Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Chế độ tử tuất trong Luật Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.56 KB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

CHÕ §é Tö TUÊT
TRONG LUËT B¶O HIÓM X· HéI ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

CHÕ §é Tö TUÊT
TRONG LUËT B¶O HIÓM X· HéI ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN BÍNH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hải Yến


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TỬ TUẤT ...................... 6
1.1.

Khái niệm bảo hiểm xã hội và chế độ tử tuất .................................. 6

1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội .................................................................. 6
1.1.2. Khái niệm chế độ tử tuất .................................................................... 11
1.2.


Đặc điểm của chế độ tử tuất ............................................................ 14

1.3.

Nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật đối với chế độ tử tuất ........ 18

1.4.

Chế độ tử tuất trong pháp luật quốc tế và pháp luật ở một số
quốc gia trên thế giới ........................................................................ 20

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 26
Chương 2: THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ TỬ TUẤT VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM ........................................................... 27
2.1.

Lược sử quá trình hình thành chế độ tử tuất trong luật bảo
hiểm xã hội Việt Nam ....................................................................... 27

2.1.1. Giai đoạn từ 1945 đến năm 1961 ....................................................... 27
2.1.2. Giai đoạn 1961 đến 1995 ................................................................... 28
2.1.3. Giai đoạn 1995 đến nay ...................................................................... 30
2.2.

Thực trạng quy định chế độ tử tuất trong pháp luật bảo
hiểm xã hội Việt Nam ....................................................................... 32


2.2.1. Chế độ tử tuất trong loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc ................... 33

2.2.2. Chế độ tử tuất trong loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện................. 42
2.3.

Thực trạng thực hiện chế độ tử tuất ở Việt Nam .......................... 45

2.3.1. Thực trạng thực hiện chế độ tử tuất trong loại hình bảo hiểm xã
hội bắt buộc ........................................................................................ 45
2.3.2. Thực trạng thực hiện chế độ tử tuất thuộc loại hình bảo hiểm xã
hội tự nguyện ...................................................................................... 49
2.4.

Một số nhận xét thực trạng chế độ tử tuất ở Việt Nam ................ 51

2.4.1. Những mặt đã làm đƣợc ..................................................................... 51
2.4.2. Hạn chế, bất cập còn tồn tại và nguyên nhân ..................................... 54
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 62
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ TỬ TUẤT ................................................. 63
3.1.

Những yêu cầu đặt ra đối với việc nâng cao hiệu quả thực
hiện chế độ tử tuất ............................................................................ 63

3.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện chế độ tử tuất ................................................... 66

3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về chế độ tử tuất ............................... 66
3.2.2. Một số giải pháp, kiến nghị đảm bảo và nâng cao hiệu quả thực

hiện chế độ tử tuất .............................................................................. 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHXH:

Bảo hiểm xã hội

BHYT:

Bảo hiểm y tế

TP:

Thành phố


DANH MỤC CÁC BẢNG

Tên bảng

Số hiệu bảng

Trang

Bảng 1.1: Tình hình thực hiện các chế độ BHXH ở các nƣớc
trên thế giới


20

Bảng 2.1: Tình hình thực hiện chế độ tử tuất thuộc loại hình
BHXH bắt buộc qua các năm giai đoạn 2007 - 2012
Bảng 2.2: Tổng hợp thu chi quỹ hƣu trí và tử tuất từ 2007-2013

47
48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) ra đời đã trở thành xƣơng sống của hệ thống
an sinh xã hội và đƣợc tất cả các quốc gia thừa nhận là một trong những
quyền con ngƣời, điều đó đƣợc thể hiện rất rõ trong Tuyên ngôn nhân quyền
của Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948: “Tất cả mọi
người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội”.
Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế thị
trƣờng – nơi mà có những nhóm ngƣời gặp rủi ro, bất hạnh, bị giảm hoặc mất
thu nhập, rơi vào tình trạng không tự lo đƣợc cuộc sống hoặc bị rơi vào vị trí
yếu thế trong xã hội.
Ở Việt Nam, BHXH là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội, đóng vai
trò to lớn trong việc góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho cán bộ, công
chức, quân nhân và ngƣời lao động. Bên cạnh việc quy định các chế độ ƣu
việt cho ngƣời trực tiếp tham gia, thì BHXH còn góp phần hỗ trợ, ổn định đời
sống đối với đối tƣợng thụ hƣởng gián tiếp. Một trong số các chế độ đó chính
là chế độ tử tuất, đây là khoản trợ cấp đối với nhân thân, gia đình ngƣời tham
gia BHXH đã mất nhằm mục đích hỗ trợ một phần chi phí mai táng, trợ cấp
cho những ngƣời mà khi còn sống, ngƣời tham gia BHXH có trách nhiệm,

nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dƣỡng. Việc quy định chế độ tử tuất nằm trong hệ
thống chế độ BHXH thể hiện tính ƣu việt của chế độ, đã và đang phát huy
nhiều mặt tích cực, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần ổn định và nâng cao đời
sống nhân dân.
Chế độ tử tuất là một chế độ nằm trong hệ thống các chế độ của BHXH
có số lƣợng đối tƣợng thụ hƣởng chiếm tỷ lệ lớn. Theo số liệu báo cáo của
BHXH Việt Nam, kết quả thực hiện 5 năm sau khi Luật Bảo hiểm xã hội

1


2006 có hiệu lực 2007 – 2012, có bình quân 21.048 ngƣời/ năm hƣởng trợ cấp
tuất hàng tháng, 26.788 ngƣời hƣởng trợ cấp tuất một lần [3]. Luật Bảo hiểm
xã hội năm 2014 tiếp tục dành 8 Điều (từ Điều 66 đến Điều 71, Điều 80 và
Điều 81) để quy định về chế độ tử tuất, bộ luật đã tiếp thu, sửa đổi những hạn
chế, bất cập trong Luật Bảo hiểm xã hội 2006, ở thời điểm tác giả nghiên cứu
về chế độ tử tuất thì Luật Bảo hiểm 2014 đã có hiệu lực, bƣớc đầu đã thể hiện
đƣợc sự phù hợp, đáp ứng đƣợc những yêu cầu cấp thiết đặt ra trong tình hình
kinh tế hiện thời, tuy nhiên với sự phát triển rất đa dạng của đời sống xã hội
sẽ không tránh khỏi những bất cập trong những quy định mới này, gây ra sự
bỡ ngỡ và ít nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý nhà
nƣớc cũng nhƣ đảm bảo chế độ cho ngƣời có đủ điều kiện hƣởng.
Việc nghiên cứu về chế độ tử tuất không chỉ là một chế độ nằm trong
hệ thống các chế độ BHXH mà còn dƣới góc độ khoa học, nhằm đánh giá một
cách toàn diện, thống nhất về chế độ này là rất cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay
chƣa có một công trình nghiên cứu nào cụ thể về vấn đề này. Do đó, để góp
phần vào việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
chế độ tử tuất, học viên lựa chọn đề tài: “Chế độ tử tuất trong Luật Bảo hiểm
xã hội ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Chế độ tử tuất tuy không phải là một nội dung mới trong hệ thống
BHXH, tuy nhiên hiện nay trên thực tế, chƣa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách toàn diện về chế độ này. Chế độ này mới chỉ đƣợc
nghiên cứu nhƣ là một thành tố nằm trong hệ thống các chế độ BHXH nhƣ:
cuốn sách “Pháp luật an sinh xã hội- những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
Tiến sĩ Nguyễn Hiền Phƣơng; Luận văn thạc sĩ của Phạm Lan Hƣơng “Pháp
luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ”; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Lan Hƣơng “Pháp luật về bảo hiểm

2


xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Thị Hà “Pháp luật về Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay”; hoặc
đề tài này mới chỉ đƣợc đề cập đến một số bài viết, chuyên đề của các nhà
khoa học trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành nhƣ Tạp chí Bảo
hiểm xã hội, Tạp chí Luật học, Tạp chí Lao động – Xã hội, một số các báo
cáo, chuyên đề tại các hội thảo chuyên ngành Lao động – Thƣơng binh và Xã
hội, Bảo hiểm xã hội,…
Việc luận văn đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện về chế độ tử tuất là
một trong số các chế độ thuộc hệ thống pháp luật BHXH Việt Nam, đánh giá
những ƣu điểm, những hạn chế về quy định pháp luật về chế độ tử tuất và việc
thực thi chế độ này trong thực tế, từ đó đƣa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện
quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chế độ tử tuất
là cần thiết và không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào trƣớc đây.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa các vấn đề mang tính lý luận về chế độ tử tuất trong hệ
thống các chế độ BHXH; sự điều chỉnh của pháp luật về chế độ tử tuất ở pháp
luật quốc tế và bài học nhìn về thực tiễn nƣớc ta.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về chế độ tử tuất, thực

trạng thực hiện các quy định này trong thực tiễn, đƣa ra một số nhận xét về
chế độ tử tuất. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy
định pháp luật về chế độ tử tuất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện trong
thực tiễn chế độ tử tuất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quy định pháp luật về chế độ tử tuất
trong hai loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện, tình hình thực hiện
chế độ tử tuất trong thực tiễn ở Việt Nam.

3


* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào các vấn đề lý luận của pháp luật về chế độ tử
tuất đƣợc quy định trong Luật Bảo hiểm xã hội 2014, và các văn bản hƣớng
dẫn. Ngoài ra, trên cơ sở so sánh với những ƣu điểm mà Luật Bảo hiểm xã hội
2006 đã đạt đƣợc, với những tồn tại của Luật Bảo hiểm 2006 để từ đó đánh
giá sự phù hợp của Luật Bảo hiểm 2014 hiện hành, những tồn tại chƣa đƣợc
giải quyết ở các quy định Luật Bảo hiểm 2014, đƣa ra một số đề xuất giải
quyết những tồn tại đó và giải pháp tăng cƣờng thực thi pháp luật về chế độ tử
tuất trong thực tiễn.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Các phƣơng pháp khác: trên cơ sở phƣơng pháp luận, luận văn sử
dụng các phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp so
sánh, phƣơng pháp thống kê và một số phƣơng pháp khác để tiếp cận, nghiên
cứu những vấn đề thuộc nội dung của đề tài.
- Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo

sát, các báo cáo liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài từ năm 2010 đến
năm 2014.
6. Những đóng góp của đề tài
Luận văn đã nghiên cứu một cách đầy đủ các vấn đề lý luận về chế độ
tử tuất nhƣ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật đối với
chế độ tử tuất; nghiên cứu chế độ tử tuất theo quy định pháp luật quốc tế và
một số nƣớc trên thế giới từ đó rút kinh nghiệm đối với thực tiễn ở Việt Nam.
Luận văn cũng đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về chế độ tử
tuất hiện hành, thực tiễn thực thi các quy định đó và từ đó đƣa ra các đề xuất
mới mang tính xây dựng, góp phần hoàn thiện, tăng cƣờng đƣa pháp luật về

4


chế độ tử tuất đƣợc thực thi tối đa trong thực tiễn, nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nƣớc và đảm bảo an sinh xã hội trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho tất cả cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống cơ quan Bảo hiểm xã
hội, ngành Lao động – Thƣơng binh và Xã hội trên phạm vi toàn quốc. Luận
văn cũng có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học
tập, nghiên cứu hoặc bất kỳ ai quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 phần:
Chương 1: Khái quát chung về chế độ tử tuất.
Chương 2: Thực trạng chế độ tử tuất và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ
tử tuất.

5



Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ TỬ TUẤT
1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội và chế độ tử tuất
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Trƣớc khi nói về khái niệm chế độ tử tuất, thì trƣớc hết ta cần hiểu sơ
lƣợc về khái niệm BHXH nói chung, bởi chế độ tử tuất chính là một phần
trong các chế độ của BHXH Việt Nam.
Lịch sử phát triển của các quốc gia trên thế giới cho thấy, muốn phát triển
kinh tế - xã hội phải đi đôi với đảm bảo an sinh xã hội. Không một quốc gia nào
trên thế giới lại không coi chính sách an sinh xã hội là một chính sách xã hội quan
trọng mà trong đó, BHXH là một trụ cột không thể thiếu. Vai trò của BHXH đƣợc
thể hiện ở việc tạo ra nguồn thu nhập thay thế trong trƣờng hợp nguồn thu nhập
bình thƣờng của ngƣời lao động bị gián đoạn hoặc bị mất đi do các nguyên nhân
mang tính xã hội nhƣ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất
nghiệp, hết tuổi lao động… Không những góp phần giảm bớt sự mất mát về tiền
đối với cá nhân ngƣời lao động bằng cách chuyển đổi nguy cơ tổn thất tài chính
gây ra bởi các rủi ro mang tính xã hội thành các khoản đóng góp nhỏ mà BHXH
còn góp phần bảo vệ gia đình họ trƣớc nguy cơ phải tiêu tốn các khoản tiền lớn
hơn thu nhập của họ cho các chi phí phát sinh khác. BHXH là lĩnh vực đƣợc rất
nhiều quốc gia, nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, nên BHXH đƣợc
nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác nhau:
Dƣới góc độ kinh tế, BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp, đƣợc coi
là sự bù đắp và thay thế phần thu nhập đảm bảo ổn định cuộc sống cho ngƣời
lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập trên cơ sở thành lập và sử dụng
quỹ tiền tệ dự trữ của cộng đồng những ngƣời tham gia bảo hiểm theo quy
định của pháp luật. Trong quá trình lao động, đặc biệt là trong nền kinh tế thị

6



trƣờng, ngƣời lao động luôn gặp phải những khó khăn, rủi ro nhƣ: tai nạn lao
động, ốm đau, bệnh tật, mất việc làm, thất nghiệp. Để ổn định cuộc sống
ngƣời lao động phải tìm đến các biện pháp đảm bảo thu nhập cho chính mình
trong những trƣởng hợp rủi ro nói trên. Ngƣời lao động đóng góp một khoản
tiền vào nguồn quỹ chung (gọi là quỹ BHXH), khi họ “gặp rủi ro” bị mất hoặc
giảm thu nhập thì quỹ BHXH thực hiện chức năng hỗ trợ bù đắp phần thu
nhập đó cho ngƣời lao động, nhằm giúp họ ổn định cuộc sống [19].
Dƣới góc độ xã hội, BHXH là một bộ phận trong nội dung của hệ thống
bảo đảm xã hội. Hay nói cách khác, BHXH là một thành tố nằm trong các
biện pháp để đảm bảo “sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình
thông qua một loạt các biện pháp công cộng để đối phó khó khăn về kinh tế
xã hội do bị ngƣng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất
khả năng lao động, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và việc trợ
cấp cho các gia đình đông con” [14].
Dƣới góc độ pháp luật, BHXH là tổng hợp các quy định của pháp luật
nhằm bảo vệ ngƣời lao động; sử dụng nguồn đóng góp của ngƣời lao động,
ngƣời sử dụng lao động và sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nƣớc nhằm trợ cấp vật chất
cho ngƣời đƣợc bảo hiểm (hoặc gia đình của họ) trong trƣờng hợp ốm đau, tai
nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động hoặc chết. Nhƣ vậy, về phƣơng diện
pháp lý, BHXH là tổng thể các quy định của Nhà nƣớc quy định về quyền, nghĩa
vụ, trách nhiệm của các bên khi tham gia vào quan hệ BHXH; mức đóng góp,
phƣơng thức đóng góp và mức hƣởng đối với những đối tƣợng áp dụng BHXH.
Tuy nhiên, dù tiếp cận dƣới góc độ nào thì mục tiêu chính của BHXH
cũng đƣợc thể hiện rõ, nhằm bảo vệ ngƣời lao động trƣớc những biến cố cuộc
sống và đƣợc bảo vệ bằng hệ thống các chính sách.
Hiện nay, có một số định nghĩa về BHXH đƣợc đƣa ra nhƣ sau:
Theo quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế, BHXH là sự bảo vệ của xã

7



hội đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp công cộng, nhằm
chống lại các khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra
bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thƣơng tật, tuổi già và chết;
đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con 17].
Theo định nghĩa này có thể thấy rằng, cách tiếp cận về BHXH của Tổ chức Lao
động quốc tế có điểm tƣơng đồng với cách nhìn nhận dƣới góc độ xã hội đã đề
cập ở trên, coi BHXH là một trong các biện pháp trong hệ thống an sinh xã hội
của nhà nƣớc. Tuy nhiên, khái niệm này mới chỉ đề cập khái niệm BHXH ở
phƣơng diện biện pháp đảm bảo từ phía nhà nƣớc, mang nặng tính trợ cấp, mà
chƣa đề cập đến sự đóng góp mang tính “tích lũy” từ phía ngƣời lao động.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thƣ:
BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
ngƣời lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi
già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của
các bên tham gia BHXH có sự bảo hộ của nhà nƣớc theo pháp luật
nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho ngƣời lao động và gia đình họ,
đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội 14].
Trong Luật BHXH đƣa ra khái niệm BHXH, khái niệm này thể hiện rõ
mục đích phi thƣơng mại và có sự bảo hộ của nhà nƣớc thông qua quá trình
đóng góp và quản lý quỹ BHXH, thông qua đó Nhà nƣớc bảo hộ các hoạt
động của quỹ BHXH và nhằm mục đích bảo đảm an toàn xã hội và tạo động
lực hữu hiệu để phát triển kinh tế. Có thể nói rằng, đây là khái niệm tƣơng đối
đầy đủ về BHXH:
BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao
động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH 22.


8


Trên cơ sở khái niệm về BHXH, có thể thấy rằng, đối tƣợng đƣợc nhà
nƣớc bảo hộ chính là thu nhập của ngƣời lao động. Khi thu nhập của ngƣời
lao động và gia đình của họ bị mất hoặc giảm vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, tuổi già thì BHXH bù đắp các khoản thu nhập bị thiếu hụt thông qua
việc thực hiện chi trả trợ cấp đối với ngƣời lao động hoặc gia đình của họ thay
cho phần thu nhập bị giảm hoặc bị mất đó. Luật Bảo hiểm xã hội quy định về
chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; quyền và trách nhiệm của ngƣời lao
động, của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội; tổ chức bảo
hiểm xã hội; quỹ bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội và quản
lý nhà nƣớc về bảo hiểm xã hội.
Luật BHXH quy định các loại hình, chế độ bảo hiểm sau:
Loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội mà nhà
nƣớc bắt buộc ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động bắt buộc phải tham
gia. Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm 5 chế độ cơ bản: ốm đau; thai sản; tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hƣu trí và tử tuất.
Loại hình Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do
nhà nƣớc tổ chức mà ngƣời tham gia đƣợc lựa chọn mức đóng, phƣơng thức
đóng phù hợp với thu nhập của mình và nhà nƣớc có chính sách hỗ trợ tiền
đóng BHXH để ngƣời tham gia đƣợc hƣởng chế độ hƣu trí và tử tuất.
Về mức đóng BHXH, hai loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự
nguyện có phƣơng thức đóng và mức đóng là khác nhau, cụ thể:
Với loại hình BHXH bắt buộc thì Luật BHXH quy định:
- Ngƣời lao động là ngƣời làm việc theo hợp đồng lao động không xác
định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo
mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến
dƣới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động đƣợc ký kết giữa ngƣời sử dụng lao

động với ngƣời đại diện theo pháp luật của ngƣời dƣới 15 tuổi theo quy định

9


của pháp luật về lao động; Ngƣời làm việc theo hợp đồng lao động có thời
hạn từ đủ 01 tháng đến dƣới 03 tháng; Cán bộ, công chức, viên chức; Công
nhân quốc phòng, công nhân công an, ngƣời làm công tác khác trong tổ chức
cơ yếu; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
ngƣời làm công tác cơ yếu hƣởng lƣơng nhƣ đối với quân nhân; Ngƣời quản
lý doanh nghiệp, ngƣời quản lý điều hành hợp tác xã có hƣởng tiền lƣơng:
hằng tháng đóng bằng 8% mức tiền lƣơng tháng vào quỹ hƣu trí và tử tuất.
Ngƣời sử dụng lao động hằng tháng đóng 18% trên quỹ tiền lƣơng đóng
BHXH của ngƣời lao động vào quỹ BHXH (trong đó 3% đóng vào quỹ ốm
đau và thai sản, 1% đóng vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, 14%
đóng vào quỹ hƣu trí và tử tuất).
- Ngƣời lao động là ngƣời hoạt động không chuyên trách ở xã, phƣờng,
thị trấn: hằng tháng đóng 8% mức lƣơng cơ sở vào quỹ hƣu trí và tử tuất.
Ngƣời sử dụng lao động đóng 14% mức lƣơng cơ sở vào quỹ hƣu trí và tử
tuất cho ngƣời lao động.
- Ngƣời lao động là ngƣời đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng quy
định tại Luật ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp
đồng: mức đóng hằng tháng vào quỹ hƣu trí và tử tuất bằng 22% mức tiền
lƣơng tháng đóng BHXH của ngƣời lao động trƣớc khi đi làm việc ở nƣớc
ngoài, đối với ngƣời lao động đã có quá trình tham gia BHXH bắt buộc; bằng
22% của 02 lần mức lƣơng cơ sở đối với ngƣời lao động chƣa tham gia
BHXH bắt buộc hoặc đã tham gia BHXH bắt buộc nhƣng đã hƣởng BHXH
một lần. Phƣơng thức đóng trƣờng hợp này đƣợc thực hiện 03 tháng, 06
tháng, 12 tháng một lần hoặc đóng trƣớc một lần theo thời hạn ghi trong hợp

đồng đƣa ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài.
- Ngƣời lao động là hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan,

10


chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ
yếu đang theo học đƣợc hƣởng sinh hoạt phí: Ngƣời sử dụng lao động hằng
tháng đóng trên mức lƣơng cơ sở đối với mỗi ngƣời lao động thuộc trƣờng
hợp này là 23% vào quỹ BHXH (trong đó 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp và 22% vào quỹ hƣu trí và tử tuất).
Với loại hình BHXH tự nguyện thì Luật BHXH quy định:
Ngƣời lao động tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam từ
đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc diện phải đóng BHXH bắt buộc: hằng
tháng đóng 22% mức thu nhập tháng do ngƣời lao động lựa chọn để đóng
vào quỹ hƣu trí và tử tuất, mức thu nhập hằng tháng làm căn cứ đóng
BHXH thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn và cao
nhất bằng 20 lần mức lƣơng cơ sở. Ngƣời lao động đƣợc lựa chọn các
phƣơng thức đóng hằng tháng, 03 tháng một lần, 06 tháng một lần, 12
tháng một lần hoặc một lần cho nhiều năm về sau với mức thấp hơn mức
đóng hằng tháng hoặc một lần cho những năm còn thiếu với mức cao hơn
mức đóng hằng tháng so với quy định nhƣ trên.
1.1.2. Khái niệm chế độ tử tuất
Theo Từ điển Tiếng Việt, “tử” nghĩa là chết, từ “tuất”có nghĩa là rủ
lòng thƣơng mà cứu giúp. Tử tuất mang hàm ý hỗ trợ, cứu giúp gia đình,
ngƣời thân của ngƣời đã chết [13].
Tƣơng thân tƣơng ái, giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn, khó khăn đã trở
thành phong tục, truyền thống từ ngàn đời nay của dân tộc ta. Việc giúp đỡ
gia đình của ngƣời đã chết trong việc tổ chức ma chay; hỗ trợ thân nhân của
ngƣời chết khi họ mất một phần thu nhập trong gia đình là việc làm cần thiết

để có thể giúp họ bƣớc đầu ổn định cuộc sống là cần thiết. Tinh thần này
không chỉ bó hẹp trong phong tục, hƣơng ƣớc làng, xã mà đã đƣợc luật hóa
nhằm huy động sự chung tay, góp sức của cả cộng đồng, xã hội. Ngay từ

11


trong Bộ luật Hồng Đức năm 1483 đã có quy định buộc nhà nƣớc cung cấp
lƣơng thực, nơi ở và thuốc men cho ngƣời bệnh tật, nghèo khó hay tật
nguyền, cô nhi, quả phụ không nơi nƣơng tựa. Luật trừng phạt quan chức
không thi hành nghĩa vụ này [27]. Và quy định về hỗ trợ một phần cho thân
nhân ngƣời đã chết nhằm giúp họ từng bƣớc ổn định cuộc sống sau khi mất đi
nguồn thu nhập vẫn đƣợc duy trì, phát huy trong các băn bản quy phạm pháp
luật cho đến nay.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, khi tham
gia vào thị trƣờng lao động, ngƣời lao động luôn mong muốn công sức mà họ
bỏ ra phải đƣợc đền đáp xứng đáng, tức tiền lƣơng, tiền công họ nhận đƣợc
tƣơng đƣơng với sức lao động mà họ bỏ ra. Ngoài ra, khi họ gặp phải những
rủi ro dẫn đến nguồn thu nhập bị giảm, bị mất khiến đời sống khó khăn, họ
càng cần một cơ chế nhằm giúp đỡ họ hoặc gia đình, ngƣời thân họ vƣợt qua
khó khăn này. Trong quan hệ xã hội, ngƣời lao động- ngƣời thụ hƣởng chính
sách BHXH ngoài lao động nuôi sống bản thân còn có trách nhiệm, nghĩa vụ
nuôi dƣỡng bố, mẹ, con cái trong độ tuổi đi học, vợ, chồng đã hết tuổi lao
động mà không có lƣơng hƣu, trợ cấp bảo hiểm xã hội. Vấn đề phát sinh ở
đây là khi ngƣời lao động – ngƣời thụ hƣởng chính sách BHXH đó khi chết,
nghĩa vụ nuôi dƣỡng ngƣời thân của họ vẫn còn nhƣng việc thực hiện trách
nhiệm đó bị dừng lại, điều đó gây khó khăn cho việc ổn định lại cuộc sống
cho ngƣời thân của họ, đặc biệt là đối với những đối tƣợng không có khả năng
tự nuôi sống bản thân nhƣ trên.
Nhƣ đã phân tích, BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần

thu nhập của ngƣời lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động
hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH. Trong pháp luật BHXH hiện
hành, có ba loại hình BHXH là BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BHXH

12


thất nghiệp. BHXH bắt buộc bao gồm các loại chế độ sau: ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hƣu trí và tử tuất; BHXH tự nguyện bao
gồm hai chế độ là hƣu trí và tử tuất. Nhƣ vậy, chế độ tử tuất là một trong các
chế độ nằm trong hệ thống các chế độ BHXH, bao gồm ở cả loại hình BHXH
bắt buộc và BHXH tự nguyện, nhƣng dù là loại hình BHXH bắt buộc hay
BHXH tự nguyện thì ngƣời lao động- ngƣời đang đƣợc hƣởng chế độ BHXH
chết, ngoài khoản hỗ trợ thực hiện mai táng, quỹ BHXH còn thực hiện trợ cấp
một khoản tiền cho thân nhân mà khi còn sống, ngƣời lao động- ngƣời thụ
hƣởng chính sách BHXH có nghĩa vụ, trách nhiệm nuôi dƣỡng. Luật Bảo
hiểm xã hội 2014 quy định rất chặt chẽ về khái niệm thân nhân nhƣ sau:
“Thân nhân là con đẻ, con nuôi, vợ hoặc chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng của người tham gia bảo
hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn
nhân và gia đình” [18, Điều 3, Khoản 6].
Tùy vào điều kiện theo pháp luật quy định mà thân nhân của ngƣời lao
động đƣợc hƣởng chế độ tử tuất. Pháp luật quy định từng trƣờng hợp cụ thể
để đƣợc hƣởng trợ cấp mai táng phí, trợ cấp tiền tuất một lần hay trợ cấp tiền
tuất hàng tháng với mức trợ cấp dựa trên mức lƣơng cơ sở và điều kiện của
thân nhân cũng nhƣ ngƣời lao động- ngƣời đang đƣợc hƣởng chế độ BHXH.
Mai táng phí là khoản tiền mà cơ quan BHXH chi trả nhằm hỗ trợ
cho thân nhân ngƣời lao động, ngƣời hƣởng chế độ BHXH để thực hiện
việc ma chay đối với ngƣời đã chết. Khoản tiền này chỉ đƣợc trợ cấp một

lần với mức chung bằng 10 tháng lƣơng cơ sở tại tháng mà ngƣời lao độngngƣời đƣợc hƣởng chế độ BHXH chết hoặc tại thời điểm Tòa án nhân dân
tuyên bố là đã chết.
Trợ cấp tiền tuất hàng tháng là khoản tiền mà cơ quan bảo hiểm chi trả

13


nhằm hỗ trợ cho nhóm thân nhân đáp ứng đủ điều kiện hƣởng tuất hàng tháng
theo quy định của pháp luật BHXH bắt buộc.
Trợ cấp tiền tuất một lần là khoản tiền mà cơ quan bảo hiểm chi trả một
lần cho nhóm thân nhân đáp ứng đủ điều kiện hƣởng tuất một lần theo quy
định của pháp luật BHXH.
Nhƣ vậy, có thể đƣa ra khái niệm chế độ tử tuất nhƣ sau:
Chế độ tử tuất là một trong các chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm mai
táng phí và trợ cấp tuất một lần hoặc trợ cấp tuất hàng tháng nhằm hỗ trợ
hoặc thay thế một phần thu nhập bị mất cho thân nhân khi người lao độngngười đang được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội bị chết theo quy định của
pháp luật về bảo hiểm xã hội.
1.2. Đặc điểm của chế độ tử tuất
* Nằm trong tổng thể hoạt động bảo hiểm xã hội, chế độ tử tuất có sự
tham gia của cơ chế ba bên, chịu sự quản lý của nhà nước và được nhà
nước bảo hộ
Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động bảo hiểm là mối quan hệ giữa
nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH, chế độ tử
tuất cũng vậy, khi thiết lập quan hệ BHXH về chế độ tử tuất đều có sự tham
gia của các chủ thể: bên tham gia BHXH, bên BHXH, bên đƣợc BHXH:
- Bên tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy
định của pháp luật BHXH, bên tham gia BHXH, nhƣ đã nêu, gồm có ngƣời
lao động, ngƣời sử dụng lao động và Nhà nƣớc (trong một số trƣờng hợp).
- Bên BHXH đó là bên nhận tiền đóng góp BHXH từ những ngƣời
tham gia BHXH, có trách nhiệm thực hiện chi trả trợ cấp cho bên đƣợc

BHXH khi có nhu cầu phát sinh và có trách nhiệm quản lý, đầu tƣ cho quỹ
BHXH phát triển.
- Bên đƣợc BHXH là bên đƣợc quyền nhận các loại trợ cấp khi phát

14


sinh những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các loại sự
kiện, rủi ro đƣợc bảo hiểm gây ra, trong BHXH thì bên đƣợc BHXH là ngƣời
lao động tham gia BHXH và thân nhân của họ theo quy định của pháp luật,
khi họ có phát sinh nhu cầu đƣợc BHXH do pháp luật quy định.
Tóm lại, chế độ tử tuất là chế độ thể hiện đƣợc rõ nhất tính bảo đảm
an sinh xã hội của BHXH, thể hiện bằng việc bảo đảm bù đắp, hỗ trợ một
phần thu nhập bị mất do ngƣời lao động, ngƣời thụ hƣởng BHXH chết đối
với thân nhân khi họ đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật BHXH quy
định. Pháp luật về BHXH Việt Nam là một trong những quốc gia có quy
định một cách chặt chẽ, cụ thể trong văn bản pháp quy, coi chế độ tử tuất là
một trong những chế độ bắt buộc thuộc hệ thống các chế độ BHXH và có
chính sách nhằm đảm bảo chế độ tử tuất đƣợc thực hiện một cách đầy đủ.
Chế độ tử tuất đồng thời cũng thể hiện đƣợc tính ƣu việt, phân phối bình
đẳng của pháp chế xã hội chủ nghĩa.
* Đối tượng thụ hưởng chế độ tử tuất không chỉ là đối tượng tham
gia bảo hiểm xã hội mà còn là thân nhân của người tham gia bảo hiểm
xã hội
Bảo hiểm xã hội là cách thức tổ chức có sự tham gia của ngƣời lao
động và ngƣời sử dụng lao động nhằm mục đích mang lại lợi ích trƣớc tiên
cho ngƣời lao động. Trong quá trình tham gia quan hệ lao động và quan hệ
BHXH, ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động tham gia đóng góp vào
quỹ BHXH để chi trả cho những chế độ. Tuy nhiên, nếu nhƣ các chế độ hƣu
trí, thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, ngƣời lao động là

ngƣời tham gia BHXH và chính họ là ngƣời thụ hƣởng chế độ BHXH khi đáp
ứng đủ điều kiện pháp luật quy định thì đối với chế độ tử tuất, đối tƣợng thụ
hƣởng không chỉ là ngƣời trực tiếp tham gia BHXH, mà cả thân nhân của họ
cũng là đối tƣợng thụ hƣởng gián tiếp, bao gồm: con đẻ, con nuôi, vợ hoặc

15


chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc
mẹ chồng của ngƣời tham gia BHXH hoặc thành viên khác trong gia đình mà
ngƣời tham gia BHXH đang có nghĩa vụ nuôi dƣỡng theo quy định của pháp
luật về hôn nhân và gia đình. Các đối tƣợng thân nhân này không nằm trong
diện phải tham gia BHXH, họ không phải đóng bất kỳ khoản tiền nào để đƣợc
hƣởng chế độ tử tuất, nhƣng có thể coi họ là đối tƣợng “đặc biệt” cần có sự hỗ
trợ, bù đắp thay thế. Đặc điểm này cũng là minh chứng rõ ràng nhất cho
những ƣu việt mà chính sách BHXH mang lại.
* Chế độ tử tuất áp dụng đối với người lao động chết khi đang tham
gia quan hệ lao động và cả sau khi đã kết thúc quan hệ lao động
Ngƣời lao động có thời gian tham gia đóng BHXH, mà không may
gặp rủi ro bị chết, Luật BHXH quy định bất kể ngƣời lao động chết trong
quá trình đang tham gia quan hệ lao động hay đang trong quá trình thụ
hƣởng chế độ BHXH nhƣ thụ hƣởng chế độ BHXH ốm đau, thụ hƣởng chế
độ BHXH tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thụ hƣởng BHXH hƣu trí,…
thì sau khi chết ngƣời lao động đều đƣợc áp dụng hƣởng chế độ tử tuất theo
quy định của pháp luật BHXH. Cụ thể là sau khi ngƣời lao động chết sẽ
đƣợc hƣởng chế độ tử tuất là chế độ mai táng phí, chế độ tiền tuất hằng
tháng hoặc chế độ tiền tuất một lần cho thân nhân của họ theo quy định của
pháp luật BHXH, đây là đặc điểm cơ bản và nổi bật nhất của chế độ tử tuất
trong hệ thống các chế độ của BHXH.
* Chế độ tử tuất được hình thành và đảm bảo thực hiện từ quỹ thành

phần hưu trí và tử tuất trong hệ thống quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ đảm bảo an toàn thu nhập cho ngƣời lao
động nhƣng đƣợc hình thành do sự đóng góp của ba bên. Ngƣời lao động
đóng góp vào quỹ BHXH đảm bảo cho bản thân và gia đình họ trƣớc biến cố,
ngƣời sử dụng lao động đóng vào quỹ BHXH để thực hiện trách nhiệm của họ

16


đối với ngƣời lao động làm việc trong đơn vị, Nhà nƣớc đóng góp vào quỹ
BHXH với hai tƣ cách: nhà nƣớc với tƣ cách là ngƣời sử dụng lao động đóng
góp vào quỹ BHXH cho đội ngũ cán bộ công chức hƣởng lƣơng từ ngân sách
nhà nƣớc; với tƣ cách là chủ thể bảo hộ của quỹ BHXH nhà nƣớc có trách
nhiệm đóng góp nhằm bảo toàn sự hoạt động của quỹ. Có ba loại quỹ thành
phần trong quỹ BHXH bao gồm: quỹ ốm đau và thai sản; quỹ tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp; quỹ hƣu trí và tử tuất. Nguồn hình thành nên quỹ
thành phần hƣu trí và tử tuất từ đóng góp của ngƣời lao động, ngƣời sử dụng
lao động và hỗ trợ, đóng góp của nhà nƣớc, trong đó:
+ BHXH bắt buộc: Ngƣời lao động đóng 8% mức tiền lƣơng tháng vào
quỹ hƣu trí và tử tuất, Ngƣời sử dụng lao động hằng tháng đóng 14% trên quỹ
tiền lƣơng đóng BHXH của ngƣời lao động vào hƣu trí và tử tuất; Ngƣời lao
động là ngƣời đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật
ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng: mức đóng
hằng tháng vào quỹ hƣu trí và tử tuất bằng 22% mức tiền lƣơng tháng đóng
BHXH của ngƣời lao động trƣớc khi đi làm việc ở nƣớc ngoài, đối với ngƣời
lao động đã có quá trình tham gia BHXH bắt buộc; bằng 22% của 02 lần mức
lƣơng cơ sở đối với ngƣời lao động chƣa tham gia BHXH bắt buộc hoặc đã
tham gia BHXH bắt buộc nhƣng đã hƣởng BHXH một lần; Ngƣời lao động là
hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân
phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học đƣợc

hƣởng sinh hoạt phí: Ngƣời sử dụng lao động hằng tháng đóng trên mức
lƣơng cơ sở đối với mỗi ngƣời lao động thuộc trƣờng hợp này là 22% vào quỹ
hƣu trí và tử tuất.
+ BHXH tự nguyện: Ngƣời lao động tham gia BHXH tự nguyện hằng
tháng đóng 22% mức thu nhập tháng do ngƣời lao động lựa chọn để đóng vào
quỹ hƣu trí và tử tuất [18].

17


Với mức đóng này hình thành nên quỹ thành phần hƣu trí và tử tuất
trong hệ thống quỹ BHXH, làm cơ sở để thực hiện chi trả các chế độ BHXH
liên quan đến hƣu trí và tử tuất cho đối tƣợng.
1.3. Nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật đối với chế độ tử tuất
Nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật đối với chế độ tử tuất là những tƣ
tƣởng chỉ đạo xuyên suốt và chi phối toàn bộ hệ thống quy phạm pháp luật
BHXH trong việc điều chỉnh quan hệ về chế độ tử tuất, thể hiện quan điểm,
đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trong vấn đề đảm bảo ổn định
đời sống của ngƣời lao động, góp phần đảm bảo mục tiêu an sinh xã hội, phát
triển kinh tế- xã hội. Các nguyên tắc đó bao gồm:
* Nhà nước thống nhất quản lý bảo hiểm xã hội và đảm bảo thực
hiện chế độ tử tuất
Sự quản lý của nhà nƣớc trƣớc hết phải xuất phát từ chức năng của Nhà
nƣớc. Nhà nƣớc với tƣ cách là chủ sở hữu cao nhất, ngƣời đại diện cho toàn
bộ xã hội phải thực hiện trách nhiệm đối với công dân của mình, quản lý toàn
bộ các quan hệ BHXH, trong đó có chế độ tử tuất. Chỉ có Nhà nƣớc mới có
đầy đủ các điều kiện, khả năng thực hiện trọng trách này. Mặt khác, sự tham
gia của nhà nƣớc khi quản lý chế độ tử tuất trong BHXH thể hiện sự tiến bộ
và tinh thần nhân đạo của pháp luật nƣớc ta.
Việc thống nhất quản lý về chế độ tử tuất trƣớc hết thể hiện bằng việc

nhà nƣớc định ra các chính sách, cụ thể hóa bằng việc ban hành hệ thống pháp
luật điều chỉnh trực tiếp, chi tiết các quan hệ bảo hiểm, trong đó có quan hệ về
chế độ tử tuất, quy định về cơ chế quản lý quỹ hƣu trí và tử tuất, tổ chức thực
hiện, kiểm tra việc thực hiện trong thực tế, xử phạt đối với cá nhân, tổ chức có
hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến chế độ tử tuất. Vai trò quản lý nhà
nƣớc còn thể hiện bằng việc nhà nƣớc tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc, bộ
máy cơ quan BHXH để thống nhất quản lý trong phạm vi toàn quốc.

18


×