Tải bản đầy đủ (.pdf) (222 trang)

Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 222 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ XUÂN THAO

ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ XUÂN THAO

ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 938 01 01.03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận
án đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Vũ Xuân Thao


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA.............................................................................................
LỜI CAM ĐOAN ..............................................................................................
MỤC LỤC ..........................................................................................................
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ..................................................................
DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ SỐ LIỆU ..................................................
DANH MỤC BIỂU ĐỒ .....................................................................................
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN............................................................................... 10
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ............................................................. 10
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ............................................................ 24
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu ................................................................. 38
1.4. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu ............................................... 44
1.5. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu ............................................. 46
Kết luận Chương 1 .......................................................................................... 47
Chƣơng 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG
MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ .............................................................. 49

2.1. Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự .. 49
2.2. Nội dung đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự .............................. 73
2.3. Phân loại đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự ............................ 101
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 108
Chƣơng 3. SỰ THỂ HIỆN ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM ............................................................................................ 111
3.1. Đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên
thế giới ........................................................................................................... 111


3.2. Đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ........ 126
Kết luận Chương 3 ........................................................................................ 154
Chƣơng 4. THỰC TIỄN VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
XÁC ĐỊNH ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ................................................... 156
4.1. Thực tiễn xác định đối tượng chứng minh trong quá trình chứng minh vụ
án hình sự (2009 - 2018) ............................................................................... 156
4.2. Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả xác định đối
tượng chứng minh trong quá trình chứng minh vụ án hình sự ..................... 174
Kết luận Chương 4 ........................................................................................ 191
KẾT LUẬN .................................................................................................. 192
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ .................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................
PHỤ LỤC ...........................................................................................................


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLHS

: Bộ luật hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CTTP

: Cấu thành tội phạm

ĐTV

: Điều tra viên

KSV

: Kiểm sát viên

PLHS

: Pháp luật hình sự

PNTM

: Pháp nhân thương mại

QHPL


: Quan hệ pháp luật

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

THTT

: Tiến hành tố tụng

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện Kiểm sát


VKSND

: Viện Kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện Kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ SỐ LIỆU

4.1. Số vụ án và số bị can được khởi tố mới theo từng năm

156

4.2. Số vụ án và số bị can bị đình chỉ ở giai đoạn điều tra

159

4.3. Số vụ án và số bị can bị đình chỉ ở giai đoạn truy tố

160

4.4. Tổng số vụ án và tổng số bị can bị Viện Kiểm sát trả hồ sơ để
điều tra bổ sung

161

4.5. Tổng số vụ án và tổng số bị can bị Tòa án trả hồ sơ để điều tra
bổ sung

162


4.6. Tổng số vụ án và bị cáo bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy án để điều
tra lại, xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án

164

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

4.1. Biểu đồ so sánh số vụ án được khởi tố mới trên toàn quốc theo
từng năm

157

4.2. Biểu đồ so sánh số bị can được khởi tố mới trên toàn quốc theo
từng năm

157


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc xác định đối tượng chứng minh có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
chứng minh, nó không chỉ định hướng cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ
mà còn quyết định đến việc sử dụng biện pháp chứng minh nào với mức độ,
phạm vi ra sao, cũng như trong việc xác định giá trị chứng minh của chứng cứ
đối với việc chứng minh những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án.
Đối tượng chứng minh, hiểu theo nghĩa khái quát nhất là tất cả những gì
chưa biết nhưng cần phải biết về VAHS. Nói cách khác, tất cả những dấu vết của
tội phạm để lại bên ngoài thế giới khách quan và những vấn đề khác có liên quan
đến tội phạm là đối tượng chứng minh của quá trình tố tụng. Làm rõ đối tượng

cần phải chứng minh trong VAHS là quá trình nhận thức chân lý. Ở phương diện
chung nhất thì toàn bộ thực tiễn khách quan là đối tượng của nhận thức nhằm
tìm ra những quy luật của thế giới tự nhiên, xã hội và của chính bản thân con
người. Đối tượng chứng minh trong VAHS là tất cả sự thật khách quan, mọi
diễn biến của tội phạm mà các chủ thể tố tụng có trách nhiệm chứng minh làm
rõ. Quá trình chứng minh đối tượng chứng minh là quá trình nhận thức chân lý
về vụ án, trong đó những vấn đề cốt lõi cần phải được giải quyết là có hay không
sự kiện phạm tội xảy ra, ai là người bị nghi thực hiện tội phạm và hành vi của họ
có thỏa mãn các yếu tố CTTP là cơ sở của việc truy cứu TNHS hay không cũng
như những tình tiết khác có liên quan đến vụ án...Vì vậy, đối tượng chứng minh
trong VAHS có thể hiểu là: “Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả
những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án,
trên cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định phù hợp trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự” [23, tr 233 - 234].
Tuy nhiên, cách hiểu này về đối tượng chứng minh còn mang tính khái
quát, cần phải tiếp tục nghiên cứu, chỉ rõ những vấn đề cụ thể phải chứng
1


minh trong vụ án, cũng như phạm vi chứng minh của từng trường hợp phạm
tội cụ thể.
Trong quá trình giải quyết VAHS, để ra được các quyết định hoặc bản án
đúng đắn, khách quan phù hợp với quy định của pháp luật thì về nguyên tắc,
đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền THTT phải làm sáng tỏ bản chất của vụ án
và những vấn đề có liên quan đến vụ án. Nói cách khác, phải làm rõ các vấn đề
như: Sự kiện phạm tội, người thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS đối với người phạm tội, nhân thân người phạm tội, v.v...bởi lẽ,
chính những vấn đề này là cơ sở để xác định tội phạm, xác định TNHS đối với
người phạm tội, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn cũng như xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra của người phạm

tội…Việc giải quyết VAHS chỉ phát sinh sau khi có tội phạm xảy ra, vì vậy để
xác định được bản chất diễn biến của vụ án, các cơ quan có thẩm quyền THTT
phải tiến hành thu thập chứng cứ và sử dụng chứng cứ để chứng minh làm rõ
các vấn đề trong vụ án, mà các vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS này
được khoa học luật TTHS gọi là đối tượng chứng minh trong VAHS.
Mặc dù tội phạm và diễn biến của hành vi phạm tội mang tính khách
quan nhưng quy định nội dung, phạm vi đối tượng chứng minh trong VAHS
lại có sự khác nhau trong pháp luật của mỗi quốc gia và mỗi thời kỳ lịch sử.
Vì vậy, khi xác định đối tượng chứng minh của VAHS cần phải căn cứ vào
quy định của PLHS, pháp luật TTHS đang có hiệu lực thi hành. Đối tượng
chứng minh trong VAHS ở nước ta thường được cụ thể hóa bằng một điều
luật riêng với tên gọi “Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự”
(Điều 63 Bộ luật TTHS năm 2003; Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2015) liệt kê
những tình tiết cần phải chứng minh, làm rõ trong quá trình chứng minh
VAHS, đó là: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và
những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi

2


phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do lỗi cố ý hay vô ý, có năng lực TNHS
hay không, mục đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; Nguyên nhân và điều
kiện phạm tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ TNHS, miễn
TNHS, miễn hình phạt. Bên cạnh đó, nhà làm luật nước ta còn dành một điều
luật quy định những nội dung phải chứng minh trong VAHS có chủ thể bị buộc
tội là người chưa thành niên hay người dưới 18 tuổi (Điều 302 Bộ luật TTHS
năm 2003; Điều 416 Bộ luật TTHS năm 2015). Bộ luật TTHS năm 2015 còn
quy định thêm một số nội dung chứng minh đối với vụ án là PNTM bị cáo

buộc phạm tội trên cơ sở quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung).
Những quy định về đối tượng chứng minh đã tạo ra cơ sở pháp lý, làm
định hướng cho quá trình chứng minh VAHS góp phần xử lý đúng người,
đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Tuy nhiên, thực tiễn
chứng minh đã chỉ ra những hạn chế và những vấn đề cần phải được tiếp tục
nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả chứng minh khi tiến
hành tố tụng giải quyết vụ án. Đó là các vấn đề sau:
- Đối tượng chứng minh và các vấn đề khác trong quá trình chứng minh
phụ thuộc vào chính sách pháp luật TTHS, vào việc xác định mô hình TTHS, do
vậy, khi thay đổi theo định hướng cải cách tư pháp thì các quy định của pháp
luật về đối tượng chứng minh đã đáp ứng được yêu cầu của định hướng đó chưa,
cần loại bỏ hoặc bổ sung nội dung đối tượng chứng minh nào của VAHS.
- Thực tiễn cho thấy, trong một số vụ án việc xác định đối tượng chứng
minh không chính xác, thiếu căn cứ dẫn đến việc Toà án hoặc VKS phải trả
hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung hoặc dẫn đến việc giải quyết vụ án sai
sót, không phù hợp với quy định của pháp luật, ảnh hưởng tới quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong quá trình giải quyết vụ án.

3


- Những bất cập về trình độ nhận thức, năng lực, kinh nghiệm công tác,
ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm của người có thẩm quyền THTT cần
được nghiên cứu khắc phục…
Bởi vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận về đối
tượng chứng minh trong VAHS, đánh giá thực trạng quy định của luật TTHS
Việt Nam về đối tượng chứng minh và thực tiễn hoạt động của các cơ quan có
thẩm quyền THTT liên quan đến vấn đề này là rất cần thiết. Từ đó, đề ra giải
pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nó trong
giải quyết VAHS có ý nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết, góp phần

nâng cao chất lượng giải quyết VAHS. Đây cũng là lý do tác giả chọn đề tài
“Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam” làm luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
- Nghiên cứu làm rõ đối tượng chứng minh trong VAHS trên phương
diện lý luận; nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam về đối tượng chứng minh.
- Nghiên cứu thực tiễn xác định đối tượng chứng minh trong VAHS của
các cơ quan THTT nước ta từ năm 2009 đến năm 2018; từ thực tiễn đó chỉ ra
những hạn chế, thiếu sót trong việc xác định đối tượng chứng minh, đồng thời
chỉ ra nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế đó.
- Đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được những mục tiêu nêu trên, luận án có những nhiệm vụ sau:

4


- Phân tích tổng quan về tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước có
liên quan đến đề tài luận án, trên cơ sở đó xác định những vấn đề luận án cần
tiếp tục nghiên cứu.
- Phân tích làm sáng tỏ một cách cơ bản, có hệ thống những quan điểm,
học thuyết về đối tượng chứng minh trong VAHS; nghiên cứu lý luận và thực
trạng pháp luật một số nước trên thế giới về đối tượng chứng minh trong
VAHS, trên cơ sở đó đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
trong việc hoàn thiện pháp luật về đối tượng chứng minh.
- Nghiên cứu quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật TTHS
Việt Nam, thông qua đó làm rõ tính khoa học, vai trò, giá trị pháp lý của nó

đối với việc chứng minh VAHS trong xã hội đương đại, đồng thời rút ra bài
học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện, áp dụng pháp luật về đối tượng chứng
minh ở nước ta trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.
- Nghiên cứu thực tiễn xác định đối tượng chứng minh trong VAHS của
các cơ quan có thẩm quyền THTT cũng như ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực
của nó đối với việc làm rõ sự thật khách quan vụ án, chỉ ra những bất cập, hạn
chế của các quy định pháp luật làm cơ sở cho các đề xuất, kiến nghị hoàn
thiện và áp dụng pháp luật TTHS về đối tượng chứng minh.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về đối
tượng chứng minh, luận án đặt ra nhiệm vụ đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp
luật và các giải pháp tăng cường hiệu quả xác định đối tượng chứng minh
trong việc áp dụng pháp luật giải quyết VAHS.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận về đối tượng
chứng minh trong VAHS, các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và một

5


số nước trên thế giới về đối tượng chứng minh, thực tiễn xác định đối tượng
chứng minh trong VAHS của các chủ thể có thẩm quyền THTT nước ta.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án có phạm vi nghiên cứu là những quan điểm, học thuyết về đối
tượng chứng minh trong VAHS và thực tiễn xác định đối tượng chứng minh
trong VAHS của các cơ quan có thẩm quyền THTT trên phạm vi toàn quốc từ
năm 2009 đến năm 2018 cũng như thực trạng pháp luật của một số quốc gia
trên thế giới.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp tiếp cận

- Các nội dung của luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước
pháp quyền, chính sách hình sự và cải cách tư pháp; các luận điểm chung của
khoa học pháp lý TTHS về đối tượng chứng minh.
- Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận quyền khi phân tích, đánh giá
các vấn đề về đối tượng chứng minh trong VAHS, thông qua đó góp phần
thực hiện định hướng của Hiến pháp năm 2013 đối với việc tôn trọng, ghi
nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong quá trình
chứng minh giải quyết VAHS.
4.2. Các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài
luận án
- Phương pháp phân tích: Được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề lý
luận, thực trạng quy định của pháp luật TTHS về đối tượng chứng minh, lập
luận đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật TTHS về
đối tượng chứng minh.

6


- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng chủ yếu trong việc hệ thống hóa
các nội dung liên quan đến đề tài luận án theo các nhóm vấn đề trong tổng
quan tình hình nghiên cứu; hệ thống hóa các quan điểm, học thuyết của các
tác giả trong và ngoài nước về đối tượng chứng minh trong VAHS.
- Phương pháp thống kê và nghiên cứu điển hình: Được sử dụng để làm
rõ diễn biến tình hình tội phạm xảy ra cũng như thực tiễn xác định đối tượng
chứng minh trong VAHS của các cơ quan có thẩm quyền THTT nước ta từ
năm 2009 đến năm 2018.
- Phương pháp so sánh luật học: Được sử dụng trong việc làm rõ sự kế
thừa và phát triển của các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật

TTHS Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử; đồng thời, làm rõ những điểm tương
đồng cũng như khác biệt giữa pháp luật TTHS của nước ta với pháp luật
TTHS của một số nước trên thế giới về đối tượng chứng minh.
- Phương pháp hệ thống: Được sử dụng để làm rõ các vấn đề lý luận,
thực tiễn xác định đối tượng chứng minh của các cơ quan chức năng, thực
trạng pháp luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh và những vấn đề
khác thuộc phạm vi nghiên cứu trong luận án.
- Phương pháp lịch sử: Được sử dụng trong việc làm rõ quá trình hình
thành và phát triển của các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật
TTHS nước ta qua các thời kỳ lịch sử, đặc biệt là từ khi có Bộ luật TTHS năm
1988 đến nay.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học và ý nghĩa thực tiễn của
luận án
Luận án sau khi bảo vệ thành công sẽ là công trình chuyên khảo đầu tiên
trong khoa học pháp lý TTHS nghiên cứu, phân tích một cách sâu sắc, toàn
diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về đối tượng chứng minh

7


trong VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam. Những đóng góp mới của luận
án bao gồm các nội dung dưới đây:
- Một là, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về đối tượng chứng
minh trong VAHS như: Khái niệm, đặc điểm của đối tượng chứng minh trong
VAHS; cơ sở, ý nghĩa của việc xác định đối tượng chứng minh trong VAHS;
nội dung, phân loại đối tượng chứng minh trong VAHS;
- Hai là, nghiên cứu pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới về
đối tượng chứng minh, trên cơ sở đó có những nhận xét và rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật TTHS về đối tượng
chứng minh;

- Ba là, nghiên cứu, đánh giá thực trạng xác định đối tượng chứng minh
trong VAHS của các cơ quan có thẩm quyền THTT nước ta từ năm 2009 đến
năm 2018, trên cơ sở đó chỉ ra những kết quả đã đạt được và những tồn tại,
hạn chế cần khắc phục cũng như nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó;
trong đó, xác định rõ những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật
TTHS về đối tượng chứng minh ở Việt Nam hiện nay là gì;
- Bốn là, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật TTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay;
- Năm là, kết quả nghiên cứu và các giải pháp đề xuất trong luận án sẽ
là tài liệu tham khảo có giá trị đối với việc hoàn thiện pháp luật TTHS Việt
Nam về đối tượng chứng minh; đồng thời, là tài liệu để các cơ quan chức
năng tham khảo, lựa chọn và áp dụng các giải pháp nhằm khắc phục những
thiếu sót, hạn chế trong thực tiễn xác định đối tượng chứng minh của các
chủ thể có thẩm quyền THTT giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó góp phần
nâng cao hiệu quả chứng minh VAHS nói chung và xác định đối tượng
chứng minh trong VAHS nói riêng.
8


6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
án được kết cấu thành bốn chương, gồm:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Những vấn đề lý luận về đối tượng chứng minh trong vụ án
hình sự
Chương 3: Sự thể hiện đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng
hình sự một số nước trên thế giới và Việt Nam
Chương 4: Thực tiễn và các giải pháp nâng cao hiệu quả xác định đối
tượng chứng minh trong áp dụng pháp luật giải quyết vụ án hình sự


9


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
1.1.1. Những công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề chứng minh
trong vụ án hình sự
Chứng minh là một trong những chế định quan trọng của TTHS, vì thế đã
có khá nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề này, ở các cấp độ, các hình
thức khác nhau như: Đề tài nghiên cứu khoa học, giáo trình, sách chuyên khảo,
bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật học, chuyên ngành điều tra tội phạm,
luận án tiến sĩ…Những công trình này đã đề cập đến các nội dung sau:
- Về khái niệm, ý nghĩa của chứng minh trong tố tụng hình sự
+ Các nghiên cứu về khái niệm chứng minh trong tố tụng hình sự
Ở mức độ khái quát nhất, chứng minh được các tác giả đề cập đến như
là một quá trình nhận thức chân lý khách quan của vụ án, đi từ chưa biết đến
biết; từ biết hiện tượng đến biết bản chất vụ án, từ biết đơn giản đến biết sâu
sắc về vụ án. “Là nhận thức chân lý về vụ án nên quá trình chứng minh phải
tuân theo những quy luật của nhận thức khách quan từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng, từ việc thu thập, kiểm tra chứng cứ đến việc đánh giá
tổng hợp các chứng cứ đã thu thập nhằm là rõ các tình tiết của vụ án” [23, tr
239]. Trong khoa học luật TTHS, nhiều tác giả (GS.TS Đỗ Ngọc Quang,
PGS.TS Trần Văn Độ, TS Đỗ Văn Đương, v.v...) có sự đồng tình với quan
điểm này và đã có những phân tích, lập luận, đánh giá làm sâu sắc thêm trong
các công trình nghiên cứu [5, tr 205 - 206], [75, tr 157 - 158], [81, tr 211 212], v.v...Quá trình chứng minh, thường trải qua ba bước: Thu thập chứng
cứ, kiểm tra chứng cứ, đánh giá và sử dụng chứng cứ; Mỗi bước có vị trí, vai
trò, ý nghĩa ở mức độ nhất định trong quá trình chứng minh VAHS. Giáo

10


trình của các cơ sở đào tạo luật ở nước ta như giáo trình Luật TTHS Việt Nam
của Trường Đại học Luật Hà Nội (PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên)
[75, tr 187], giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa luật Đại học Quốc gia
Hà Nội (PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên) [23, tr 240], giáo trình Luật
TTHS Việt Nam của Học viện Tư pháp (PGS.TS Nguyễn Văn Huyên chủ
biên) [46, tr 135], giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Viện Đại học Mở Hà
Nội (TS Đỗ Thị Phượng chủ biên) [58, tr 80], v.v…nêu rõ: Thu thập chứng
cứ là bước đầu tiên của quá trình chứng minh, nhằm thu thập tất cả các dấu
vết của tội phạm để lại bên ngoài thế giới khách quan cũng như trong nhận
thức của con người. Các chủ thể TTHS, nhất là chủ thể buộc tội phải thu thập
được những dấu vết tội phạm theo thủ tục quy định của pháp luật TTHS thì
mới có chứng cứ làm cơ sở chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội. Vì vậy, thu thập chứng cứ có ý nghĩa hết sức quan trọng, làm tiền
đề cho việc chứng minh VAHS. Kiểm tra chứng cứ là đòi hỏi tất yếu của quá
trình chứng minh, mà bản chất của nó là kiểm tra tính xác thực của chứng cứ,
kiểm tra xem tài liệu thu thập được đã thỏa mãn các thuộc tính khách quan,
liên quan và hợp pháp của chứng cứ hay chưa. Đánh giá chứng cứ là việc xác
định giá trị chứng minh của từng chứng cứ và toàn bộ chứng cứ thu thập được
đối với những vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS. Việc đánh giá chứng
cứ phải khách quan, toàn diện trên quan điểm biện chứng, lịch sử, cụ thể…
Trong các công trình nghiên cứu, tuy cách thể hiện có sự khác nhau
nhưng khái niệm chứng minh trong TTHS được các tác giả đưa ra đều thống
nhất các nội hàm sau: i) Chứng minh VAHS là quá trình nhận thức chân lý
khách quan của vụ án, tuân theo các quy luật của quá trình nhận thức khách
quan; ii) Quá trình chứng minh VAHS là quá trình nhận thức khách quan về
tội phạm, về hành vi của người phạm tội và những tình tiết khác có liên quan
đến vụ án; iii) Quá trình chứng minh VAHS được trải qua các bước: Thu thập

11


chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng cứ; mỗi bước có vị trí, tầm
quan trọng khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau trong
quá trình chứng minh.
+ Các nghiên cứu về ý nghĩa của chứng minh trong tố tụng hình sự
Các nghiên cứu đã chỉ ra ý nghĩa của chứng minh trong TTHS, trong
đó nêu bật ý nghĩa xác định sự thật khách quan vụ án của quá trình chứng
minh. Các nghiên cứu cho rằng: Quá trình chứng minh VAHS là quá trình
nhận thức chân lý, mà thực chất của quá trình đó là đi tìm chứng cứ của vụ
án. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc tìm ra chứng cứ mà không thực hiện
việc chứng minh tội phạm thì không thể làm sáng tỏ toàn bộ vụ án đúng như
những gì nó đã diễn ra trong thực tế khách quan. “Việc chứng minh tội phạm
là nhằm làm sáng tỏ các tình tiết khác nhau của vụ án phục vụ cho việc định
tội, quyết định trách nhiệm hình sự và hình phạt cũng như giải quyết các vấn
đề khác liên quan của vụ án” [75, tr 164]. Chia sẻ với quan điểm này, một số
tác giả đã đưa ra những nhận định cụ thể để làm rõ hơn vị trí, ý nghĩa của
chứng minh trong TTHS, chẳng hạn như: Khi đánh giá về tổng quan những
nội dung lớn sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật TTHS năm 2015, PGS. TS
Nguyễn Hòa Bình đã chỉ ra: “Chứng cứ và chứng minh là một trong những
vấn đề quan trọng nhất của tố tụng hình sự. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ
án hình sự thực chất là quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, mặc
dù cách thức tiến hành ở mỗi giai đoạn có khác nhau” [5, tr 27]; hoặc trong
công trình nghiên cứu về chứng minh và chứng cứ, GS. TS Đỗ Ngọc Quang
đưa ra nhận định: “Chứng minh, chứng cứ trong tố tụng hình sự là một trong
những chế định quan trọng nhất, xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng kể từ
khi khởi tố, điều tra đến truy tố, xét xử vụ án hình sự” [5, tr 205]; v.v...Như
vậy, chứng minh VAHS có vị trí, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong TTHS, có
vai trò làm sáng tỏ toàn bộ VAHS đúng như những gì nó đã diễn ra trong thực

12


tế khách quan. Chứng minh VAHS còn có ý nghĩa trong việc đánh giá giá trị
chứng minh của các chứng cứ, đồng thời là căn cứ để đánh giá năng lực, trách
nhiệm và hiệu quả thực thi nhiệm vụ của chủ thể chứng minh. Ý nghĩa sâu xa
hơn, chứng minh VAHS còn góp phần vào việc thực hiện công cuộc cải cách
tư pháp ở nước ta trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền đã được GS.
TSKH Lê Văn Cảm đề cập đến trong một công trình nghiên cứu [17, tr 214].
- Về nghĩa vụ chứng minh
Chứng minh VAHS là việc làm sáng tỏ bản chất và các tình tiết của vụ
án bằng chứng cứ [19, tr 30], tuy nhiên để thực hiện nhiệm vụ này thì cần
phải có lực lượng chuyên trách đảm nhiệm. Do đó, ở bất kì quốc gia nào trên
thế giới đều phải thành lập các cơ quan chuyên trách và quy định nghĩa vụ
chứng minh tội phạm cho các cơ quan này. Nghiên cứu về nghĩa vụ chứng
minh trong pháp luật TTHS của các nước phương Tây, TS Đỗ Văn Đương có
nhận xét: “Trong pháp luật tố tụng hình sự của các nước phương Tây, nghĩa
vụ chứng minh do lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp (cơ quan điều tra) và cơ
quan công tố thực hiện, có những nước do thẩm phán tiến hành (chẳng hạn ở
Italia). Nhiệm vụ của cảnh sát là thu thập tài liệu, chứng cứ và lập hồ sơ về vụ
án xảy ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của công tố viên (ở Cộng hòa Pháp), hoặc
độc lập không chịu ràng buộc bởi công tố viên (ở Anh)” [36, tr 27]. Ở nước
ta, các nghiên cứu đều chỉ ra, việc chứng minh tội phạm chủ yếu thuộc về các
cơ quan có thẩm quyền THTT, đó là: Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa
án [23, tr 238], [75, tr 168]. Do chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan có sự
khác nhau nên phạm vi trách nhiệm chứng minh tội phạm của mỗi cơ quan
cũng khác nhau. “Ở giai đoạn khởi tố, điều tra, chủ thể chứng minh tội phạm
là Điều tra viên, Kiểm sát viên; còn ở giai đoạn xét xử, trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về Hội đồng xét xử” [23, tr 238]. Để thực hiện nghĩa vụ
chứng minh tội phạm thì các chủ thể có thẩm quyền THTT phải phát hiện, thu

13


thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ để chứng minh tội phạm trước pháp luật
[36, tr 32]. Ngoài các cơ quan có thẩm quyền THTT có nghĩa vụ chứng minh
VAHS thì “bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có quyền
xuất trình chứng cứ, đưa ra những đồ vật, những yêu cầu thu thập chứng cứ
nhưng không buộc phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội” [36, tr
32]. Trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS và thực tiễn chứng minh
VAHS của các chủ thể có thẩm quyền THTT, PGS. TS Trần Văn Độ đã có
nhận định: “Trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng;
cho nên đa số các trường hợp Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát chỉ thu thập
chứng cứ buộc tội, không chú trọng thu thập chứng cứ gỡ tội; trong khi đó
bên bào chữa (người bào chữa, bị can, bị cáo) không được quyền chủ động
thu thập chứng cứ làm hạn chế khả năng tranh tụng của họ tại phiên tòa”
[133, tr 4].
- Về căn cứ chứng minh
Trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, để làm sáng tỏ về
một vấn đề nào đó thì cần phải dựa trên những căn cứ chứng minh và trong
VAHS, căn cứ để chứng minh các sự kiện, tình tiết của vụ án chính là chứng
cứ. “Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng
chỉ có thể ra các quyết định hoặc bản án dựa trên cơ sở các chứng cứ chứng
minh về sự việc phạm tội cũng như con người thực hiện tội phạm và những
tình tiết có liên quan” [23, tr 217]. Như vậy, chứng cứ là phương tiện duy
nhất để các chủ thể có thẩm quyền THTT dựng lại toàn bộ diễn biến của vụ
án đúng như những gì nó đã diễn ra ở hiện thực khách quan và cũng là căn cứ
duy nhất để các chủ thể này ra các quyết định hoặc bản án phù hợp với quy
định của pháp luật. Vì được quy định trong pháp luật TTHS nên chứng cứ
mang bản chất giai cấp và vì thế, ở mỗi nhà nước hay mỗi chế độ khác nhau
thì quan niệm về chứng cứ cũng có sự khác nhau. Do vai trò và tầm quan

14


trọng của chứng cứ đối với việc làm sáng tỏ bản chất VAHS nên đã có nhiều
công trình nghiên cứu về chứng cứ trong TTHS như giáo trình Luật TTHS
của các cơ sở đào tạo luật, sách chuyên khảo về “Chế định chứng cứ trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam” và các bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành luật của TS Trần Quang Tiệp, sách chuyên khảo về “Chứng cứ và
chứng minh trong vụ án hình sự” và luận án tiến sĩ luật học của tác giả Đỗ
Văn Đương, luận án tiến sĩ luật học của tác giả Vương Văn Bép, bài viết đăng
trên Tạp chí Kiểm sát số 9&10/2008 của TS Mai Thế Bày, bài viết đăng trên
Tạp chí Kiểm sát số 7/2013 của Ths Lê Minh Long, v.v...Ở các công trình
này, các tác giả chủ yếu đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận về chứng cứ,
như: Khái niệm chứng cứ [23, tr 217], [75, tr 157], lịch sử hình thành chứng
cứ [4, tr 35], [19, tr 10], [89, tr 16 - 21], các thuộc tính của chứng cứ, phân
loại chứng cứ, nguồn chứng cứ [23, tr 218], [75, tr 159], v.v…Trên cơ sở đó,
mỗi công trình nghiên cứu đã góp phần làm sáng tỏ lý luận chứng cứ ở nhiều
khía cạnh khác nhau, có những công trình đã đưa ra những kiến nghị hoàn
thiện pháp luật TTHS về chứng cứ [4, tr 154].
1.1.2. Những công trình nghiên cứu đối tượng chứng minh trong vụ
án hình sự
Đối tượng chứng minh trong VAHS, thường được nghiên cứu cùng với
các nội dung khác của vấn đề chứng minh trong VAHS, rất ít công trình
nghiên cứu độc lập về đối tượng chứng minh, ngoại trừ một vài luận văn ở
các cơ sở đào tạo luật ở nước ta những năm gần đây như luận văn thạc sĩ luật
học của tác giả Tô Hữu Thông với đề tài “Đối tượng chứng minh trong tố
tụng hình sự”, bảo vệ tại Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2004 [84],
luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Vũ Xuân Thao với đề tài “Nghiên cứu so
sánh về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và
liên bang Nga”, bảo vệ năm 2014 tại Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội

15


[78], v.v...Đối tượng chứng minh được đề cập, với tư cách một phần trong các
công trình nghiên cứu tổng thể về chứng cứ, chứng minh trong TTHS như
giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội [23],
sách chuyên khảo về “Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự” của TS
Đỗ Văn Đương [36], sách chuyên khảo về “Chế định chứng cứ trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam” của TS Trần Quang Tiệp [89], luận án tiến sĩ luật học
của tác giả Nguyễn Văn Du [25], v.v…nên không có điều kiện nghiên cứu
chuyên sâu mà chủ yếu dừng lại ở việc nêu ra các vấn đề cần phải chứng
minh của vụ án trong mối liên hệ với các công cụ, phương tiện chứng minh và
nghĩa vụ chứng minh, hoặc phân tích điều luật quy định đối tượng chứng
minh trong các Bộ luật TTHS (Bộ luật TTHS năm 1988, Bộ luật TTHS năm
2003 và Bộ luật TTHS năm 2015). Từ nội dung các công trình này cho thấy,
một số vấn đề được đề cập, nghiên cứu, đó là:
- Về khái niệm đối tượng chứng minh và mối liên hệ giữa đối tượng
chứng minh với chủ thể và biện pháp chứng minh
+ Về khái niệm đối tượng chứng minh
Ở phương diện chung nhất, đối tượng chứng minh trong VAHS được
quan niệm “là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng
tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết
định phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự” [23, tr 234]. Cùng với
quan điểm này thì một số tác giả: PGS.TS Trần Văn Độ [75, tr 164], TS Trần
Quang Tiệp [89, tr 84], TS Đỗ Văn Đương [35, tr 22], TS Đỗ Thị Phượng
[58, tr 78], v.v...đã bằng những cách tiếp cận, lý giải khác nhau, đưa ra quan
điểm của mình về khái niệm đối tượng chứng minh trong VAHS. Từ các quan
điểm cho thấy, các tác giả có sự thống nhất về bản chất của khái niệm đối
tượng chứng minh trong VAHS, mặc dù cách dùng thuật ngữ có thể khác
nhau, chẳng hạn: “Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những

16


vấn đề chưa biết…” [23, tr 234]; hay: “Đối tượng chứng minh trong vụ án
hình sự là tất cả các tình tiết phải được xác định…” [58, tr 78], [75, tr 164];
hoặc “đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm những sự kiện và
tình tiết khác nhau…” của TS Trần Quang Tiệp trong sách chuyên khảo
“Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” [89, tr 84];
v.v…Nội dung của khái niệm đối tượng chứng minh trong VAHS mà các
công trình nghiên cứu chỉ ra là: i) Đó là tất cả những gì chưa biết nhưng cần
phải biết trong quá trình giải quyết VAHS; ii) Những vấn đề chủ yếu phải
chứng minh trong VAHS bao gồm: Sự việc phạm tội; người thực hiện hành
vi phạm tội; thiệt hại do tội phạm gây ra; những vấn đề có ảnh hưởng tới
TNHS; những vấn đề khác liên quan đến vụ án…; iii) Đối tượng chứng
minh được quy định và cụ thể hóa trong pháp luật TTHS. Một số tác giả còn
đưa ra kiến nghị bổ sung khái niệm đối tượng chứng minh vào quy định của
pháp luật TTHS [89, tr 91].
+ Về mối liên hệ giữa đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự với
chủ thể chứng minh và biện pháp chứng minh
Chủ thể chứng minh VAHS ở mỗi nước là do mô hình TTHS của nước
đó quy định và được cụ thể hóa trong pháp luật TTHS. Do đó, để xác định
mối liên hệ giữa đối tượng chứng minh với chủ thể chứng minh và biện pháp
chứng minh thì cần phải thông qua pháp luật TTHS của mỗi nước để xác định
chủ thể chứng minh. Ở nước ta, cơ quan lập pháp đã quy định rõ trong pháp
luật TTHS: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác
định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội” [68, tr 17]. Từ quy định này
cho thấy, ở nước ta, chủ thể được trao nghĩa vụ chứng minh VAHS là các cơ

17


quan có thẩm quyền TTHT. Về chủ thể chứng minh VAHS, TS Trần Quang
Tiệp đã nghiên cứu và chỉ ra, chủ thể chứng minh VAHS không chỉ có các cơ
quan có thẩm quyền THTT mà còn có các chủ thể khác, như: Người làm
chứng; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo (luật sư); bị
can, bị cáo [89, tr 95 - 98], v.v…Các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh theo
luật định, cụ thể là các cơ quan có thẩm quyền THTT buộc phải áp dụng các
biện pháp hợp pháp do luật TTHS quy định, như: Hỏi cung bị can; Lấy lời
khai người làm chứng; Lấy lời khai của bị hại; Đối chất; Nhận dạng, Nhận
biết giọng nói; Khám xét người; Khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm,
phương tiện; Thu giữ phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử; Khám nghiệm hiện
trường; Khám nghiệm tử thi; Xem xét dấu vết trên thân thể; Thực nghiệm
điều tra, v.v…[68] để thu thập chứng cứ chứng minh đối tượng chứng minh
của vụ án. Về nội dung này, GS. TS Đỗ Ngọc Quang cũng có những nghiên
cứu và đưa ra nhận định: “…chứng cứ luôn tự phát ra những “tín hiệu” để
những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và những chủ thể khác của quá
trình tố tụng biết được, từ đó, thực hiện các phương pháp, biện pháp thu thập
chứng minh những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự” [5, tr 217].
Từ quy định của pháp luật và các nhận định nêu trên cho thấy, mối liên hệ
giữa đối tượng chứng minh với chủ thể chứng minh và biện pháp chứng minh
là mối liên hệ do pháp luật TTHS quy định, theo đó các chủ thể có nghĩa vụ
chứng minh VAHS phải áp dụng các biện pháp chứng minh được quy định
trong pháp luật TTHS để xác định đối tượng chứng minh trong VAHS.
- Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
Các nghiên cứu đều thống nhất rằng, những vấn đề phải chứng minh
trong VAHS chính là nội dung của đối tượng chứng minh trong VAHS. Vì
vậy, khi trình bày đối tượng chứng minh trong VAHS, các công trình như
giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội (PGS.TS

18


×