Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.34 KB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRƯƠNG THỊ HÀ

Gi¶i quyÕt tranh chÊp hîp ®ång mua b¸n hµng ho¸
theo thñ tôc s¬ thÈm t¹i Toµ ¸n nh©n d©n
thµnh phè Hµ Néi

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRƯƠNG THỊ HÀ

Gi¶i quyÕt tranh chÊp hîp ®ång mua b¸n hµng ho¸
theo thñ tôc s¬ thÈm t¹i Toµ ¸n nh©n d©n
thµnh phè Hµ Néi
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ THỊ THU THỦY

HÀ NỘI – 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trương Thị Hà


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HOÁ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ THEO THỦ TỤC SƠ
THẨM TẠI TÒA ÁN........................................................................ 6
1.1.


Khái niệm, đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hoá ....................... 6

1.1.1.

Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa............................................ 6

1.1.2.

Các đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa ................................. 9

1.2.

Khái niệm, đặc điểm tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá...... 14

1.2.1.

Khái niệm tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa ......................... 14

1.2.2.

Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa .................... 16

1.3.

Nguyên nhân xảy ra tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua
bán hàng hóa ................................................................................. 18

1.3.1.


Nguyên nhân chủ quan .................................................................... 18

1.3.2.

Nguyên nhân khách quan ................................................................ 21

1.4.

Đặc điểm của giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án nhân dân ................... 23

1.4.1.

Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong việc xét xử sơ
thẩm các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa............................ 23

1.4.2.

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
tại Tòa án nhân dân ......................................................................... 25

1.4.3.

So sánh việc giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
tại Tòa án với các hình thức giải quyết tranh chấp khác .................. 27


1.4.4.

So sánh việc xét xử sơ thẩm tranh chấp hợp đồng mua bán hàng

hóa theo thủ tục sơ thẩm với việc xét xử tranh chấp hợp đồng
mua bán hàng hóa theo thủ tục phúc thẩm ....................................... 31

Kết luận chương 1 ...................................................................................... 34
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ TÌNH HÌNH GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HOÁ THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI TOÀ ÁN NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................................................... 36
2.1.

Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa ở Việt Nam .............................................................................. 36

2.1.1.

Chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa...... 36

2.1.2.

Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa theo thủ tục sơ thẩm theo pháp luật Việt Nam .......................... 37

2.2.

Tình hình giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội từ năm 2007 đến năm 2012 .................................................... 51

2.3.


Một số tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa được xét xử
theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ......... 54

2.4.

Những vướng mắc, bất cập trong quá trình giải quyết các
tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá theo thủ tục sơ
thẩm tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội .............................. 67

2.4.1.

Những vướng mắc, bất cập từ cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa
án nói chung .................................................................................... 67

2.4.2.

Nhiều quy định của pháp luật còn chưa có sự thống nhất ................ 69

2.4.3.

Những vướng mắc, bất cập về việc áp dụng các quy định của pháp
luật về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa .......................................................................................... 74

2.4.4.

Vấn đề bổ nhiệm Thẩm phán, năng lực cán bộ, Thẩm phán còn
nhiều hạn chế .................................................................................. 77

2.4.5.


Quy trình tuyển chọn, cử Hội thẩm nhân dân cũng như năng lực
trình độ của Hội thẩm nhân dân còn nhiều hạn chế.......................... 80


2.4.6.

Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế xét xử ............... 81

2.4.7.

Án lệ chưa được coi là nguồn luật ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu
quả giải quyết các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa ............. 82

Kết luận chương 2 ...................................................................................... 83
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ THEO THỦ TỤC SƠ
THẨM TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......... 85
3.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật và
nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án .................................... 85

3.2.

Các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả giải quyết đối với
các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa tại Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội.......................................................... 86


3.2.1.

Về đổi mới tổ chức và hoạt động hệ thống Tòa án ........................... 86

3.2.2.

Về việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ............................................. 87

3.2.3.

Giải pháp nâng cao năng lực của Thẩm phán .................................. 92

3.2.4.

Bồi dưỡng, tổ chức lại lực lượng Hội thẩm nhân dân để đáp
ứng yêu cầu nâng cao chất lượng xét xử .......................................... 97

3.2.5.

Giải pháp tăng cường cơ sở vật chất cho Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội ...................................................................................... 97

3.2.6.

Cần có quy định về vận dụng án lệ trong các trường hợp pháp
luật chưa có quy định hoặc chưa quy định chưa rõ .......................... 99

3.2.7.


Một số giải pháp khác ................................................................... 101

Kết luận chương 3 .................................................................................... 102
KẾT LUẬN ............................................................................................... 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 107


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS:

Bộ luật dân sự

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

LTM:

Luật thương mại

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn



DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Số liệu giải quyết án tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa trong tổng án kinh doanh thương mại giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội các năm từ 2007 đến 2012

52


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một trong những loại hợp đồng đặc
trưng và phổ biến nhất trong hoạt động kinh doanh thương mại, là thỏa thuận
của hai bên gồm bên mua và bên bán nhằm đạt được lợi ích mà các bên mong
đợi khi thiết lập hợp đồng. Theo thời gian, hoạt động mua bán hàng hoá ngày
càng phát triển đa dạng, nhiều sắc màu với sự tăng lên về số lượng hàng hoá,
số lượng người tham gia kinh doanh. Ngày nay, mua bán hàng hoá không chỉ
diễn ra giữa bên mua và bên bán trong nước mà phạm vi kinh doanh lan rộng
ra phạm vi thế giới. Cùng với đó, các tranh chấp thương mại nói chung và hợp
đồng mua bán hàng hoá nói riêng ngày càng gia tăng về số lượng cũng như sự
phức tạp của từng vụ việc đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật điều chỉnh
toàn diện cũng như cơ chế giải quyết nhanh gọn, làm sao để không ảnh hưởng

đến uy tín của doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh của các bên.
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định các hình thức giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh nói chung và đối với loại hợp đồng mua bán hàng hoá
nói riêng gồm thương lượng, hoà giải, Trọng tài và Toà án. Các bên được tự
do thỏa thuận hình thức này hay hình thức khác để giải quyết tranh chấp theo
quy định của pháp luật.
Ở Việt Nam, thẩm quyền xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm do Tòa án
cấp huyện, quận thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Tòa án nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương xét xử. Trong đó, Tòa án nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm các tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quy định tại điểm a, Khoản
1 Điều 29 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004 mà không thuộc thẩm quyền của
cấp huyện; những tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa mà đương sự hoặc

1


tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện của
Việt Nam ở nước ngoài. Như vậy, không phải tất cả các tranh chấp về hợp
đồng mua bán hàng hóa đều được giải quyết ở các tòa án nhân dân cấp tỉnh,
nhưng tính chất của việc xét xử sơ thẩm này là hết sức quan trọng vì đây
thường là những vụ án phức tạp, động chạm tới quyền lợi của nhiều chủ thể
tham gia thị trường, làm sao để việc xét xử được thuận lợi, không ảnh hưởng
đến uy tín của các bên kinh doanh mà vẫn đảm bảo đúng các quy định của
pháp luật là điều quan trọng mà Nhà nước luôn yêu cầu các Thẩm phán tại
các Tòa án phải đặt lên hàng đầu.
Hà Nội là trung tâm kinh tế - chính trị của cả nước, là địa bàn thu hút
đầu tư mạnh mẽ của các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Cùng
với các hoạt động khác, hoạt động kinh doanh thương mại tại đây diễn ra sôi
nổi trong đó có các hoạt động mua bán hàng hoá. Những năm gần đây, các

tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá tại địa bàn thành phố Hà Nội có sự
gia tăng khá nhanh, một phần là do từ năm 2008, tỉnh Hà Tây sáp nhập vào
thành phố Hà Nội, do đó địa bàn thành phố Hà Nội được mở rộng, nhiều khu
công nghiệp được các nhà đầu tư xây dựng, hoạt động mua bán hàng hoá diễn
ra đa dạng hơn với rất nhiều doanh nghiệp mới được thành lập trên địa bàn thủ đô.
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định khá đầy đủ về trình tự, thủ tục
thụ lý và xét xử sơ thẩm đối với các loại tranh chấp trong đó có tranh chấp về
hợp đồng mua bán hàng hoá. Tuy nhiên, để công tác giải quyết án sơ thẩm đối
với các tranh chấp mua bán hàng hoá tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
đạt được hiệu quả cao hơn nữa đòi hỏi phải có sự hoàn thiện về nhiều mặt,
trong đó có việc hoàn thiện các quy định của pháp luật, về chính sách, về
nguồn lực cán bộ, về điều kiện cơ sở vật chất.
Với các nội dung nêu trên, đề tài của học viên lựa chọn “Giải quyết tranh
chấp hợp đồng mua bán hàng hoá theo thủ tục sơ thẩm tại Toà án nhân dân
thành phố Hà Nội’’ là cần thiết nghiên cứu, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

2


2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này
như: Đề tài cấp Bộ: “Tính đặc thù trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế,
lao động. Những vấn đề lý luận và thực tiễn” - Chủ nhiệm đề tài: TS Nguyễn
Văn Dũng, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao - 2001; Đề tài cấp bộ:
“Những giải pháp nâng cao năng lực và chất lượng xét xử các tranh chấp
thương mại tại Toà án nhân dân” – Chủ nhiệm đề tài: CN Đỗ Cao Thắng,
Chánh tòa Tòa Kinh tế - 2004; Các bài viết trong các tạp chí chuyên ngành
của Tòa án nhân dân tối tao, Bộ Tư pháp.
Có thể nói, đã có một số công trình và bài báo nghiên cứu về vấn đề này
nhưng nhìn chung các công trình, bài báo mới chỉ tập trung nghiên cứu những

vấn đề chung, chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu, chuyên biệt về
việc giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá theo thủ tục sơ thẩm tại
Toà án nói chung và Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội nói riêng. Kế thừa và
phát huy kết quả nghiên cứu của các tác giả và xuất phát từ những lý do nêu trên,
học viên chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá theo
thủ tục sơ thẩm tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội” để nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn
3.1. Mục đích của Luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các vấn đề lý luận, các
quy định của pháp luật Việt Nam về việc xét xử các vụ án tranh chấp mua bán
hàng hoá theo thủ tục sơ thẩm; phân tích thực trạng việc xét xử và đưa ra giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo thủ tục sơ thẩm đối với loại tranh
chấp này tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn phải có nhiệm vụ:
- Xác định khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá; khái
niệm, đặc điểm về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá.

3


- Trên cơ sở giải quyết những vấn đề về mặt lý luận, nghiên cứu
pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, thực tiễn
việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá theo thủ tục
sơ thẩm tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, bất cập trong thực tiễn
(thông qua các vụ án đã thụ lý, số vụ án đã giải quyết, số vụ án chưa giải
quyết), trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xét
xử loại tranh chấp này theo thủ tục sơ thẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật

Việt Nam về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa
theo thủ tục sơ thẩm; thực tiễn giải quyết các tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn trọng tâm nghiên cứu thực tiễn xét
xử các tranh chấp mua bán hàng hoá được coi là tranh chấp kinh doanh
thương mại (được Luật Thương mại và Bộ luật Tố tụng dân sự điều chỉnh
và được Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm).
5. Phương pháp nghiên cứu của Luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật, về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân
tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, logic… tham khảo
các tài liệu, sách báo liên quan đến vấn đề tranh chấp mua bán hàng hoá và
giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá.
6. Những đóng góp của Luận văn
Luận văn đã hệ thống hóa, làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn áp

4


dụng pháp luật về xét xử sơ thẩm các vụ án tranh chấp mua bán hàng hoá. Đề
xuất một số phương hướng, giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật cũng như
góp phần nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án tranh chấp mua bán hàng hoá
theo thủ tục sơ thẩm, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
7. Ý nghĩa của Luận văn
- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng
tỏ các vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hoá, tranh chấp hợp đồng

mua bán hàng hoá và giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá theo
pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của một số quốc gia trên thế giới; thực
tiễn giải quyết loại tranh chấp này tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu Đề tài có ý nghĩa quan trọng
trong việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án, nâng cao nhận thức của những
người làm thực tiễn, để áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn công tác của tác
giả cũng như các cán bộ làm công tác xét xử tại các Toà án.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng mua bán hàng
hóa và giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm
tại Tòa án.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và tình hình giải quyết tranh chấp
hợp đồng mua bán hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội.
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HOÁ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HOÁ THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TẠI TÒA ÁN

1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hoá

1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo quy định tại khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 (sau đây
gọi tắt là LTM 2005): mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó
bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua
và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng
và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Vậy hợp đồng mua bán hàng hóa
là sự thỏa thuận giữa bên mua và bên bán hàng hóa, theo đó, bên mua và bên
bán cùng nhau ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa để bên bán giao hàng và
chuyển quyền sở hữu hàng hóa, còn bên mua thì có nghĩa vụ thanh toán tiền
hàng cho bên bán để nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ
sung năm 2011 (Sau đây gọi tắt là BLTTDS 2004) thì Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi tắt là Tòa án cấp tỉnh) có
thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa quy định tại điểm a khoản 1 Điều 29 BLTTDS 2004 mà không
thuộc thẩm quyền của cấp huyện; những tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa mà đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho
cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài thì thuộc Tòa án nhân dân cấp
tỉnh giải quyết.
Ngoài ra, không phải bất cứ một tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa nào cũng đều là tranh chấp kinh doanh thương mại, một tranh chấp về

6


hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là tranh chấp kinh doanh thương mại
khi cả hai bên hoặc một trong hai bên có đăng ký kinh doanh và đều phải có
mục đích lợi nhuận, nếu hai bên đều có đăng ký kinh doanh nhưng chỉ cần
một bên không vì mục đích lợi nhuận thì cũng không phải là tranh chấp kinh
doanh thương mại. Do vậy, việc xét xử theo thủ tục sơ thẩm các vụ án tranh

chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa theo thủ tục sơ thẩm tại Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội nói riêng và ở Tòa án nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương nói chung trên địa bàn cả nước được phân cho hai Tòa
chuyên trách riêng biệt là Tòa Dân sự và Tòa Kinh tế. Ở phạm vi đề tài của
luận văn, học viên mong muốn dành phần lớn nội dung của chuyên đề để
nghiên cứu về loại tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là tranh
chấp kinh doanh thương mại (có tính chất thương mại), được LTM 2005 điều
chỉnh và được Tòa Kinh tế thụ lý giải quyết.
Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hiện nay ngoài việc xét
xử sơ thẩm các tranh chấp về kinh doanh thương mại về hợp đồng mua bán
hàng hóa quy định tại điểm a, Khoản 1 Điều 29 BLTTDS 2004 mà không
thuộc thẩm quyền của cấp huyện, hoặc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp
huyện nhưng cấp tỉnh xét thấy cần thiết nên lấy lên giải quyết. Tòa Kinh tế
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội còn có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các
tranh chấp hợp đồng mua bán có yếu tố nước ngoài hay còn gọi là hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu một số vấn đề liên
quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Về mặt lý luận, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải đảm bảo cần
và đủ hai yếu tố: thứ nhất, là hợp đồng mua bán hàng hóa trong lĩnh vực
thương mại; thứ hai, hợp đồng này phải có yếu tố nước ngoài (yếu tố nước
ngoài của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể rơi vào một trong ba trường hợp
là chủ thể, sự kiện pháp lý và đối tượng của hợp đồng).

7


Về mặt pháp luật thực định, do cách tiếp cận, nhu cầu và mục đích khác
nhau mà pháp luật mỗi nước, mỗi điều ước quốc tế hay tập quán có cách gọi
tên cũng như xác định nội hàm khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa một
cách khác nhau.

- Theo Điều 1 Phụ lục của Công ước La Haye 1964 về “Luật thống nhất
về thiết lập mua bán hàng hóa quốc tế các động sản hữu hình” thì hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa
các bên có trụ sở thương mại đóng trên lãnh thổ các quốc gia khác nhau nếu
có một trong các điều kiện sau: Thứ nhất: hợp đồng liên quan đến vật mà
trong thời gian ký kết hợp đồng vật đó được chuyên chở hoặc phải được
chuyên chở từ lãnh thổ của quốc gia này đến lãnh thổ của quốc gia khác; Thứ
hai, hành vi chào hàng và hành vi chấp nhận chào hàng được thực hiện trên
lãnh thổ của các quốc gia khác nhau; Thứ ba, việc giao hàng được thực hiện
trên lãnh thổ của một quốc gia khác với quốc gia nơi tiến hành hành vi chào
hàng hoặc hành vi chấp nhận chào hàng.
- Công ước Viên 1980 của Liên Hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế không đưa ra bất kỳ định nghĩa nào về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế mà chỉ quy định như sau: Công ước này áp dụng cho các hợp
đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia
khác nhau. Áp dụng trong hai trường hợp cụ thể là: 1) Khi các quốc gia này là
thành viên của Công ước; 2) Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật áp
dụng là luật của các nước thành viên công ước này.
Ở Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được biết đến trong
nhiều văn bản với các tên gọi khác nhau như hợp đồng mua bán ngoại thương
(Quy chế tạm thời số 4794/TN-XNK ngày 31-7-1991 của Bộ Thương nghiệpBộ Công thương ngày nay), hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân
nước ngoài (Luật Thương mại Việt Nam năm 1997), hợp đồng xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hóa (LTM 2005).

8


Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hiện nay được quy định trong
LTM 2005 và Nghị định số 12/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23-1-2006
quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hợp đồng mua bán hàng hóa

quốc tế và các đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước
ngoài. LTM 2005 quy định: “Mua bán hàng hóa được thực hiện dưới hình
thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển
khẩu” [39, Điều 27]. Như vậy, yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế ở đây chỉ là hàng hóa là đối tượng của hợp đồng phải được giao
dịch qua biên giới. Với những loại hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà
hàng hóa không có sự dịch chuyển qua biên giới thì rõ ràng sẽ không thuộc
phạm vi điều chỉnh của LTM 2005. Tuy nhiên, với tư duy coi Bộ luật Dân sự
Việt Nam năm 2005 (Sau đây gọi tắt là BLDS 2005) là “đạo luật gốc” bao
trùm lên tất cả các lĩnh vực kinh tế - thương mại, hôn nhân và gia đình, lao
động thì đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà hàng hóa
không được chuyển qua biên giới quốc gia, chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng
các quy định của BLDS 2005 đối với phần hợp đồng có yêu tố nước ngoài nói
chung để điều chỉnh.
1.1.2. Các đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Với việc coi BLDS 2005 là “đạo luật gốc” thì chúng ta thấy rằng, nhiều
vấn đề về hợp đồng mua bán hàng hóa được điều chỉnh bởi pháp luật không
có sự khác biệt so với hợp đồng mua bán tài sản trong dân sự. Bên cạnh đó,
để phù hợp với bản chất thương mại của hợp đồng mua bán hàng hóa, một số
vấn đề như chủ thể của hợp đồng, hình thức của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, chế tài và việc giải
quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định trong pháp
luật thương mại là sự phát triển tiếp tục những quy định của pháp luật dân sự
về hợp đồng mua bán tài sản. Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ
mua bán hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa có những đặc điểm sau đây:

9


* Về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa

Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập chủ yếu giữa
các thương nhân. Khái niệm thương nhân theo quy định tại LTM 2005 như
sau: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh” [39, Điều 6, Khoản 1].
Khái niệm thương nhân được đề cập đến trong LTM 2005 trên đây có
thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài.
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa cũng được ghi nhận đối với tổ
chức, cá nhân không phải là thương nhân khi các chủ thể này lựa chọn áp
dụng LTM 2005, khi đó quan hệ mua bán hàng hóa đó sẽ tuân theo các quy
định của LTM 2005.
Khái niệm thương nhân nước ngoài không được LTM 2005 đề cập đến.
Tuy nhiên, chúng ta có thể xem xét khái niệm dưới đây: Thương nhân nước
ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nước ngoài và được pháp luật nước ngoài công nhận. Khái niệm này
cần được phân biệt với khái niệm thương nhân nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam, bởi khái niệm thương nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam là
thương nhân có văn phòng đại diện, chi nhánh tại Việt Nam.
* Về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo quy định tại LTM 2005 thì: “Hợp đồng mua bán hàng hóa được
thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải
được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó” [39, Điều 24].
Như vậy, về hình thức, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được thiết
lập theo cách thức mà hai bên thể hiện được sự thỏa thuận về việc mua bán
hàng hóa giữa các bên. Pháp luật cho phép các bên có quyền tự thỏa thuận với

10



nhau những điều khoản không trái với quy định của pháp luật. So với Pháp
lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 thì đây là một sự tiến bộ, theo hướng có lợi
hơn cho các chủ thể tham gia hợp đồng, bởi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế quy
định, hợp đồng kinh tế (bao gồm cả hợp đồng mua bán hàng hóa) chỉ được
thực hiện bằng hình thức duy nhất là văn bản.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, pháp luật một số nước
trên thế giới và một số điều ước quốc tế như Công ước Rome 1980 về áp
dụng luật đối với nghĩa vụ hợp đồng, pháp luật Việt Nam và các Hiệp định
tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với nước ngoài đều không đưa ra một quy
định riêng. Các nước đều có những quy định đòi hỏi hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế chỉ hợp pháp khi thỏa mãn các điều kiện nhất định như hợp đồng
phải được ký kết dưới hình thức văn bản (hoặc các hình thức khác có giá trị
pháp lý tương đương), lời nói hay hành vi nhất định. Có một số quốc gia quy
định một cách chặt chẽ về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,
ví dụ như ở Công hòa Pháp, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bắt buộc
phải được công chứng.
Công ước Viên 1980 của Liên Hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế không yêu cầu các bên phải ký, xác nhận bằng văn bản hoặc phải tuân
thủ bất kỳ yêu cầu nào về mặt hình thức của hợp đồng, nghĩa là không quy định
bắt buộc về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Các bên có thể
dùng bất kỳ phương tiện nào, kể cả lời khai nhân chứng để chứng minh sự tồn
tại của hợp đồng, tuy nhiên các quy định tại Công ước Viên cũng cho thấy
rằng, nếu nước thành viên mà trong pháp luật của nước đó đòi hỏi hợp đồng
phải được ký kết hoặc phê chuẩn dưới hình thức văn bản thì điều quy định này
của pháp luật nước thành viên đó phải được tôn trọng [33, Điều 12, 96].
Theo PICC (nguyên tắc không bắt buộc về hình thức của hợp đồng –
No Form Required), việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không

11



đòi hỏi phải tuân theo bất kỳ điều kiện nào về hình thức (Điều 1.2). Tuy
nhiên, theo Điều 1.4 của PICC về những quy phạm bắt buộc – Mandatory
Rules thì “Bộ nguyên tắc này không hạn chế những quy phạm bắt buộc, có
nguồn gốc quốc gia, quốc tế phù hợp với các quy phạm có liên quan của tư
pháp quốc tế”, tức là nguyên tắc tự do về hình thức của hợp đồng có thể bị
hạn chế bởi các quy định của pháp luật quốc gia hoặc pháp luật quốc tế. Theo
đó, nếu trong pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế có liên quan bắt buộc hình
thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được xác lập bằng văn bản
thì các bên sẽ phải tuân theo quy định này.
Pháp luật Việt Nam quy định hình thức của hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị
pháp lý tương đương. Trong đó, hình thức có giá trị tương đương văn bản bao
gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy
định của pháp luật [39, Đ3, Đ27]. Tuy nhiên, trong một số trường hợp pháp
luật Việt Nam quy định ngoài việc hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải
được lập thành văn bản thì còn phải được đăng ký, phê duyệt của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thì mới có hiệu lực, ví dụ như đối với hợp đồng chuyển
nhượng quyền sở hữu công nghiệp có yếu tố nước ngoài thì phải được sự phê
duyệt của Bộ Khoa học và Công nghệ; ngoài ra hợp đồng mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa thì hình thức của hợp đồng cũng bắt buộc phải
bằng văn bản.
* Về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Theo quy định của
LTM 2005, hàng hóa bao gồm: a) tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình
thành trong tương lai; b) những vật gắn liền với đất đai [39, Điều 3, Khoản 2].
Với cách hiểu như vậy, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng
hóa có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại, hiện hữu hoặc hàng hóa sẽ có trong

12



tương lai; hàng hóa có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông
trong thương mại. So với quy định của LTM 1997 thì đối tượng của hợp đồng
đã được mở rộng hơn. Không dừng lại ở việc liệt kê các loại hàng hóa là đối
tượng của hợp đồng, LTM 2005 quy định theo hướng ngày càng mở rộng đối
tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa cho phù hợp với xu hướng phát triển
của đất nước.
Liên quan đến việc quy định hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua
bán hàng hóa, pháp luật của các quốc gia cũng như các điều ước có các quy
định khác nhau phù hợp với pháp luật cũng như tập quán của mỗi nước. Tuy
nhiên, tất cả đều có xu hướng mở rộng các đối tượng là hàng hóa được phép
lưu thông trong thương mại.
Công ước Viên 1980 của Liên hiệp quốc về Hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế chỉ loại trừ (không áp dụng) đối với việc mua bán một số loại
hàng hóa như chứng khoán, giấy đảm bảo chứng từ và tiền lưu thông, điện
năng, phương tiện vận tải đường thủy, đường không, phương tiện vận tải bằng
khinh khí cầu.
Theo pháp luật Hoa kỳ, hàng hóa bao gồm mọi thứ có thể dịch
chuyển được (quyền sở hữu) vào thời gian xác định theo hợp đồng mua bán
hàng hóa; hàng hóa có thể là hàng hóa đã có ở hiện tại hoặc hàng hóa sẽ có
trong tương lai [20, tr.21].
Ở nước ta, ngoài quy định về các loại hàng hóa được lưu thông trong
thương mại nêu trên, Chính phủ ban hành cụ thể danh mục hàng hóa cấm kinh
doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện và điều kiện để kinh
doanh các loại hàng hóa này [10]; ngoài ra, trong một số trường hợp nhất
định, các cơ quan chức năng có thẩm quyền được phép áp dụng các biện pháp
khẩn cấp tạm thời đối với hàng hóa lưu thông trong nước, theo đó hàng hóa
được lưu thông trong nước có thể áp dụng một hoặc các biện pháp buộc phải


13


thu hồi, cấm lưu thông, tạm ngừng lưu thông, lưu thông có điều kiện hoặc
phải có giấy phép lưu thông đối với một trong các trường hợp sau: 1) Hàng
hóa đó là nguồn gốc hoặc phương tiện lây truyền các loại dịch bệnh; 2) Xảy
ra tình trạng khẩn cấp.
* Về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa là các điều khoản do các bên
thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Theo
đó, bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua
và nhận tiền; còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hóa và trả tiền cho bên bán.
Khác với LTM 1997, LTM 2005 đã bỏ các quy định về nội dung chủ
yếu của hợp đồng và thay vào đó là việc dành quyền tự do thỏa thuận cho các
bên tham gia trong hợp đồng, điều này là phù hợp với xu hướng phát triển và
hội nhập của đất nước và có sự tương thích với quy định của pháp luật của
nhiều quốc gia trên thế giới. Các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục
địa như Pháp, Bỉ quy định hợp đồng mua bán hàng hóa cần phải thỏa thuận rõ
về đối tượng, chất lượng và giá cả. Trong khi các nước thuộc hệ thống pháp
luật Anh - Mỹ về cơ bản chỉ bắt buộc thỏa thuận về điều khoản đối tượng của
hợp đồng mua bán hàng hóa, không coi điều khoản giá cả của hợp đồng là
điều khoản chủ yếu mà việc định giá có thể dựa trên nguyên tắc giá thích hợp.
Theo Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì
bên cạnh các điều khoản đối tượng và giá cả, điều khoản về số lượng hàng
hóa cũng được coi là điều khoản chủ yếu, bắt buộc của hợp đồng mua bán
hàng hóa, ngoài ra các bên có thể thỏa thuận và ghi vào hợp đồng những
điều khoản khác.
1.2. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá
1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa là những mâu thuẫn, bất đồng


14


về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia trong hợp đồng mà chủ yếu là
liên quan đến việc thực hiện hoặc không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo
hợp đồng. Tranh chấp có thể phát sinh từ nội dung của hợp đồng, giải thích
hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, thực hiện hợp
đồng, sửa đổi, bổ sung chấm dứt hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng…
Vi phạm hợp đồng là căn cứ làm phát sinh tranh chấp giữa các bên.
Điều kiện để quy trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường
thiệt hại cho bên bị vi phạm, hay nói cách khác những điều kiện nào được coi
là cần và đủ để quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại? Nhìn chung, Công ước
Viên năm 1980, pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước trên thế giới
đều có những quy định tương đối giống nhau về các căn cứ để quy trách
nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng. Nếu người bán không thực hiện một nghĩa
vụ nào đó của họ được quy định trong hợp đồng, trong Công ước hay trong
pháp luật, thì người mua có căn cứ để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ví du,
Theo Công ước Viên năm 1980 (Điều 61), nếu người mua không thực hiện
một nghĩa vụ nào đó trong hợp đồng hay trong Công ước này thì người bán có
căn cứ đòi bồi thường thiệt hại. Như vậy, khi một bên vi phạm bất cứ một
nghĩa vụ nào mà gây thiệt hại cho phía bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.
Điểm chung của Công ước Viên năm 1980, pháp luật Việt Nam và
pháp luật các nước để quy định trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng đối
với bên bị vi phạm cần có đủ các điều kiện sau đây:
- Có sự vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa;
- Có sự thiệt hại về tài sản của bên bị vi phạm;
- Có quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại về
tài sản;

- Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.

15


1.2.2. Đặc điểm của tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa mang lại cho bên mua và bên
bán những quyền lợi nhất định, hay nói cách khác là khi các bên tiến hành ký
kết một hợp đồng mua bán thì hợp đồng đó hẳn mang lại cho họ những hi
vọng về lợi nhuận nào đó. Đồng thời, hợp đồng đó cũng ràng buộc các bên
những nghĩa vụ nhất định. Các nghĩa vụ này không phải sẵn có mà xuất phát
trên cơ sở hợp đồng mà các bên đã ký kết với nhau. Tranh chấp về hợp đồng
mua bán hàng hóa phát sinh khi các bên không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng những điều khoản đã cam kết trong hợp đồng. Các đặc điểm của
tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa được phân tích trên cơ sở các yếu tố
làm phát sinh tranh chấp để qui trách nhiệm thuộc về bên mua hay bên bán.
Cụ thể, tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa dựa trên các yếu tố sau:
- Có sự vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa:
Vi phạm hợp đồng thể hiện trong việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng. Ví dụ như là bên bán
không giao hàng, giao hàng chậm, giao hàng thiếu, giao hàng sai chủng loại,
giao hàng kém chất lượng hay vi phạm đối với bên mua là không trả tiền,
chậm trả tiền, trả tiền thiếu v.v. Chúng ta biết rằng, hợp đồng tuy là sự thể
hiện ý chí thống nhất giữa các bên, song một khi đã được xác lập, ký kết thì
việc thực hiện các nghĩa vụ đó là bắt buộc. Ví dụ như Điều 1134 Bộ luật Dân
sự của Cộng hòa Pháp quy định: “Các thỏa thuận được hình thành hợp pháp
là Luật bắt buộc với những người làm nên nó”.
- Có thiệt hại về tài sản của bên bị vi phạm:
Thiệt hại về tài sản trong hợp đồng mua bán hàng hóa là căn cứ để bên
bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại. Nghĩa vụ chứng minh

thiệt hại thuộc về bên bị vi phạm. Nếu không chứng minh được thì không có
căn cứ để yêu cầu Tòa án xem xét để bồi thường thiệt hại cho họ. Liên quan

16


đến vấn đề thiệt hại do vi phạm hợp đồng, pháp luật của các nước có quy định
khác nhau: Luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC) quy định: Thiệt hại
bao gồm thiệt hại chung, thiệt hại phụ và thiệt hại phát sinh; Bộ luật Dân sự
của Pháp thì quy định: “Bên vi phạm chỉ phải bồi thường thiệt hại mà do hợp
đồng quy định hoặc dự kiến được vào thời điểm ký kết hợp đồng nếu anh ta
không hề lừa dối để dẫn đến việc không thực hiện nghĩa vụ” (Điều 1150).
- Có quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại vật
chất xảy ra:
Điều này có nghĩa là vi phạm hợp đồng phải là nguyên nhân, còn thiệt
hại về tài sản của bên bị vi phạm là hậu quả của nó thì mới có căn cứ để yêu
cầu bồi thường thiệt hại. Hay nói cách khác chỉ bồi thường những thiệt hại
gây ra bởi hành vi vi phạm hợp đồng. Công ước Viên 1980 cũng đã quy định:
“Tổn thất là những khoản một bên phải gánh chịu do hậu quả của việc vi
phạm hợp đồng”.
- Có lỗi của bên vi phạm:
Đây là điều kiện để quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng của bên vi phạm. Nếu một bên vi phạm hợp đồng mà không có lỗi
thì không phải bồi thường thiệt hại. Ví dụ, bên bán đã chuẩn bị xong hàng hóa
cho bên mua và chuẩn bị giao hàng theo hợp đồng thì bão ập đến cuốn trôi
hàng và làm thiệt hại phần lớn hàng hóa khiến bên bán không thể giao hàng
theo đúng thời hạn như hai bên đã ký kết. Như vậy, đây là sự kiện bất khả
kháng, việc không giao hàng đúng thời hạn không có lỗi của bên bán hàng.
Về vấn đề xem xét lỗi trong hợp đồng mua bán hàng hóa, nguyên tắc là
bên bị vi phạm không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên vi phạm. Tuy

nhiên, bên bị vi phạm có quyền quy đoán lỗi của bên vi phạm. Do vậy, việc
xác định lỗi của bên vi phạm được dựa trên nguyên tắc suy đoán lỗi. Bên vi
phạm hợp đồng nếu muốn không phải chịu trách nhiệm thì phải tự chứng

17


×