rằng đưa hối lộ là vì bị
công chức cưỡng bách ư c hứa hay là dùng cách trá ngụy thì người ấy được
miễn hết các tội. Trong trường hợp này, tang vật hối lộ được hoàn lại”. Do
đó, với những ưu điểm đã nêu, có thể khẳng định “đạo luật” đầu tiên về các
tội tham nhũng với vẻn vẹn 300 từ của Nhà nước ta cho đến nay vẫn còn
nguyên những giá trị xứng đáng để kế thừa 24 [48].
Sau Sắc lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946, các văn b n pháp luật khác
cũng tiếp tục đề cập đến một số hành vi phạm tội liên quan đến chức vụ. Tuy

nhiên, chỉ đến Pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ ngày 20/5/1981 thì các tội
phạm về tham nhũng mới được tập trung điều chỉnh một cách hệ thống.
Trong Pháp lệnh, lần đầu tiên tội nhận và đưa hối lộ được quy định độc lập
với nhau, hành vi môi giới hối lộ cũng được đề cập tới. Điều 1 Pháp lệnh đã
xác định: “Tội hối lộ bao gồm nhận hối lộ, đưa hối lộ và môi gi i hối lộ”.
Sau đó, Điều 2 Pháp lệnh xác định hành vi nhận hối lộ; Điều 3 về hành vi
đưa hối lộ, môi giới hối lộ; Điều 4 về hành vi lợi dụng nh hưởng đối với
người có chức, có quyền để phạm tội. Đặc biệt, Pháp lệnh cũng thể hiện
chính sách phân hóa rõ rệt trong xử lý tham nhũng. Điều 5 Pháp lệnh xác
định sáu trường hợp cần xử nặng gồm: phạm tội hối lộ có tổ chức; phạm tội
hối lộ nhiều lần; dùng thủ đoạn x o quyệt để thực hành hối lộ; của hối lộ có
giá trị lớn; lợi dụng chức vụ cao để nhận hối lộ; phạm tội hối lộ gây hậu qu
nghiêm trọng. Điều 8 quy định ba trường hợp miễn, gi m trách nhiệm hình
sự và miễn hình phạt đối với những trường hợp phạm tội lần đầu, không
nghiêm trọng; trường hợp trước khi bị phát giác đã chủ động khai báo, giao
19


×