MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp quyền là một khái niệm được hình thành và phát triển dọc theo
chiều dài lịch sử của văn minh nhân loại. Các nội dung, nguyên tắc cơ bản
của pháp quyền đã không ngừng được giải thích, bổ sung và hoàn thiện theo
từng giai đoạn và từng thời kỳ lịch sử. Từ thời Hy Lạp cổ đại, tư tưởng pháp
quyền xuất hiện nơi mà nền dân chủ sơ khai đã được hình thành.Đáng chú ý
trong thời kỳ này là tư tưởng pháp quyền sơ khai của hai triết gia nổi tiếng
Plato và Aristotle. Plato khẳng định pháp luật phải là ông chủ của chính
quyền để ngăn ngừa sự xuất hiện của những kẻ chuyên quyền. Tương tự,
Aristotle cho rằng pháp luật cần phải được xem như là sự kiềm chế đối với
các pháp quan để hạn chế sự tùy tiện trong quá trình đưa ra các phán quyết.
Tư tưởng và học thuyết pháp quyền được tiếp tục bổ sung và phát
triển khi giai cấp tư sản ở các quốc gia phương Tây không ngừng lớn mạnh,
đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến và giáo hội, từ đó từng bước giành
ảnh hưởng trên chính trường. Trong thời kỳ này, tư tưởng pháp quyền được
phát triển và hòa quện vào các học thuyết về phân quyền, chủ nghĩa lập hiến
và dân chủ. Nhiều nhà nghiên cứu lớn đã xuất hiện với vai trò hết sức quan
trọng trong việc bồi đắp và phát triển các học thuyết pháp quyền. Các tên tuổi
và tác phẩm trứ danh trong thời kỳ này cần phải kể đến là Locke J. với tác
phẩm "Khảo luận thứ hai về chính quyền", J.J. Rousseau với tác phẩm "Khế
ước xã hội" và Ch.L. Montesquieu với tác phẩm "Tinh thần pháp luật". Đặc
điểm nổi bật nhất của tư tưởng pháp quyền trong giai đoạn này là đề cao các
giá trị dân chủ, tự do và quyền con người. J.J. Rousseau đã bắt đầu tác phẩm
của mình với câu nói bất hủ: "Con người được sinh ra một cách tự do, nhưng
khắp nơi lại bị xiềng xích". Từ đó, các nhà tư tưởng trong giai đoạn này tập
trung tìm kiếm một cơ chế chế ước quyền lực nhà nước, chống lại sự lạm
1
quyền và xây dựng một mô hình chính phủ hợp lý nhằm hạn chế việc vi phạm
các quyền con người. Ch.L. Montesquieu với học thuyết tam quyền phân lập
đã được các học giả tư sản phương Tây coi là hòn đá tảng trong việc xây dựng
lý luận tổ chức quyền lực nhà nước tư sản. Một nhà nghiên cứu đã nhận xét
khái quát tư tưởng pháp quyền chủ đạo trong giai đoạn này bằng một khẩu
hiệu: Con người chỉ được tự do khi chính phủ không được tự do.
Tư tưởng và học thuyết pháp quyền hiện đại của phương Tây được thể
hiện đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa dùng
khái niệm "Nhà nước pháp quyền", nhưng tư tưởng của Người về nhà nước
pháp quyền đã rất rõ; trong Yêu sách của nhân dân An Nam viết năm 1919,
Người yêu cầu phải để cho nhân dân Việt Nam có các quyền tự do như tự do
ngôn luận, tự do lập hội và hội họp, tự do giáo dục và đặc biệt là "thay chế độ
ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật" [28 tr. 36]. Trong "Việt Nam yêu cầu
ca", Người đã thể hiện nội dung những yêu sách trên để phổ biến rộng rãi: "Bảy
xin hiến pháp ban hành, Trăm đều phải có thần linh pháp quyền" [28 tr. 438].
Từ năm 1986, thực hiện chính sách đổi mới của Đảng, nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp từng bước được xóa bỏ. Yêu cầu xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã yêu cầu nhà nước phải được tiếp tục
hoàn thiện thể chế, tổ chức để thích ứng tốt hơn với yêu cầu phát triển kinh tế
xã hội của đất nước. Sau 5 năm thực hiện chính sách đổi mới, tại Hội nghị lần
thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII ngày 29 tháng 11 năm 1991, khái
niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên được đề cập tới như
một mục tiêu cần hướng tới của một xã hội văn minh. Sau một thời gian dài
của quá trình nhận thức, tìm tòi, thể nghiệm, đến năm 2001 sửa đổi Hiến pháp
năm 1992, yêu cầu xây dựng "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" mới
chính thức trở thành một nguyên tắc hiến định, định hướng cho quá trình xây
dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước Việt Nam.
2
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực
tiễn và lý luận 25 năm đổi mới, Đảng đã nghiên cứu và đề ra các giải pháp
nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Trong lĩnh vực hoàn thiện thể chế bộ máy, Đảng ta nhận
định: "Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản
lý xã hội..." [14, tr. 246].
Thực tiễn cũng chứng minh, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công Nhà nước pháp
quyền Việt Nam giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt không chỉ có ý nghĩa đối
với bản thân Đảng mà còn là điều kiện quan trọng đối với sự tồn tại hoạt động
của Nhà nước pháp quyền. Vấn đề là phải luôn luôn đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước để sao cho vừa bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng, vừa phát huy vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước để tập trung mọi
quyền lực vào tay nhân dân. Đảng không được buông lỏng sự lãnh đạo đối
với hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt là đối với Nhà nước. Để xây dựng
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân phải tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước; đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay:
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,
cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý,
3
điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của
đất nước [14, tr. 173].
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những yếu kém, khuyết điểm đó là:
Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra,
giám sát chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện
đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng,
kiểm tra, giám sát phòng ngừa tiêu cực và phát huy nhân tố tích
cực. Nhiều khuyết điểm sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm
được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo
đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm.
Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp ủy chưa tốt [14, tr. 175].
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân, Nghị quyết chỉ rõ: Đảng ta phải:
Quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin
của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng [17].
Để thực hiện được điều đó, bên cạnh việc phải giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập
trung, dân chủ; Đảng ta phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Bởi vì, kiểm tra, giám
sát là hoạt động không thể thiếu diễn ra trong tất cả các khâu của quy trình
4
lãnh đạo và quản lý; vì chức năng lãnh đạo của Ðảng không chỉ ở việc định ra
đường lối, nghị quyết, tổ chức thực hiện mà còn phải tiến hành kiểm tra, giám
sát. Ðây là biện pháp không thể thiếu được để phát huy ưu điểm, phòng ngừa,
khắc phục khuyết, nhược điểm, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Ðảng.
V.I.Lênin đã khẳng định: Khi đường lối, chính sách đã được xác
định, phương hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải
đặt lên hàng đầu và sự lãnh đạo phải "chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo
các sắc lệnh và mệnh lệnh sang việc chọn người và kiểm tra sự thực hiện".
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Người đời ai cũng có khuyết điểm, có làm
việc thì có sai lầm; tuy nhiên Người khẳng định: "Có thể nói rằng: chín
phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm
tra". Ðây là một trong những cảnh báo quan trọng nhất về nguyên nhân của
những sai lầm khuyết điểm trước đây cũng như hiện nay không được thắng
thắn chỉ ra. Có thể nói, không có kiểm tra, giám sát thì không lãnh đạo và
không thể có một Nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn cho thấy công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng có mối quan hệ biện chứng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa; là phương thức đảm bảo pháp chế trong Nhà nước
pháp quyền. Với mong muốn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình xây dựng Nhà nước Pháp
quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, tôi chọn đề tài "Công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền" làm
luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu liên quan đến
vấn đề nhà nước pháp quyền, như:
5
- Công trình khoa học của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội với tên
gọi: Chính phủ trong nhà nước pháp quyền, do PGS.TS Nguyễn Đăng Dung
thực hiện năm 2008;
- Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Nguyễn Văn
Thảo, Nhà xuất bản Tư pháp;
- Tính minh bạch của pháp luật - một thuộc tính của Nhà nước pháp
quyền, của Phạm Duy Nghĩa, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 2002;
- Tư tưởng Đông - Tây về nhà nước và pháp luật, những nhân tố nhà
nước pháp quyền, của Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 2002;
- Học thuyết Nhà nước pháp quyền, một số vấn đề trong lịch sử hình
thành và phát triển, của Lê Cảm, năm 2002;
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của
GS.TSKH Đào Trí Úc, Nxb Chính trị quốc gia, 2005;
- Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, của GS.TS Nguyễn
Đăng Dung, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2007;
- Công trình khoa học của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội với tên
gọi: Chính phủ trong nhà nước pháp quyền, do PGS.TS Nguyễn Đăng Dung
thực hiện năm 2008.
Nội dung về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã có nhiều bài
viết, nghiên cứu trong những năm gần đây, như:
- Cao Văn Thống: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát phục vụ
nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, 2009;
- Đề tài khoa học cấp bộ: Công tác giám sát trong Đảng giai đoạn
hiện nay, do TS. Đặng Đình Phú, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm, nghiệm thu 2007.
- Tô Quang Thu: Làm tốt nhiệm vụ giám sát, góp phần phát hiện và
khắc phục khuyết điểm khi mới manh nha, Tạp chí Kiểm tra, tháng 11/2006;
6
- Lê Hồng Liêm: Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với phòng,
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011;
- Cao Văn Thống: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình
trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, Tạp chí Kiểm tra, 02/2012...
Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu nội dung mối
quan hệ giữa công tác kiểm tra, giám sát trong xây dựng Nhà nước pháp quyền.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Làm rõ mối quan hệ bản chất, tất yếu giữa công tác xây dựng Đảng
nói chung và công tác kiểm tra, giám sát nói riêng trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Giải quyết tốt mối quan hệ này phải
xem xét tác động hai chiều, có nghĩa là nghiên cứu tác động, ảnh hưởng của
công tác kiểm tra, giám sát trong xây dựng Đảng đối với công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và tác động, ảnh hưởng của xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đối với công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền;
Cơ sở lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phân tích, đánh giá thực trạng công tác kiểm tra, giám sát và xây dựng
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân trong giai đoạn hiện nay; mối
quan hệ bản chất, tất yếu giữa công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác
kiểm tra, giám sát nói riêng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
Đề xuất quan điểm và giải pháp về về tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền.
7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về công tác kiểm tra,
giám sát trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng gồm: Phương pháp
tổng hợp, phân tích, thống kê, trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
nhằm đánh giá, kết luận và đưa ra những giải pháp, phương hướng cụ thể
nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra của luận văn
5. Những đóng góp mới của luận văn
Làm rõ mối quan hệ bản chất, tất yếu giữa công tác xây dựng Đảng
nói chung và công tác kiểm tra, giám sát nói riêng trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm tra, giám sát của Đảng trong Nhà
nước pháp quyền.
Chương 2: Thực trạng hoạt động công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
và các giải pháp nhằm tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
1.1.1. Khái quát chung về nhà nƣớc pháp quyền
"Xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân" là thuật ngữ được sử dụng chính thức trong Văn kiện hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII năm 1994, từ đó đến nay Đảng ta tiếp
tục khẳng định: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân là quy luật tất yếu khách quan. Nó không phải là sản phẩm riêng
của chủ nghĩa tư bản, mà là tinh hoa, sản phẩm trí tuệ loài người, của nền văn
minh nhân loại.
Kế thừa những tư tưởng, giá trị tiến bộ về nhà nước pháp quyền trên
thế giới và manh nha ở nước ta qua sự phát triển của các triều đại phong kiến
ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành và điều kiện cụ
thể của nước ta trong giai đoạn hiện nay có thể nêu ra một số đặc điểm của
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa như sau:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Đặc điểm này thể hiện được bản chất của Nhà nước ta, đã được khẳng
định tại Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001):
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức [31].
9
Đối với Nhà nước ta, tính giai cấp gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc và
tính nhân dân. Tư tưởng xây dựng một Nhà nước của dân, do dân và vì dân là
bắt nguồn từ truyền thống đại đoàn kết dân tộc của các thế hệ người Việt Nam
trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hơn 700 năm trước, Hưng Đạo
Đại vương Trần Quốc Tuấn trước khi mất đã để lại những lời tâm huyết
khuyên vua Trần Anh Tông: "Nên khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền
gốc, đó là thượng sách giữ nước". Lời khuyên đó thể hiện tầm nhìn sâu rộng
của một nhà chính trị lỗi lạc, vẫn còn nguyên giá trị cho đến tận hôm nay, bởi
"chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân" (Nguyễn Trãi) và "gốc có
vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân" (Hồ Chí Minh).
Bài học lấy dân làm gốc với tư tưởng bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao
nhiêu quyền hành đều của dân nhất quán trong lịch sử xây dựng và phát triển
của Nhà nước ta tuy không mới, nhưng ngày nay vẫn luôn nóng bỏng tính
thời sự trong học và thực hành đối với mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ,
đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, quản lý - phải lấy dân làm gốc.Vì khi dân có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, công bằng, không bức xúc vì tham nhũng,
dân sẽ bảo vệ Đảng, Chính phủ. Khi đó, không một thế lực bên ngoài nào dù
mạnh và mưu mô quỷ quyệt đến đâu có thể can thiệp, gây rối, lật đổ.
Nhà nước ta do dân lập nên, do dân bầu ra, dân kiểm tra, giám sát. Đó
phải là Nhà nước hoạt động vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu
cao nhất của mình. Sức mạnh của Nhà nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân
dân, của khối đại đoàn kết toàn dân; phải xây dựng Nhà nước trong sạch vững
mạnh, gần dân, sát dân, thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của dân; bảo đảm
trên thực tế quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và
hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, ra sức tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp.
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính
trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng hiến
10
pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản của Nhà nước,
có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu,
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của
Hiến pháp là điều quan trọng bậc nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an
toàn của người dân. Vì vậy chủ nghĩa lập hiến là điều kiện để bảo đảm sự
chính đáng về mặt pháp lý (tính pháp quyền) của các thiết chế quyền lực nhà
nước cũng như của các hành vi có tính quốc gia. Hiến pháp có một vai trò
quan trọng trong việc duy trì quyền lực của nhân dân, cho nên việc xây dựng
và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh giá và phán quyết
về những quy định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất cần thiết trong tổ
chức và thực hiện quyền lực nhà nước ta hiện nay. Tôn trọng Hiến pháp là tôn
trọng ý chí phổ biến nhất và đầy đủ nhất của nhân dân. Chính vì vậy chủ
nghĩa lập hiến đồng nghĩa với sự thừa nhận tính tối cao của chủ quyền nhân
dân. Bảo vệ Hiến pháp là bảo vệ chủ quyền Nhà nước, bảo vệ ý chí của nhân
dân ta.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp
luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự thể chế hóa
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam trên tất cả các
mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, đối nội, nội ngoại,
pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực
khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Vì vậy nói đến pháp luật trong Nhà nước
pháp quyền là nói đến tính pháp luật khách quan của các quy định pháp luật,
chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân
thủ pháp luật một cách chung chung với mục đích tự thân của nó, pháp luật
của Nhà nước ta phản ánh chủ trương, chính sách của Đảng và lợi ích của
nhân dân. Vì vậy pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với
tính chất và hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội
11
ta: Công bằng, dân chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát triển
tiến bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội ta.
Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với các mối quan
tâm làm sao để đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn
trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân. Cho nên xây dựng
pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một
nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn
thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật
phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và cải cách hành
chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế còn đặt ra
nhiệm vụ phải bằng mọi cách nâng cao hiểu biết pháp luật, giáo dục ý thức
pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên quyết
chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên
hệ dân chủ Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội.
Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi), khẳng định: "Nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân" [31]. Do đó Nhà nước có trách nhiệm pháp lý
bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền công dân, tức là tôn trọng và bảo
vệ quyền chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Trong bản tuyên ngôn độc
lập ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toán thế giới rằng:
"Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Vì vậy bảo đảm quyền con
người, quyền công dân, mở rộng quyền dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp
lý giữa Nhà nước và công dân, giữ công dân với Nhà nước… luôn được Đảng
ta giành sự quan tâm đặc biệt.
12
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: Lập pháp, hành pháp, tư
pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là quyền lực được tập trung, thống nhất, có sự phân công và phối hợp
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp giữa các cơ quan,
trong đó:
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc
hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp…thực hiện quyền giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của quốc hội, cơ quan hành chính
Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ
thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp.
Mặc dù quyền lực nhà nước có sự phân công phân nhiệm rành mạch
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, nhưng vẫn bảo
đảm nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước - tất cả quyền lực nhà nước là của
dân, do dân, và vì dân.
Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước do
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng
13
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Bảo đảm nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước, giữ vững bản chất giai
cấp công nhân của Nhà nước, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân,
đưa sự nghiệp đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của
Đảng ta đối với Nhà nước pháp quyền thể hiện như sau:
Một là, Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hóa đường lối,
chủ trương, chính sách của Nhà nước và tổ chức thực hiện thông qua bộ máy
nhà nước, bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đi vào
đời sống xã hội. Trong giai đoạn hiện nay Đảng ta phải tập trung lãnh đạo vào
một số vấn đề then chốt như thực hiện cho được quyền làm chủ của nhân dân
đổi mới thể chế kinh tế nhằm phát huy mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất,
đồng thời trên cơ sở ấy, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc, tăng cường quốc phóng và an ninh vững mạnh.
Hai là, Đảng phải lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ và tăng cường
quản lý cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền. Đảng lãnh đạo công tác quy hoạch và chiến lược
cán bộ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công thức nhà nước cho
phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
Ba là, Đảng phải lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, các tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên hoạt động
trong cơ quan nhà nước.
Bốn là, Đảng phải phát huy vai trò, trách nhiệm của mặt trận tổ quốc
và các thành viên của mặt trận trong việc xây dựng và bảo vệ chính quyền,
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thu hút sự tham gia rộng rãi cho nhân
dân vào việc quản lý và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước.
14
Vì vậy Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là trực tiếp, toàn diện và bao quát toàn bộ những vấn đề then chốt trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
1.1.2. Mối quan hệ giữa Nhà nƣớc pháp quyền và pháp chế xã hội
chủ nghĩa
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa
Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa có từ sau Cách mạng Tháng
Mười Nga. V.I.Lênin là người đưa ra định nghĩa pháp chế và các nguyên tắc
của nó đã làm giàu thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và
pháp luật.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời
sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên
nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến
pháp, pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác. Mọi
hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích của tập
thể, của công dân đều bị xử lý theo pháp luật [19, tr. 54].
Do ý nghĩa, mục đích và tầm quan trọng của pháp chế xã hội chủ
nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần đề cập trong các nghị quyết, chỉ
rõ phương hướng và biện pháp cần thiết để tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Nghị quyết Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh:
Phải dùng sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa kết hợp
với sức mạnh của dư luận quần chúng để đấu tranh chống những
hành vi phạm pháp. Các cấp ủy Đảng, từ trên xuống dưới phải
thường xuyên lãnh đạo công tác pháp chế... kiểm tra chặt chẽ hoạt
động của các cơ quan pháp chế [5, tr. 121].
Nghị quyết Đại hội VII của Đảng khẳng định: "Điều kiện quan trọng
để phát huy dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng
15
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp
luật và ý thức pháp luật của nhân dân [6, tr. 121].
Tại Đại hội VIII của Đảng, quan điểm này được xác định: "Tăng
cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo
đức..." [7, tr. 45].
- Nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Một là, tính thống nhất.
Nội dung cơ bản: nhận thức, hiểu và áp dụng pháp luật phải thống nhất
trong phạm vi cả nước. V.I.Lê-nin viết: "Pháp chế không thể là pháp chế của tỉnh
Caluga hoặc tỉnh Ca-dan được mà phải là pháp chế duy nhất cho toàn nước Nga
và cho cả toàn thể Liên bang các nước cộng hòa Xô-viết nữa" [24, tr. 232-233].
Nguyên tắc pháp chế nhằm xóa bỏ tư tưởng cục bộ, địa phương, làm cho các
địa phương liên hệ, phát triển, hồi sinh, hợp tác. Tính thống nhất đòi hỏi sự
sáng tạo, song trong khuôn khổ pháp luật.
Hai là, pháp chế và tính hợp lý.
Trong môi trường pháp luật, tính hợp lý được biểu hiện là sự phù hợp
với luật, đối với các mục đích đặt ra, các chủ thể lựa chọn phương án tối ưu
về việc thực hiện pháp luật. Cơ sở của tính hợp lý của pháp luật là sự phản
ánh đúng đắn trong pháp luật các đòi hỏi của sự phát triển xã hội. Nếu pháp
luật quy định đúng đắn ý chí của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, các
giá trị xã hội, thì chắc chắn pháp luật là hợp lý.
Ba là, không có ngoại lệ.
Nội dung của nguyên tắc này là khi pháp luật đã ban hành, ai cũng phải
thực hiện, nếu vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý theo pháp luật. Theo V.I.Lênin:
"Tính nghiêm minh của pháp luật hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt đó
phải nặng, mà ở chỗ phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt" [23, tr. 97].
16
Bốn là, pháp chế xã hội chủ nghĩa gắn liền với dân chủ.
Dưới chế độ dân chủ, pháp luật thừa nhận mọi công dân đều có quyền
bình đẳng trong việc tham gia quản lý và tham gia công việc nhà nước. Chủ
nghĩa xã hội và dân chủ gắn bó với nhau. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là
dân chủ, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội là ở đó. Chủ nghĩa xã hội không thể
tồn tại và phát triển được nếu thiếu dân chủ và dân chủ không thể thực hiện
được đầy đủ, mở rộng nếu không thể hiện bằng hệ thống pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Dân chủ là chế độ chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa với sự tham
gia đông đảo của quần chúng nhân dân lao động vào công việc nhà nước. Dân
chủ có mối quan hệ không tách rời với pháp chế xã hội chủ nghĩa. Không thể
có dân chủ chân chính bên ngoài pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, trạng
thái pháp chế lại phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong đời sống nhà nước và xã hội. Dân chủ là một trong những tiền đề bảo
đảm của pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Năm là, mối quan hệ giữa pháp chế và văn hóa.
Trình độ văn hóa của nhân dân lao động và những cá nhân có trách
nhiệm càng cao thì việc thực hiện pháp luật càng tự giác và thống nhất, ngược
lại, sự tăng cường pháp chế lại mở ra khả năng lớn để phát triển văn hóa xã
hội chủ nghĩa. V.I. Lê-nin coi đây là điều kiện quan trọng để thực hiện pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Người viết: "Nếu chúng ta không áp dụng cho bằng
được điều kiện cơ bản ấy để thiết lập pháp chế thống nhất trong toàn Liên
bang, thì không thể nào nói đến vấn đề bảo vệ và xây dựng bất cứ một nền
văn hóa nào được" [23, tr. 232-233].
Như vậy, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một đòi hỏi khách
quan của quá trình quản lý và lãnh đạo. Nó trở thành nguyên tắc hiến định của
xã hội ta được quy định tại Điều 12, Hiến pháp 1992:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã
17
hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải chấp hành
nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật [30].
Do đó, pháp chế xã hội chủ nghĩa là một khái niệm rất quan trọng trong
tổ chức của bộ máy nhà nước, trong hoạt động của mỗi chủ thể, công dân. kể từ
Đại hội VI của Đảng đến nay, các nghị quyết của Đảng thường xuyên, liên tục
đề cập đến vấn đề này. Hiến pháp với tính chất là đạo luật cao nhất của nhà
nước đã thể chế hóa quan điểm nêu trên của Đảng, càng chứng tỏ pháp chế xã
hội chủ nghĩa rất cần thiết, không thể thiếu trong đời sống xã hội nước ta.
- Pháp chế trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền có mối liên
hệ với pháp chế. Nhà nước pháp quyền khẳng định tính tối cao của pháp luật,
trong đó Hiến pháp là đạo luật cơ bản, pháp luật chi phối và điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Nhà nước định ra pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật,
theo pháp luật. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền nói
chung cũng như Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam nói riêng. Vì thế, nhất
thiết phải tăng cường pháp chế nhằm tạo ra những văn bản pháp luật có chất
lượng để tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, phòng tránh sự lạm quyền
của cán bộ, cơ quan nhà nước...
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã
hội hay cá nhân đều phải tuân theo pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Nhà
nước pháp quyền đòi hỏi phải bảo đảm tôn trọng pháp luật - thước đo đầu tiên
đối với tất cả các chủ thể trong xã hội. Bởi vì, pháp luật được coi là giá trị
chung, là đại lượng mang tính phổ biến, bảo đảm mọi người được bình đẳng
và công bằng xã hội. Nhà nước muốn trở thành Nhà nước pháp quyền phải
được tổ chức trên cơ sở pháp luật. Mọi tổ chức và hoạt động của nhà nước
được pháp luật quy định và bảo đảm cho các quy định đó có hiệu lực pháp lý.
Tổ chức nhà nước từ cơ quan quyền lực, hành chính, tư pháp từ Trung ương
18
cho đến địa phương, cơ sở đều do pháp luật quy định. Pháp luật quy định
thẩm quyền cho từng loại cơ quan, quan hệ giữa các cơ quan nhà nước, hoạt
động của các cơ quan nhà nước. Tất cả những lĩnh vực ấy đều được các chế
tài của pháp luật bảo đảm thực hiện. Lý luận Mác - Lênin và thực tiễn chỉ ra
rằng quản lý xã hội bằng pháp luật là có hiệu quả nhất, văn minh nhất.
Nhà nước pháp quyền đối lập với những tư tưởng coi thường pháp
luật. Hiện tượng coi thường pháp luật của một số cán bộ và nhân dân thực
chất là đối lập pháp quyền. Trong Nhà nước pháp quyền, quyền con người
được mở rộng theo nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì pháp luật
không cấm, cán bộ nhà nước, cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp
luật cho phép. Nguyên tắc này thể hiện sự ràng buộc của pháp luật đối với tất
cả mọi người, không phân biệt địa vị xã hội, chức vụ, chống lại sự tùy tiện,
chuyên quyền, độc đoán của cán bộ nhà nước, cơ quan nhà nước và nhà nước...
Để thực hiện được những nội dung trên, Nhà nước pháp quyền Việt
Nam không chỉ cần có đủ luật, mà còn yêu cầu cao về chất lượng các đạo luật,
phải có hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, ổn định lâu dài. Để đưa pháp
luật vào đời sống nhà nước và xã hội đòi hỏi phải tăng cường pháp chế trong
tất cả các lĩnh vực như: xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, tổ chức bộ
máy, phát huy dân chủ...
Như vậy, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa một trong những
nhiệm vụ quan trọng, để đưa pháp luật vào cuộc sống nhằm xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hiện nay và lâu
dài. Để tăng cường pháp chế đòi hỏi tiến hành các hoạt động kiểm tra, thanh
tra việc thực hiện pháp luật.
1.2. KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG - PHƢƠNG THỨC BẢO ĐẢM
PHÁP CHẾ VÀ KỶ LUẬT TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
Như đã nêu ở phần trên, trong nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự
kiểm soát đối với quyền lực nhà nước, đồng thời có sự kiểm tra, giám sát việc
19
thực hiện Hiến pháp và pháp luật đối với mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức
và mọi công dân.
Để đảm bảo thực hiện quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước theo
hướng xây dựng nhà nước pháp quyền thì dù ở chế độ xã hội nào việc thực
hiện cơ chế kiểm tra, giám sát luôn được đặt ra một cách tất yếu; bởi vì, nhà
nước pháp quyền về thực chất là để công khai hóa quyền lực và chống lạm
dụng quyền lực, đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luật được thực hiện một
cách nghiêm minh.
Trong chế độ ta, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Với quyền
lực nhân dân giao cho, Nhà nước quản lý xã hội để phục vụ nhân dân. Nội
dung cơ bản của quản lý nhà nước bao gồm ba mặt thống nhất chặt chẽ với
nhau như sau: Ban hành quyết định quản lý; Tổ chức, phân công, chỉ đạo việc
thực hiện các quyết định quản lý; Kiểm tra việc thực hiện các quyết định quản lý.
Nhà nước ban hành pháp luật là để quản lý, nhưng chỉ ban hành pháp
luật thôi thì chưa quản lý được xã hội. Do đó, bước tất yếu tiếp theo là phải tổ
chức, điều hành để biến các quy định của pháp luật trở thành hành vi xử sự
của mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cuối cùng là kiểm tra, đánh giá chất lượng
của pháp luật để đề ra các biện pháp thích hợp hoặc điều chỉnh lại các quy
định của pháp luật. Rõ ràng thanh tra, kiểm tra, giám sát là một trong 3 mặt
thống nhất của quản lý (hiểu theo nghĩa rộng), là một khâu không thể thiếu
của hoạt động quản lý nhà nước.Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước luôn
luôn coi thanh tra, kiểm tra, giám sát là công tác cực kỳ quan trọng có ý nghĩa
quyết định đến việc nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước. Theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta: ở đâu có
Nhà nước thì ở đó có thanh tra, kiểm tra, giám sát; quản lý đồng thời phải có
thanh tra, kiểm tra, giám sát; quản lý thanh tra, kiểm tra, giám sát là một chứ
không phải là hai. Ở bên trong từng bộ phận hợp thành hệ thống chính trị của
nhà nước ta đều có những cơ chế hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát -
20
thanh tra, kiểm tra hành chính, thanh tra chuyên ngành, mọi cơ quan nhà nước
đều có chức năng kiểm tra, giám sát trong nội bộ cơ quan; các cơ quan quyền
lực nhà nước có chức năng giám sát việc thực hiện pháp luật. Bên cạnh đó
còn có các tổ chức xã hội - là những thiết chế cộng đồng thực hiện sự giám sát
đối với các cơ quan nhà nước, đặc biệt là hoạt động kiểm tra, giám sát của
đảng đối với các cơ quan nhà nước.
Như vậy, các phương thức kiểm tra, giám sát trong nhà nước pháp quyền
bao gồm: Hoạt động kiểm tra; Thanh tra; Giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước; Giám sát của các tổ chức xã hội và kiểm tra, giám sát của Đảng…
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng ta về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
1.2.1.1. Kiểm tra, giám sát là một tất yếu khách quan, là một biểu
hiện nghiêm túc của hoạt động có ý thức của mọi tổ chức và con người
trong xã hội
Hoạt động của tổ chức và con người trong xã hội là hoạt động có ý
thức; trước khi hành động, các tổ chức và cá nhân đều phải suy nghĩ, xác định
rõ ý định, chủ trương, kế hoạch tiến hành và tổ chức thực hiện thắng lợi ý
định, chủ trương, kế hoạch ấy trong thực tiễn. Song, thực tiễn luôn luôn vận
động, biến đổi, phát triển không ngừng theo quy luật khách quan, nên ý định,
chủ trương, kế hoạch đã xác định dù được nghiên cứu, tính toán, cân nhắc kỹ
vẫn có thể có những thiếu sót, sơ hở, thậm chí không có khả năng thực thi
hoặc sai lầm nghiêm trọng. Vì vậy, muốn đạt được kết quả trong thực tiễn,
phải xem xét tình hình thực tế để nhận xét, đánh giá; có nghĩa là phải kiểm
tra, giám sát; phải kiểm tra, giám sát toàn bộ từ ý định, chủ trương, kế hoạch
đến tổ chức thực hiện và kết quả đạt được để giúp cho tổ chức và cá nhân
đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm của chủ trương, kế hoạch, hành động;
kịp thời rút kinh nghiệm, bổ sung, sửa đổi những thiếu sót, chưa đồng bộ,
chưa phù hợp hoặc sai lầm, lệch lạc; bảo đảm ý định, chủ trương, kế hoạch,
21
hành động được đúng đắn, chuẩn xác hơn, chất lượng, hiệu quả đạt được tốt
đẹp hơn. Do đó, hoạt động có ý thức là hoạt động có kiểm tra, giám sát; ý
thức càng cao, tổ chức càng quan trọng, con người ở cương vị càng cao,
nhiệm vụ càng khó khăn, phức tạp, thì càng đòi hỏi phải coi trọng và tiến
hành tốt công tác kiểm tra, giám sát.
Trong các tác phẩm của mình, C.Mác chưa đề cập sâu đến công tác
kiểm tra, giám sát của một đảng cầm quyền, nhưng đã thể hiện rõ quan điểm
về kiểm tra, giám sát trong quản lý kinh tế - xã hội. Theo C.Mác, để đạt kế
hoạch, mục tiêu đã đề ra phải tiến hành kiểm tra, giám sát. kiểm tra, giám sát
là phương thức hành động quan trọng để thực hiện mục tiêu.
Lênin luôn coi công tác kiểm tra, kiểm soát (giám sát) là một công cụ
hữu hiệu và là một trong những nội dung lãnh đạo quan trọng đối với tổ chức
đảng, cơ quan nhà nước. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị đã đề ra thì
những người cộng sản phải nắm chắc công cụ kiểm tra, kiểm soát coi đó như
là: "những nhiệm vụ đã trở thành tự nhiên đối với những người xã hội chủ
nghĩa sau khi giành được chính quyền" [22, tr. 298]. Theo Lênin: Khi đường
lối, chính sách đã được xác định, phương hướng đã được thông qua thì nhiệm
vụ tổ chức thực hiện phải đặt lên hàng đầu và trọng tâm của sự lãnh đạo phải
chuyển "từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh sang việc chọn người và
kiểm tra sự thực hiện". Người đã nhấn mạnh:
Lựa chọn người, thiết lập chế độ trách nhiệm cá nhân đối
với công việc đang làm, kiểm tra công việc thực tế, mấu chốt của
toàn bộ công tác, của toàn bộ chính sách hiện nay là ở đấy, vẫn ở
đấy và chỉ có ở đấy. Nếu như các cán bộ lãnh đạo và các cơ quan
của Đảng và Nhà nước chỉ "bù đầu, bù tai" vào những công việc
vụn vặt, chìm đắm trong "cái biển" giấy tờ và cái vũng lầy chủ
nghĩa quan liêu mà quên mất nhiệm vụ trọng tâm: lựa chọn cán bộ,
kiểm tra, kiểm soát, phát triển kinh tế, thì tất cả mệnh lệnh và quyết
định chỉ là mớ giấy lộn [22, tr. 451].
22
Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật và giữ gìn kỷ luật của Đảng. Người đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý
luận của Lênin về công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng và trong quản lý
Nhà nước. Người cho rằng, mọi hành vi của con người đều vận động theo quy
luật khách quan vốn có, Người nói: Người đời không phải là thánh thần,
không ai tránh khỏi khuyết điểm. Nghĩa là dù có là vĩ nhân hay là người bình
thường trong xã hội khi đã làm việc thì không tránh khỏi có những lúc bản
thân đưa ra phán quyết, ứng xử sai sót, thậm chí sai lầm để lại hậu quả; Người
nói: Người đời ai cũng có khuyết điểm, có làm việc thì có sai lầm; Tuy nhiên
ở góc độ công tác kiểm tra, giám sát, Người khẳng định: "Có thể nói rằng:
chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự
kiểm tra" [25, tr. 1950]. Người đã khẳng định: "...Khi có chính sách đúng, thì
thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc,
nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách
đúng mấy cũng vô ích" [25, tr. 1954]. Người đã nhắc nhở: "Có kiểm tra mới
huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết
rõ năng lực và khuyết điểm của mỗi cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp
thời" [25, tr. 1956].
Mục đích công tác kiểm tra, giám sát là nhằm hoàn thiện quy trình
lãnh đạo của Đảng (bao gồm các khâu: ra quyết định, tổ chức thực hiện, kiểm
tra, giám sát); phát hiện người tốt, việc tốt; ngăn ngừa vi phạm, giữ gìn kỷ
luật của Đảng; góp phần thực hiện có kết quả cao nhất các nghị quyết đã đề
ra; xây dựng, củng cố tổ chức đảng, bộ máy nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội ngày càng trong sạch, vững mạnh. Có kiểm tra, giám sát mới biết rõ
cán bộ, nhân viên tốt hay xấu; mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ
quan; mới biết rõ tính đúng đắn, khả thi hay chưa phù hợp của các nghị quyết,
chỉ thị... Như vậy, kiểm tra, giám sát không chỉ giúp cho lãnh đạo nắm chắc
chất lượng đội ngũ cán bộ, ngăn ngừa khuyết điểm, sai lầm..., mà còn khơi
dậy được tính tích cực, sức mạnh to lớn của nhân dân, củng cố uy tín của
23
Đảng trước quần chúng. Kiểm tra, giám sát là phương tiện, là liều thuốc đặc
hiệu chống lại căn bệnh: "Nghị quyết một đằng, thi hành một nẻo" và bệnh
tham nhũng, quan liêu, giấy tờ...
Tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra của Đảng, ngày 29/7/1964, Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh:
Công việc của Đảng và Nhà nước ngày càng nhiều. Muốn
hoàn thành tốt mọi việc, thì toàn thể đảng viên và cán bộ phải chấp
hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng. Và muốn
như vậy thì các cấp ủy đảng phải tăng cường công tác kiểm tra. Vì
kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm
trọn trách nhiệm đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu
tốt đối với nhân dân [27, tr. 300].
1.2.1.2. Kỷ luật của Đảng
Thực tiễn đã chứng minh và khẳng định rằng, Đảng ta không thể nào
tồn tại, lãnh đạo nhân dân giành lấy chính quyền và giữ vững chính quyền nếu
không có kỷ luật nghiêm minh của Đảng. Cho nên từ khi thành lập cho đến
nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vấn đề kỷ luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: "Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như một
người. Đó là nhờ có kỷ luật" [26, tr. 553]. Chính vì có kỷ luật nghiêm minh
mà hơn 80 năm qua, Đảng ta đã đứng vững trước mọi thử thách hiểm nghèo
của cách mạng và lãnh đạo giành nhiều thắng lợi vẻ vang qua các thời kỳ.
Ngày nay, cách mạng nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, vừa có
nhiều cơ hội thuận lợi lớn, vừa có những thách thức, nguy cơ lớn. Sự nghiệp
cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn,
nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, tăng cường bản chất
giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng. Trước yêu cầu đó, vấn đề kỷ
luật của Đảng càng cực kỳ quan trọng, vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài, vừa
mang tính thời sự, cấp bách. Kỷ luật nghiêm minh mới bảo đảm cho đường
24
lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng được chấp hành triệt để, không bị
lệch hướng; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng mới được tăng cường.
Bắt nguồn từ bản chất giai cấp của Đảng, nên "Kỷ luật của Đảng là kỷ
luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác" [26, tr 553].
Nghiêm túc, là tất cả các tổ chức đảng và đảng viên đều phải phục
tùng kỷ luật của Đảng, phải chấp hành các nguyên tắc tổ chức của Đảng, đặc
biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; tổ chức đảng và đảng viên vi phạm đều
phải được xem xét, nếu cần thiết phải bị thi hành kỷ luật. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã yêu cầu: Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi, nhưng khi đã quyết
định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là bàn cách thi hành
cho được, cho nhanh; không phải để đề nghị không thực hiện. Đảng yêu cầu
mọi tổ chức và đảng viên phải chấp hành kỷ luật đảng vô điều kiện. Đảng
không giảm bớt yêu cầu đối với ai, không ai được coi là ngoại lệ. "Đảng viên,
cán bộ phải rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật, tự giác đặt mình trong sự quản lý
của chi bộ, tham gia đầy đủ sinh hoạt chi bộ, tuân thủ kỷ luật của Đảng.
Không để một đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức" [7, tr. 143].
Tự giác, là đặc trưng cơ bản của kỷ luật đảng. Vì Đảng ta bao gồm
những người thừa nhận và tự nguyện phấn đấu thực hiện Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, lấy việc phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, lợi ích của
Tổ quốc, của nhân dân làm lẽ sống của mình. Mọi đảng viên đều ý thức sâu
sắc rằng, giữ gìn kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự thống nhất ý chí và hành động
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình, nên dù trong lĩnh vực hoạt
động nào, trong điều kiện, hoàn cảnh nào, càng khó khăn, phức tạp, càng phải
đề cao tinh thần tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng.
Phương châm thi hành kỷ luật của Đảng thể hiện rõ quan điểm, chính
sách xử lý của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm. Điều 35,
Điều lệ Đảng quy định: "Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật phải xử
lý công minh, chính xác, kịp thời" [15, tr. 54].
25