Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Quyền việc làm của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 80 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ THU HẰNG

QUYÒN VIÖC LµM CñA NG¦êI KHUYÕT TËT
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ THU HẰNG

QUYÒN VIÖC LµM CñA NG¦êI KHUYÕT TËT
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ THÚY LÂM

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy, trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Thu Hằng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VIỆC LÀM
CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA
PHÁP LUẬT ....................................................................................... 7
1.1.

Khái niệm ngƣời khuyết tật ............................................................. 7

1.2.

Khái niệm và ý nghĩa quyền việc làm của ngƣời khuyết tật ....... 15


1.3.

Điều chỉnh pháp luật về quyền việc làm của ngƣời khuyết tật........ 18

1.3.1.

Khái niệm và nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về quyền việc
làm của ngƣời khuyết tật ................................................................... 18

1.3.2.

Nội dung điều chỉnh pháp luật về quyền việc làm của ngƣời
khuyết tật ........................................................................................... 21

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 31
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VIỆC LÀM CỦA
NGƢỜI KHUYẾT TẬT TẠI VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH ...................................................................................... 32
2.1.

Các quyền việc làm của ngƣời khuyết tật và thực tiễn thực hiện ..... 32

2.1.1.

Quyền đƣợc bảo đảm quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm
và nơi làm việc .................................................................................. 33

2.1.2.


Quyền đƣợc bình đẳng, không bị phân biệt đối xử về cơ hội tìm
kiếm việc làm .................................................................................... 35

2.1.3.

Quyền đƣợc làm việc trong điều kiện an toàn lao động, vệ sinh
lao động ............................................................................................. 41


2.2.

Các biện pháp đảm bảo quyền việc làm của ngƣời khuyết tật
và thực tiễn thực hiện ..................................................................... 47

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 55
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUYỀN VIỆC LÀM CỦA
NGƢỜI KHUYẾT TẬT .................................................................... 56
3.1.

Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về quyền việc làm của ngƣời
khuyết tật ......................................................................................... 56

3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền việc
làm của ngƣời khuyết tật ................................................................ 58

3.3.


Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về quyền việc làm của ngƣời khuyết tật ................................ 63

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 71


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLĐTB&XH

Bộ Lao động Thƣơng binh & Xã hội

BLLĐ

Bộ luật Lao động

ĐHĐ LHQ

Đại hội đồng Liên Hợp Quốc

HCM

Hồ Chí Minh

ICESCR

Công ƣớc quốc tế về quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa


ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế

NHCSXH

Ngân hàng chính sách xã hội

NKT

Ngƣời khuyết tật

SXKD

Sản xuất kinh doanh

UDHR

Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền

UN

Liên Hợp Quốc


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Có thể thấy, Việt Nam đang ngày càng bƣớc vào giai đoạn hội nhập
mạnh mẽ với thế giới trên nhiều phƣơng diện và lĩnh vực. Trong đó, không

thể không kể đến công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo, đấu tranh chống lại bất bình đẳng của xã hội, nâng cao chất lƣợng
cuộc sống cho mọi tầng lớp dân cƣ nói chung và sự chung tay của Việt Nam
trong lộ trình thúc đẩy quyền lợi và khả năng hỗ trợ cho NKT nói riêng.
Tại lễ ra mắt Uỷ ban Quốc gia về NKT Việt Nam năm 2016, Phó Thủ
tƣớng Vũ Đức Đam đã nhận định rằng:
Ngƣời khuyết tật có thể có cơ thể không lành lặn nhƣng có tâm hồn
cao đẹp mà không ít ngƣời dù cơ thể lành lặn lại không có đƣợc. Họ
là những ngƣời đặc biệt, những ngƣời rất đáng khâm phục, đáng
đƣợc trân trọng. Họ tuyệt nhiên không cần những ngƣời khác
thƣơng hại. Họ cần sự tôn trọng, sẻ chia, tạo điều kiện để cùng nhau
làm cuộc sống này có ý nghĩa hơn [32].
Theo con số thống kê của “Ủy ban quốc gia về Người khuyết tật Việt
Nam ” về số lƣợng NKT của nƣớc ta là 8 triệu ngƣời, chiếm khoảng 7,8% dân
số, trong đó 58% NKT là phụ nữ, 10% NKT thuộc hộ nghèo [33] và chỉ có
40% ngƣời khuyết tật còn khả năng lao động. Đa số ngƣời khuyết tật trong độ
tuổi lao động, sống ở nông thôn, gặp khó khăn về nhiều mặt. Thế nhƣng, cả
nƣớc mới có khoảng 30% trong tổng số gần 2 triệu NKT ở độ tuổi lao động,
còn khả năng lao động có việc làm, tạo thu nhập cho bản thân, gia đình và xã
hội. Họ chủ yếu làm nông, lâm, ngƣ nghiệp, công việc không ổn định, thu
nhập thấp. Nhƣ vậy, nƣớc ta còn hơn 1 triệu ngƣời khuyết tật có khả năng lao

1


động chƣa tham gia lao động. Họ chƣa tham gia lao động bởi một phần các
chính sách tạo việc làm cho NKT còn hạn chế, chƣa thực sƣ hiệu quả, NKT
thƣờng bị cho là vô dụng, không có khả năng lao động, các chủ lao động chƣa
nhận thức đƣợc năng lực của NKT (nhƣ sự tận tụy, trung thành...) nên chƣa
có chiến lƣợc sắp xếp và sử dụng ngƣời lao động; cộng với tâm lý tự ti trở

thành rào cản rất lớn cho ngƣời khuyết tật tham gia vào xã hội.
Bên cạnh đó, một số NKT bị lợi dụng trở thành công cụ kiếm tiền của
những kẻ bất lƣơng là hiện trạng chúng ta có thể thấy hàng ngày. Tại các
thành phố lớn nhƣ Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt tại các
địa điểm du lịch, các khu chợ đông đúc, các ngã tƣ nhộn nhịp, những ngƣời
khuyết tật với những bộ quần áo lem luốc, bẩn thỉu, rách rƣới cùng với bộ
dạng đáng thƣơng “đƣợc tung ra” để xin tiền. Đây là một trong những chiêu
trò lợi dụng lòng thƣơng ngƣời của mọi ngƣời và cơ thể khiếm khuyết của
NKT để trục lợi của một số cá nhân hành nghề “chăn dắt”. Điều này không
những làm mất mĩ quan đƣờng phố, ảnh hƣởng đến ngành du lịch mà còn hạ
nhục nhân phẩm, danh dự của NKT. Đây rõ ràng là hai mặt của một vấn đề,
từ chỗ không đƣợc đảm bảo quyền làm việc đến bị lợi dụng và trà đạp lên danh
dự, nhân phẩm để kiếm tiền.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của quyền việc làm cho NKT và góp
phần khắc phục những khó khăn, thách thức, từ đó nâng cao ý thức, trách
nhiệm của xã hội đối với việc thực hiện các chính sách nhằm bảo đảm tốt nhất
quyền và lợi ích cho NKT, tôi đã lựa chọn đề tài:“Quyền việc làm của người
khuyết tật theo pháp luật Việt Nam”, qua đó đóng góp ý kiến, đƣa ra một số
phƣơng hƣớng, giải pháp để tiếp tục hoàn thiện các chính sách và cơ chế điều
chỉnh của pháp luật về vấn đề quyền việc làm cho NKT, góp một phần nhỏ bé
vào việc phát triển, hòa nhập cộng đồng xã hội cho NKT để họ không cảm
thấy tự ti, mặc cảm về khiếm khuyết của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu
Ở nƣớc ta, chính sách tạo việc làm cho ngƣời lao động luôn đƣợc
quan tâm, chú trọng, đặc biệt là tạo việc làm cho NKT - vấn đề đƣợc
Đảng, Nhà nƣớc cũng nhƣ các nhà khoa học xã hội hết sức quan tâm

nghiên cứu.
Trong nhóm quyền của NKT nói chung và quyền việc làm của NKT
nói riêng hết sức đƣợc quan tâm, nghiên cứu, có thể kể đến các công trình
nghiên cứu sau:
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Thị Báo, Học viện Hành chính
Quốc gia, 2008;
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Pháp luật về vấn đề giải quyết việc làm
cho người lao động khuyết tật ở Việt Nam”, Trần Thị Tú Anh, Khoa Luật
ĐHQGHN, 2014;
- Luận văn Thạc sỹ luật học, “Pháp luật việc làm cho người khuyết tật”,
Hồ Thị Trâm, Đại học Luật Hà Nội, 2014;
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Việc làm cho người khuyết tật theo pháp
luật Việt Nam hiện hành”, Nguyễn Bích Ngọc, Học viện Khoa học Xã hội, 2016;
- Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về việc làm và giải quyết việc
làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập”, Đinh Thị Nga Phƣợng, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2011;
- Luận văn thạc sĩ “Một số giải pháp việc làm dành cho người khuyết
tật tại thành phố Hồ Chí Minh”, Đoàn Thị Cẩm Vân, trƣờng Đại học Công
nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2015; ….
Cùng với đó, ngày 20/3/2014, tại Hà Nội, Liên hiệp hội về ngƣời
khuyết tật Việt Nam (VFD) tổ chức Lễ ra mắt Trung tâm Thông tin - Truyền

3


thông và Tạp chí Ngƣời khuyết tật. Ngày 24/5/2019, Liên hiệp hội về ngƣời
khuyết tật Việt Nam đã tổ chức lễ ra mắt Tạp chí điện tử Đồng hành Việt. Sự
ra đời của Tạp chí điện tử Đồng hành Việt cùng với sự kết hợp của Tạp chí
Đồng hành Việt in sẽ là sự phối hợp, liên kết chặt chẽ của các loại hình báo
chí, từ đó phát huy đƣợc những lợi thế, điểm mạnh của từng loại hình báo chí,

cung cấp đến bạn đọc những thông tin nhanh chóng, chính xác, kịp thời với
độ bao phủ rộng theo đúng tôn chỉ mục đích đã đƣợc Bộ Thông tin và Truyền
thông cấp Giấy phép hoạt động, góp phần thực hiện hiệu quả hơn Kế hoạch
truyền thông cũng nhƣ Chiến lƣợc phát triển của Liên hiệp hội... Ngoài ra,
còn có các bài viết của các tạp chí nhƣ: Tạp chí Giáo dục với bài viết “Hỗ trợ
tạo việc làm cho NKT ở Việt Nam giai đoạn 2016 – 2018”, Tạp chí Điện tử
Da cam với bài viết “Hỗ trợ NKT – nhìn từ Nhật Bản”, Tạp chí Cộng sản với
bài viết “Tạo điều kiện để người khuyết tật phát huy tiềm năng, khẳng định
trong cuộc sống” và hàng loạt các bài viết khác.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đã đạt đƣợc những thành
tựu nhất định trong việc nghiên cứu các vấn đề quyền con ngƣời, pháp luật về
NKT tại Việt Nam… nhƣng vẫn chủ yếu tiếp cận dƣới góc độ pháp luật chứ
chƣa tiếp cận một cách sâu sắc dƣới góc độ “quyền” cụ thể ở đây là quyền
việc làm của NKT. Tuy nhiên những nghiên cứu trên vẫn là những tài liệu
tham khảo hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện nghiên cứu này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền việc làm của NKT ở Việt
Nam, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật cũng nhƣ thực
tiễn áp dụng, chỉ ra những bất cập, hạn chế trên cơ sở đó đƣa ra đƣợc những
kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng nâng cao hiệu quả thực
hiện hiện pháp luật về quyền việc làm của NKT.

4


3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền việc làm của NKT.
- Đánh giá đúng thực trạng pháp luật về quyền việc làm của NKT
cũng nhƣ thực tiễn thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này, chỉ ra đƣợc

những kết quả đạt đƣợc cũng nhƣ những điểm còn hạn chế tồn tại và
nguyên nhân của nó.
- Đƣa ra đƣợc các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền của NKT.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các văn bản pháp luật về quyền
việc làm của NKT mà cụ thể là Luật NKT và các văn bản hƣớng dẫn thi hành
cũng nhƣ thực tiễn thực hiện. Luận văn cũng nghiên cứu pháp luật quốc tế về
ngƣời khuyết tật ở mức độ nhất định.
- Phạm vi nghiên cứu: Quyền việc làm của NKT là một lĩnh vực rộng
có thể đƣợc nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Trong luận văn này nghiên
cứu quyền việc làm dƣới góc độ luật học và cụ thể ở các nội dung nhƣ: quyền
việc làm của NKT trong quan hệ lao động, biện pháp bảo đảm quyền và các
giải pháp để hoàn thiện pháp luật NKT. Luận văn không nghiên cứu về xử lý
vi phạm và giải quyết tranh chấp về quyền việc làm của NKT.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, nhóm nghiên cứu vận dụng phƣơng pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lê Nin. Cụ thể là, phƣơng pháp duy vật biện chứng và
phƣơng pháp duy vật lịch sử. Đây là phƣơng pháp luận xuyên suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thiện công trình nghiên cứu.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm pháp luật, đƣờng lối, chủ

5


trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về NKT cũng là cơ sở lí luận soi
sáng cho việc phân tích và nghiên cứu đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lí luận: Luận văn có ý nghĩa làm rõ hệ thống lý luận, những vấn
đề pháp lý cơ bản về quyền việc làm của NKT. Từ đó có những nhận thức

mới về vấn đề này. Bảo đảm quyền việc làm cho họ, tạo cơ hội việc làm, thúc
đẩy mô hình tự tạo việc làm, khả năng lựa chọn cơ hội việc làm cũng nhƣ
những yêu cầu về tạo dựng môi trƣờng dễ hòa nhập, không rào cản cho lao
động là NKT phù hợp với Công ƣớc quốc tế về ngƣời khuyết tật năm 2006.
Về mặt thực tiễn: Qua phân tích thực trạng vấn đề pháp lý và thực hiện
trong thực hiện quyền việc làm cho NKT, nhằm đƣa ra các đề xuất giải pháp
để hoàn thiện cơ sở, chính sách pháp luật, góp phần tăng cƣờng hiệu quả quản
lý nhà nƣớc, đồng thời nâng cao hiệu quả trong tổ chức triển khai hoạt động
việc làm cho NKT ở Việt Nam hiện nay.
7. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục từ viết tắt, danh mục bảng biểu
thì luận văn đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về quyền việc làm của ngƣời khuyết
tật và sự điều chỉnh của pháp luật
Chương 2: Quy định pháp luật về quyền việc làm của ngƣời khuyết tật
tại Việt Nam và thực tiễn thi hành.
Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả quyền việc làm của ngƣời khuyết tật.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VIỆC LÀM CỦA
NGƢỜI KHUYẾT TẬT VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT

1.1. Khái niệm ngƣời khuyết tật
Khi luật pháp đƣợc xây dựng nhằm loại bỏ những bất công mà NKT
đang phải gánh chịu, xóa bỏ các cơ chế khiến NKT bị tách biệt ra ngoài xã
hội, đồng thời tăng cƣờng các cơ hội việc làm bình đẳng cho họ, thì một vấn

đề đƣợc đặt ra là làm thế nào để xác định ai là ngƣời đƣợc hƣởng những
quyền mà luật pháp đem lại. Nói một cách khác: ai đƣợc xem là NKT? Hiện
nay đa số các nƣớc định nghĩa về NKT là có sự kết hợp giữa ngƣời khiếm
khuyết và các yếu tố môi trƣờng và tiếp cận dƣới nhiều góc độ khác nhau.
* Dưới góc độ pháp luật quốc tế
Cách nhìn nhận về NKT có những thay đổi nhất định qua từng thời kì
khác nhau. Nếu nhƣ những năm 1950 NKT đƣợc nhìn nhận theo mô hình
“chăm sóc y tế”, theo đó NKT bị coi là các “đối tượng” của “phúc lợi xã hội”
mà không phải là các chủ thể có quyền nhƣ một công dân bình thƣờng [34].
Thì đến những năm 1970, cách nhìn nhận NKT đã có sự thay đổi, theo đó
những NKT là những ngƣời có khả năng, có quyền sống và lao động nhƣ
những ngƣời bình thƣờng chứ không phải là một đối tƣợng cần nhận sự
“chiếu cố” của xã hội. Quá trình chuyển biến nhận thức về NKT là kết quả
đấu tranh bằng nhiều hình thức khác nhau của bản thân NKT và các hiệp
hội của họ xuất phát từ Hoa Kỳ sau đó lan rộng và phổ biến ở nhiều nƣớc
nhƣ Thụy Điển, Nhật Bản, Brazil… và gần đây là Hàn Quốc, Thái Lan. Tƣ
tƣởng cốt lõi của nhận thức mới này là các vấn đề về NKT đƣợc xem xét
dƣới góc độ quyền con ngƣời, dựa trên quan điểm “tất cả mọi người đều có

7


quyền được sống một cuộc sống đầy đủ và có phẩm giá” đã đƣợc ghi nhận
trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời năm 1948 [12]. Trên
thực tế, hiện nay vẫn chƣa có cách nhìn nhận thống nhất, toàn diện về
NKT. Lịch sử phát triển của vấn đề này cho thấy, có rất nhiều quan điểm
khác nhau về NKT, tuy nhiên có hai quan điểm phổ biến song song cùng
tồn tại, đó là: Quan điểm khuyết tật dưới góc độ y tế và quan điểm khuyết tật
dưới góc độ xã hội.
* Dưới góc độ y tế

Quan điểm này cho rằng khuyết tật là do hạn chế cá nhân, là ở chính
con ngƣời đó, chú trọng rất ít hoặc không để ý đến các yếu tố về môi trƣờng
xã hội và môi trƣờng vật thể xung quanh NKT. Quan niệm này cho rằng NKT
có thể hƣởng lợi từ phƣơng pháp khoa học nhƣ thuốc điều trị và các công
nghệ cải thiện chức năng. Mô hình y tế chú trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ
không xem trọng việc trị liệu xã hội và nhìn nhận NKT là một vấn đề và đƣa
ra giải pháp để làm ngƣời đó “bình thường” thông qua việc cung cấp các dịch
vụ giáo dục đặc biệt, giao thông đặc biệt, nghề trị liệu, vật lý trị liệu…
Nhƣ đã trình bày, định nghĩa theo quan điểm y tế thƣờng tập trung vào
sự khiếm khuyết về thể trạng, tinh thần, thính giác, thị giác và sức khỏe tâm
thần… Trên cơ sở đó, nhiều quốc gia định nghĩa về NKT theo quan niệm
này. Chẳng hạn:
Luật của nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ NKT ban hành
năm 1990, Điều 2 quy định:
Ngƣời khuyết tật là một trong những ngƣời bị bất thƣờng, mất mát
của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm lý hay sinh lý, hoặc
trong cấu trúc giải phẫu và những ngƣời đã mất toàn bộ hoặc một
phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thƣờng.

8


Ngƣời khuyết tật là những ngƣời có thính giác, thị giác, lời nói hoặc
khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần,
khuyết tật nhiều và /hoặc khuyết tật khác [7].
Hay nhƣ Luật về Ngƣời khuyết tật ban hành năm 1995 của Ấn Độ (về
cơ hội bình đẳng, bảo vệ quyền và đảm bảo cho NKT tham gia mọi hoạt động
xã hội) thì định nghĩa khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém,
lành bệnh phong; thị lực kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển
trí óc và mắc bệnh về tâm thần. Trong khi đó định nghĩa về NKT lại đƣợc

nêu: “Một người bị bất kỳ một khuyết tật nào không dưới 40% theo xác nhận
của cơ quan y tế có thẩm quyền” [34].
Đạo luật số 7277 với tên gọi là “Đạo luật tạo nên sự phục hồi chức
năng, tự phát triển và tự tin cho người khuyết tật và hòa nhập người khuyết
tật vào xã hội và các mục đích khác”, đƣợc thông qua bởi Thƣợng nghị viện
và Hạ nghị viện của Quốc hội Phillipines vào ngày 12 tháng 7 năm 1991 thì
quy định: “Người khuyết tật – là người có sự khác biệt về khả năng và hạn
chế do khiếm khuyết về giác quan, vận động, và tâm thần để thực hiện một
hoạt động được coi là bình thường”.
Nhƣ vậy, quan điểm khuyết tật dƣới góc độ y tế nhìn nhận NKT nhƣ
những ngƣời có vấn đề về thể chất và cần phải chữa trị. Điều này đã đẩy
những NKT vào thế bị động của ngƣời bệnh. Mục tiêu của hƣớng tiếp cận y tế
là làm cho những NKT cảm thấy trở lại trạng thái bình thƣờng nhƣng vô hình
trung lại khiến cho những NKT cảm thấy họ không bình thƣờng. Theo đó vấn
đề khuyết tật đƣợc cho là hạn chế ở từng cá nhân. Khi bị khuyết tật những
ngƣời này “cần phải thay đổi” chứ không phải xã hội hay môi trƣờng xung
quanh phải thay đổi.

9


* Dưới góc độ xã hội
Vào cuối những năm 1990, mô hình xã hội trở nên khá nổi trội trong
những nghiên cứu khuyết tật trên thế giới. Mô hình xã hội là mô hình có cơ sở
lý thuyết và có quy tắc riêng đƣợc coi là nền tảng của những biến chuyển về
vấn đề NKT.
Trong mô hình xã hội, khuyết tật đƣợc nhìn nhận là hệ quả bị xã hội
loại trừ và phân biệt. Bởi vì xã hội đƣợc tổ chức không tốt nên những NKT
phải đối mặt với một số phân biệt đối xử nhƣ:
(1) Thái độ: thể hiện sự sợ hãi, sự thiếu hiểu biết và ít kỳ vọng (ảnh

hƣởng bởi văn hóa và tín ngƣỡng);
(2) Môi trường: dẫn đến việc không tiếp cận về vật chất, ảnh hƣởng
đến tất cả các mặt của đời sống (trƣờng học, cửa hàng, tòa nhà công cộng,
giao thông…);
(3) Thể chế: là những phân biệt mang tính pháp lý (ví dụ nhƣ không
đƣợc lập gia đình hay có con, không đƣợc nhận vào trƣờng học…).
Mô hình xã hội về khuyết tật cho rằng nhiều ngƣời bị khiếm khuyết ở
các cách khác nhau nhƣng chỉ xã hội biến họ thành khuyết tật, “con người bị
khiếm khuyết nhưng xã hội bị khuyết tật”. Nói cách khác, mô hình xã hội
khuyết tật coi xã hội là vấn đề, giải pháp là phải thay đổi xã hội. Chính xã hội
và chính sách cần phải cải tổ chứ không phải NKT. Mô hình xã hội giúp NKT
hiểu điều gì cần thực hiện để tiếp cận với quyền công dân và quyền con
ngƣời. Điều ý nghĩa ở đây chính là NKT cũng phải nhận thức đƣợc đầy đủ
các nghĩa vụ của mình với tƣ cách là một công dân trong mọi lĩnh vực đời
sống, kinh tế, chính trị, xã hội mà mình tham gia.
Định nghĩa NKT theo quan điểm xã hội là sự kết hợp giữa sự khiếm
khuyết và các yếu tố môi trƣờng và tiếp cận dƣới góc độ quyền của NKT. Do

10


đó trên thế giới cũng có nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế phi chính phủ tiếp
cận định nghĩa về NKT dƣới góc độ của quan điểm này, điển hình phải kể đến
đầu tiên là hai công ƣớc: Công ƣớc số 159 của ILO về phục hồi chức năng lao
động và việc làm của NKT (năm 1983), khoản 1, Điều 1 quy định:
Ngƣời khuyết tật dùng để chỉ một cá nhân mà khả năng có một việc
làm phù hợp, trụ lâu dài với công việc đó và thăng tiến với nó bị
giảm sút đáng kể do hậu quả của một khiếm khuyết về thể chất và
tâm thần đƣợc thừa nhận
và Công ước về Quyền của Người khuyết tật của Liên hợp quốc (năm

2006), Điều 1 quy định:
Ngƣời khuyết tật bao gồm những ngƣời bị suy giảm về thể chất,
thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh
hƣởng qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham
gia đầy đủ và hiệu quả của ngƣời khuyết tật vào xã hội trên cơ sở
bình đẳng với những ngƣời khác [34].
Sau đó là hàng loạt các quốc gia trên thế giới như: Sách Số chín của
Bộ luật xã hội của Đức định nghĩa:
Ngƣời khuyết tật là ngƣời có các chức năng về thể lực, trí lực
hoặc tâm lý tiến triển không bình thƣờng so với ngƣời có cùng độ
tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thƣờng này là
nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống
xã hội [22, tr.17].
Luật bình đẳng về việc làm của Nam phi định nghĩa NKT là:
Ngƣời bị suy giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời
gian dài hoặc tiếp diễn nhiều lần, khiến ngƣời đó bị hạn chế đáng kể
về khả năng tham gia hoặc phát triển nghề nghiệp [24, tr.18];

11


Đạo luật về NKT của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA – Americans with Disabilities Act of 1990) định nghĩa:
Ngƣời khuyết tật là ngƣời có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần
gây ảnh hƣởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng
trong cuộc sống [35].
Có thể thấy, cách tiếp cận NKT ở các góc độ khác nhau giữa quan điểm
khuyết tật cá nhân hoặc y tế có tác dụng tốt trong một số lĩnh vực đem lại cho
ta những cái nhìn khách quan nhất về thế nào là NKT và để đƣa ra khái niệm
thuyết phục và thống nhất về NKT là không dễ dàng. Tuy nhiên, cũng cần
khẳng định rằng định nghĩa về NKT dù tiếp cận dƣới bất cứ góc độ nào, nhất

thiết phải phản ánh thực tế là NKT có thể gặp các rào cản do yếu tố xã hội,
môi trƣờng hoặc con ngƣời khi tham gia vào mọi hoạt động của kinh tế, chính
trị, xã hội. Họ phải đƣợc đảm bảo rằng họ có quyền và trách nhiệm khi tham
gia vào mọi hoạt động của đời sống nhƣ bất cứ công dân nào với tƣ cách là
quyền của con ngƣời.
Ở Việt Nam trƣớc đây trong Pháp lệnh về ngƣời tàn tật năm 1998 gọi
NKT là ngƣời tàn tật. Theo đó:
Ngƣời tàn tật theo quy định của Pháp lệnh này không phân biệt
nguồn gốc gây ra tàn tật là ngƣời bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ
phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dƣới những dạng tật khác
nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh
hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn [26].
Định nghĩa này đƣợc coi là khá phù hợp vào thời điểm đó vì các quan
điểm trên thế giới cũng nhƣ quy định của Liên hợp quốc ghi nhận đều dựa
trên tinh thần của Khuyến nghị số 99 ngày 01/05/1995:

12


Ngƣời tàn tật là ngƣời mà triển vọng tìm giữ đƣợc một việc làm phù
hợp, cũng nhƣ triển vọng tiến bộ trong nghề nghiệp đều bị giám sút
một cách rõ rệt sau khi bị một trở ngại về thể chất hoặc tinh thần và
trở ngại này đƣợc công nhận đúng mức.
Bên cạnh đó, Điều 1 Nghị định số 81/NĐ-CP ngày 23/11/1995 của
Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật
Lao động đối với ngƣời tàn tật (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số
116/2004/NĐ-CP ngày 23/4/2004) chỉ ra rằng:
Ngƣời tàn tật là ngƣời lao động không phân biệt nguồn gốc gây
ra tàn tật bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc
chức năng biểu hiện dƣới những dạng tật khác nhau, bị suy giảm

khả năng lao động từ 21% trở lên, đƣợc Hội đồng giám định y
khoa hoặc cơ quan y tế có thẩm quyền xác nhận theo quy định
của Bộ Y tế [4].
Tuy nhiên, với cách gọi này cũng đã dẫn đến rất nhiều quan điểm trái
chiều. Để phù hợp với sự phát triển và hội nhập xu hƣớng quốc tế cũng nhƣ
văn hóa xã hội Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, ngày 17/06/2010, Quốc
hội Việt Nam đã chính thức thông qua Luật Ngƣời khuyết tật và sẽ có hiệu
lực từ 01/01/2011, Luật này chính thức sử dụng khái niệm “người khuyết tật”
thay cho khái niệm “người tàn tật”. Việc thay đổi tên gọi từ “người tàn tật”
sang “người khuyết tật” thể hiện sự thay đổi cách nhìn nhận của xã hội đối
với những ngƣời kém may mắn khi mang trên mình những dạng tật [25].
Luật Ngƣời khuyết tật 2010 tại khoản 1 điều 2 có ghi nhận rằng:
“Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể
hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động,
sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” [19]. Có thể khẳng định rằng, đây là văn

13


bản luật toàn diện đầu tiên của quốc gia về NKT, điều này đặt một dấu mốc
rất quan trọng trong việc nhìn nhận, cách thức sử dụng thuật ngữ NKT trong
tất cả mọi vấn đề pháp lý cũng nhƣ xã hội nhằm đảm bảo tính nhân văn,
không gây mặc cảm, tự ti cho NKT và sự tránh né kì thị của cả cộng đồng với
NKT, theo đó NKT đƣợc quan tâm nhìn nhận một cách toàn diện dƣới góc độ
y tế và góc độ pháp lý. Khái niệm này thể hiện sự tiến bộ và bao quát hơn so
với khái niệm đƣợc ghi nhận trong Pháp lệnh về ngƣời tàn tật năm 1998 ở
những khía cạnh sau:
Thứ nhất, thuật ngữ “người tàn tật” đã đƣợc thay thế bằng thuật ngữ
“người khuyết tật”. Đánh giá về mặt ngôn ngữ thì thuật ngữ “người tàn tật”
nghe có vẻ mang lại cảm giác nặng nề hơn thuật ngữ “người khuyết tật”, tuy

nhiên thì xét về mặt bản chất thì hai thuật ngữ này dƣờng nhƣ đồng nhất. Sự
thay đổi thuật ngữ này, nhƣ đã nói ở trên, mặc dù không thay đổi bản chất
nhƣng nó cũng đã góp phần tác động nhất định tới nhận thức của những
ngƣời xung quanh.
Thứ hai, những NKT là ngƣời bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận
cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng đƣợc biểu hiện dƣới dạng tật. Theo cách
hiểu này thì NKT bao gồm cả những ngƣời bị khuyết tật bẩm sinh, ngƣời bị
khiếm khuyết di bệnh tật, tai nạn, thƣơng binh, bệnh binh…
Thứ ba, nhận thấy trong cả định nghĩa về “người tàn tật” và “người
khuyết tật” đều ghi nhận NKT “gặp khó khăn” và dƣờng nhƣ bị giới hạn
trong các hoạt động “lao động, sinh hoạt, học tập”. Nhƣ vậy, các hoạt động
“lao động, sinh hoạt, học tập” nhìn chung đã bao quát đầy đủ các hoạt động
của NKT. Nhƣng trên thực tế, NKT gặp khó khăn trên tất cả các lĩnh vực đời
sống của xã hội chứ không chỉ riêng các hoạt động này.
Việc nghiên cứu để đƣa ra định nghĩa quốc tế về NKT là thách thức do

14


những mô hình của khuyết tật chịu ảnh hƣởng bởi yếu tố văn hóa, điều kiện
kinh tế - xã hội và các tiêu chí xác định khuyết tật. Tóm lại, có thể đƣa ra khái
niệm NKT nhƣ sau: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế
đáng kể và lâu dài trong việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã
hội trên cơ sở bình đẳng với những chủ thể khác”.
Có thể nhận thấy rằng, việc đƣa ra khái niệm về NKT sẽ một trong
những cơ sở, căn cứ khoa học tác động đến việc quy định, ban hành, thực thi,
áp dụng pháp luật và chính sách với NKT. Đồng thời, Nhà nƣớc phải đảm bảo
điều chỉnh mối quan hệ của cái chung giữa NKT với công dân bình thƣờng
trong xã hội và giữa những NKT nói chung với nhau, đảm bảo sự bình đẳng

cho những NKT trong mọi hoạt động cả đời sống xã hội.
1.2. Khái niệm và ý nghĩa quyền việc làm của ngƣời khuyết tật
- Khái niệm quyền việc làm của NKT
Việc làm luôn là vấn đề đƣợc mọi ngƣời dân, xã hội quan tâm. Trong
xã hội ngày nay, để tìm đƣợc công việc ổn định và phù hợp luôn khó khăn,
đặc biệt đối với NKT bởi họ luôn phải chịu thiệt thòi về thể chất, tinh thần
hơn những ngƣời khác. Bên cạnh đó, NKT còn chịu nhiều bất lợi khác nhƣ:
thƣờng xuyên bị tách biệt khỏi xã hội bởi những phản ứng tiêu cực từ xã hội.
Theo Điều 9 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “Việc làm là hoạt
động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm”. Theo định nghĩa
này, việc làm có thể đƣợc hiểu là những hoạt động lao động có tính chất
thƣờng xuyên, liên tục và mang tính nghề nghiệp, do những ngƣời lao động
thực hiện trong khoảng thời gian tƣơng đối ổn định và phạm vi nhất định
nhằm tạo ra thu nhập và hoạt động đó phải hợp pháp. Từ khái niệm này, ta có
thể hiểu khái niệm việc làm đối với NKT là: “Các hoạt động tạo ra thu nhập

15


cho NKT có thể tự nuôi sống bản thân và không bị pháp luật cấm”. Việc làm
không chỉ giúp cho NKT có thu nhập ổn định cuộc sống mà còn giúp cho họ
hòa nhập vào với cộng đồng, làm cho họ cảm thấy mình là ngƣời có ích cho
xã hội, đặc biệt là việc làm sẽ giúp cho họ thấy đƣợc rằng mình cũng đƣợc
bình đẳng nhƣ những ngƣời lao động khác.
Đối với NKT, việc làm luôn đóng vai trò quan trọng. Việc làm giúp
NKT có thu nhập để nuôi sống bản thân, ổn định cuộc sống. Thông qua công
việc đƣợc làm, NKT có thể tự khẳng định về bản thân, không phải phụ thuộc
vào gia đình, xã hội. Nếu giải quyết đƣợc vấn đề việc làm cho NKT sẽ góp
phần thay đổi nhận thức về khả năng lao động của NKT.
Quyền con ngƣời là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa

khác nhau (theo một tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa về
quyền con ngƣời đã đƣợc công bố [1, tr.59]. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề
từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhƣng không định
nghĩa nào bao hàm đƣợc tất cả các thuộc tính của quyền con ngƣời. Quyền
con ngƣời là những sự đƣợc phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng
đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...;
đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con ngƣời. Với quan điểm
nhìn nhận NKT dƣới góc độ đạo đức, NKT chính là đối tƣợng cần trợ giúp.
NKT có đầy đủ các quyền nhƣ một con ngƣời bình thƣờng, trong đó đƣợc
quyền có việc làm để tạo ra của cải vật chất, nuôi sống bản thân, cống hiến
cho xã hội. Quyền đƣợc làm việc là điều kiện cốt lõi để thực hiện các quyền
con ngƣời khác và mỗi cá nhân đều có quyền đƣợc tạo điều kiện làm việc để
sống có nhân phẩm.
Nhƣ vậy, quyền việc làm của NKT là một đặc quyền xã hội pháp lý
giúp NKT tiến hành xác lập các quan hệ lao động và thực hiện hành vi lao

16


động hợp pháp. Quyền việc làm của họ phải dựa trên sự bình đẳng, không bị
phân biệt đối xử trong cơ hội tìm kiếm và lựa chọn việc làm phù hợp với khả
năng và chuyên môn của họ, có cơ hội khẳng định bản thân, tự lập trong cuộc
sống, tạo ra thu nhập để không phải dựa dẫm vào gia đình, ngƣời thân.
- Ý nghĩa về quyền việc làm của NKT
Đối với NKT, việc làm luôn đóng vai trò quan trọng. Việc làm giúp
NKT có thu nhập nuôi sống bản thân, ổn định cuộc sống. Thông qua công
việc đƣợc làm, ngƣời lao động khuyết tật có thể tự khẳng định bản thân,
không phải phụ thuộc vào gia đình, xã hội. Hơn hết, NKT cũng có đầy đủ các
quyền cơ bản của con ngƣời, trong đó có quyền việc làm để tạo ra của cải vật
chất, nuôi sống bản thân, vì thế, quyền việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng

trong việc giúp NKT đƣợc bình đẳng trong xã hội.
Thứ nhất, quyền có việc làm không chỉ giúp NKT có thu nhập, ổn định
đời sống mà quan trọng hơn là giúp NKT được hòa nhập với cộng đồng và tự
tin trong cuộc sống.
Thực tế đã có rất nhiều ngƣời, dù bản thân khuyết tật nhƣng vẫn ý thức
đƣợc vai trò, vị trí của mình trong xã hội. NKT biết tự vƣơn lên trong cuộc
sống, học tập và lao động nhƣ những ngƣời không khuyết tật khác. Tuy nhiên,
vẫn còn một bộ phận NKT khác luôn tự ti, mặc cảm với khiếm khuyết của
mình, sống khép kín trong gia đình, ngại tiếp xúc xã hội, ngại giao tiếp…
trong chờ sự trợ giúp của Nhà nƣớc, xã hội. Nếu đƣợc làm việc, những NKT
này sẽ có cơ hội thể hiện năng lực của bản thân mình. Họ sẽ ngày càng tự tin
hơn để hòa nhập với cuộc sống, môi trƣờng xung quanh và xã hội.
Thứ hai, quyền việc làm là điều kiện tốt để NKT hoàn thiện và thay đổi
bản thân
Môi trƣờng làm việc thƣờng là môi trƣờng tập thể. Khi làm việc, ngƣời

17


lao động khuyết tật có cơ hội tiếp xúc với những ngƣời lao động khác, nhận
thức của NKT về bản thân cũng sẽ có những thay đổi, NKT sẽ thấy mình có
ích cho gia đình, xã hội để sống tự tin hơn, tƣ xóa bỏ mặc cảm. Qua đó, NKT
hòa nhập cộng đồng tốt hơn để tạo ra kênh tƣơng tác xã hội, mang lại lòng tự
hào và nhân phẩm cho NKT.
Thứ ba, quyền việc làm giúp cho NKT được góp sức mình tạo nguồn
nhân lực cho xã hội
NKT là một bộ phận cấu thành của xã hội không thể tách rời. Vì vậy,
NKT cũng có trách nhiệm trong việc tham gia vào các hoạt động của cộng đồng
và đóng góp công sức của mình đối với quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội của các quốc gia và có quyền đƣợc hƣởng đầy đủ những thành quả phát triển

của xã hội. Ở Việt Nam, theo cách phân loại tỉ lệ NKT chung của cả nƣớc là
15,3%. Vùng có tỷ lệ NKT cao nhất là Đông Nam Bộ, thấp nhất là Tây Bắc. Tỷ
lệ NKT khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn (17,8% so với 14,4%). Tỷ
lệ NKT nữ cao hơn nam (16,58% so với 13,69%) [10]. Xét trên số liệu này thì tỷ
lệ NKT ở nƣớc ta khá cao. Trong số những NKT này, vẫn có nhiều NKT có khả
năng và mong muốn đƣợc làm việc. Nếu vấn đề việc làm cho NKT đƣợc giải
quyết tốt thì một bộ phận NKT sẽ trở thành lực lƣợng lao động trong các ngành
nghề, góp phần phát huy nguồn nhân lực rất lớn cho xã hội.
1.3. Điều chỉnh pháp luật về quyền việc làm của ngƣời khuyết tật
1.3.1. Khái niệm và nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về quyền việc
làm của người khuyết tật
- Khái niệm pháp luật về quyền việc làm của NKT
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật đã
đƣợc ban hành, tạo cơ sở pháp lý cho việc tôn trọng và bảo đảm thực hiện
quyền việc làm cho NKT. Pháp luật về quyền việc làm của NKT cần đƣợc

18


hiểu là những quy định pháp luật nhằm đảm bảo cho NKT về quyền có cơ hội
công việc và việc làm.
Pháp luật về quyền việc làm của NKT là những quy định pháp lý đƣợc
xây dựng nhằm loại bỏ những bất công mà NKT đang phải gánh chịu, xóa bỏ
cơ chế khiến NKT bị tách biệt ra khỏi xã hội, đồng thời tăng cƣờng cơ hội
việc làm bình đẳng cho họ trong thị trƣờng lao động trên cơ sở quyền có cơ
hội công việc và việc làm.
Pháp luật về quyền việc làm cho NKT đƣợc hiểu là tổng hợp các quy
định của pháp luật quy định các quyền của NKT trong lĩnh vực việc làm
nhằm khuyến khích cơ hội có việc làm; bình đẳng về việc làm cho NKT và
những biện pháp đƣợc áp dụng để thực hiện các quy định pháp luật đó.

Trên cơ sở các quy định của Công ƣớc quốc tế về quyền của NKT,
pháp luật Việt Nam tạo ra hai hình thức giải quyết việc làm cho ngƣời lao
động: tự tạo việc làm và tham gia vào quan hệ lao động để có việc làm.
- Các nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về quyền việc làm của NKT
Thứ nhất, nguyên tắc không phân biệt đối xử đối với NKT trong lĩnh
vực việc làm:
Nguyên tắc này xuất phát từ vấn đề quyền con ngƣời. NKT cũng là con
ngƣời nên họ có quyền đƣợc đối xử bình đẳng và công bằng nhƣ những ngƣời
khác ở trong mọi lĩnh vực và trong đó có lĩnh vực việc làm. NKT bị khiếm
khuyết một hay nhiều bộ phận nên có đƣợc việc làm đối với họ rất khó khăn.
Thực tế hiện nay những ngƣời sử dụng lao động không muốn nhận những
NKT mặc dù trong luật có quy định bởi vì năng suất lao động của NKT thấp
hơn so với ngƣời không khuyết tật, hơn nữa trong một số trƣờng hợp sử dụng
lao động khuyết tật thì ngƣời sử dụng lao động còn phải đầu tƣ cơ sở vật chất
để tạo môi trƣờng làm việc thuận lợi cho NKT. Chính điều này tạo nên sự
phân biệt đối xử việc làm giữa NKT và ngƣời không khuyết tật.

19


×