Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG QUYỀN SANG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CƢỠNG CHẾ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐẶNG QUYỀN SANG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CƢỠNG CHẾ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn

Hà Nội – 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Đặng Quyền Sang


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các từ viết tắt

Trang

MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CƢỠNG CHẾ THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ

6


1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

6

1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

13

1.3. Điều kiện đảm bảo và tiêu chí đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

16

1.4. Căn cứ áp dụng pháp luật về cưỡng chế Thi hành án dân sự

19

1.5. Nguyên tắc áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

20

1.6. Quy trình, thủ tục áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án thi hành án dân sự

25

1.7. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở
việt nam hiện nay

30


1.8. Áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở một số quốc gia trên thế giới

38

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

41

CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

42

2.1. Kết quả đạt được trong thực tiễn áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

42

2.2. Những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế Thi hành án dân sự

47

2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở
Việt Nam hiện nay

69

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

77


CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ CỦA
HOẠT ĐỘNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

78

3.1. Phương hướng

78

3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự

80

KẾT LUẬN CHUNG

105


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
BLTTDS
CBCC
CHV
Luật HNGĐ
Luật THADS

Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
QSDĐ
TAND
THA

THADS
TPL
UBND
VKSND
XHCN

Bộ luật Dân sự
Bộ luật Tố tụng dân sự
Cán bộ, công chức
Chấp hành viên
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2015
Luật Thi hành án dân sự năm 2008
được sửa đổi, bổ sung một số điều năm
2014
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Thi hành án dân sự
Quyền sử dụng đất
Tòa án nhân dân
Thi hành án
Thi hành án dân sự
Thừa phát lại
Ủy ban nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân
Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Thi hành án dân sự là hoạt động đưa bản án, quyết định của tòa án, quyết định
của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, phán quyết của Trọng tài thương mại ra thi
hành trên thực tế. Một mặt, nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân, cá
nhân, tổ chức và nhà nước; Mặt khác, đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh của pháp
luật. Qua đó, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy hành chính nhà nước và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác thi hành án dân sự, trong giai đoạn
xây dựng và bảo vệ đất nước, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến hoạt
động xây dựng, hoàn thiện và áp dụng các văn bản về pháp luật THADS, trong đó
đáng chú ý là Luật THADS năm 2008 và Luật THADS được sửa đổi, bổ sung một số
điều năm 2014. Sự ra đời của Luật THADS đã tạo được hành lang pháp lý vững chắc
bảo đảm cho công tác THADS hoạt động hiệu quả.
Mặc dù vậy, sau một thời gian áp dụng trên thực tế, pháp luật về THADS đã
bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, nổi bật trong đó là những bất cập khi áp dụng
pháp luật về cưỡng chế THADS. Thực tiễn cho thấy: Việc áp dụng pháp luật về cưỡng
chế THADS hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, vẫn còn tình
trạng cưỡng chế kéo dài, cưỡng chế không đúng tài sản, không đúng quy định của
pháp luật gây gây bức xúc cho người dân, cho dư luận xã hội .
Ngoài ra, xét về phương diện xây dựng pháp luật, một số quy định của pháp
luật về cưỡng chế THADS chưa được xây dựng trên những cơ sở lý luận đúng đắn,
khoa học, còn có sự chồng chéo, chưa phù hợp với điều kiện thực tế. Vì vậy, còn gây
ra sự lúng túng cho người có thẩm quyền khi áp dụng.
Mặt khác, sự chống đối quyết liệt, thậm chí có trường hợp dùng tính mạng của
mình để đe dọa cản trở việc cưỡng chế vẫn luôn diễn ra khá phổ biến ở nhiều địa
phương trên cả nước, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị, xã hội.
Tất cả những vấn đề trên, làm cho hoạt động áp dụng pháp luật về cưỡng chế
THADS chưa phát huy hết hiệu quả, quyền lợi của các bên đương sự chưa được đảo

1



đảm, từ đó tạo ra dư luận không tốt và gây bức xúc trong nhân dân.
Trước thực tiễn đó đã đặt ra những đòi hỏi khách quan về việc cần có sự đầu tư
nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự,
cũng như những giải pháp nằng nâng cao hiệu quả của công tác này. Tuy nhiên, hiện
nay chưa có một công trình nghiên cứu nào tiếp cận chuyên sâu và tổng thể, cũng như
đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đối với vấn đề này. Xuất phát từ các lý
do nêu trên, là một Chấp hành viên đang công tác tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Nghệ An, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự” để làm đề tài của Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lý luận về nhà nước và
pháp luật tại Khoa Luật – Trường đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước đây đã có nhiều công trình nghiên cứu tiếp cận về cưỡng chế thi hành án
dân sự ở nhiều góc độ khác nhau thể hiện dưới dạng đề tài khoa học, luận án, luận văn,
sách, bài viết tạp chí… Mỗi công trình đều nêu ra được những vấn đề nhất định về
cưỡng chế thi hành án dân sự, nhưng chưa toàn diện, chưa xoáy sâu vào những hạn
chế hay chưa có nhiều giải pháp hữu hiệu. Việc nghiên cứu, tìm hiểu kỹ các quy định
của pháp luật và các công trình nghiên cứu có liên quan đến cưỡng chế thi hành án
dân sự đã tạo ra cho Luận văn có góc tiếp cận theo hướng chuyên sâu và tổng thể về
hoạt động áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và có thể khắc phục
được những hạn chế trong các công trình nghiên cứu trước. Trên cơ sở đó, góp phần
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc áp thực hiện cưỡng chế thi hành án dân
sự, đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Một số công trình nghiên cứu đã công bố:
- “Bất cập trong quy định về việc lập kế hoạch cưỡng chế Thi hành án dân sự”,
Hồ Quân Chính, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Hà Nội, số chuyên đề tháng 3/2014.
Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến khó khăn trong việc huy động lực lượng để
cưỡng chế theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Trên cơ
sở đó, tác giả cho rằng trước khi tổ chức cưỡng chế THADS mà có huy động lực
lượng thì CHV phải lập kế hoạch cưỡng chế; trừ trường hợp tổ chức cưỡng chế nhưng


2


không phải huy động lực lượng tham gia cưỡng chế thì CHV chỉ ra thông báo cưỡng
chế THA và quy định rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong trường hợp
phải cưỡng chế ngay và có huy động lực lượng.
- Bài viết: “Một số vấn đề lưu ý về cưỡng chế THADS” của tác giả Tuấn Lê,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề THADS, 2010. Trong bài viết này, tác giả
chỉ ra một số lưu ý trong đối với trình tự, thủ tục kê biên như: Điều kiện, lập kế khoạch
cưỡng chế, những trường hợp không được cưỡng chế và Thông báo cưỡng chế…
- Đặc san: “Cưỡng chế THADS; khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo
về THADS theo quy định của Luật THADS năm 2008”, của ThS. Lê Anh Tuấn và
ThS. Bùi Công Quang trên đặc san tuyên truyền pháp luật số 6/20009, Hội đồng phối
hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ. Trong đặc san này, các quy
định về cưỡng chế THADS được phân tích tương đối toàn diện, đầy đủ.
- “Giáo trình Kỹ năng THADS” gồm 02 tập, tập 1: Phần nghiệp vụ, và tập 2:
Phần chung, do Tiến sỹ Lê Thu Hà (chủ biên), Học viên Tư pháp xuất bản năm 2012.
Công trình này phân tích đầy đủ các góc độ của biện pháp cưỡng chế trên cơ sở đưa ra
khái niệm và sự phân tích tỷ mỉ từng biện pháp cưỡng chế với những trình tự, thủ tục
theo quy định của pháp luật. - “Một số vướng mắc trong phối hợp thực hiện quy định
về cưỡng chế trả giấy tờ” của ThS. Lê Thị Duyên, kiến nghị Tòa án có thẩm quyền thụ
lý đơn khởi kiện của người dân về tranh chấp dân sự liên quan đến giấy chứng nhận
quyền sở hữu tài sản khi có yêu cầu của người dân, cơ quan, tổ chức;
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các đối tượng sau:
- Các vấn đề lý luận về cưỡng chế Thi hành án dân sự, cụ thể: Khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa, nguyên tắc, các yếu tố ảnh hưởng và tiêu chí đánh giá hiệu quả cưỡng
chế.

- Các quy định cuả pháp luật Việt nam hiện hành về cưỡng chế thi hành án dân
sự, bao gồm: Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật.
- Thực trạng và kết quả áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS tại Việt Nam

3


giai đoạn từ năm 2009 đến 2016.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào một số vấn đề lý luận về cưỡng chế THADS và thực
tiễn áp dụng pháp luật tại Việt Nam từ năm 2009 đến 2016 với các nội dung chính sau:

- Nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa; cơ sở hoa học của việc xây
dựng các quy định pháp luật về cưỡng chế THADS; các yếu tố ảnh hưởng và
tiêu chí đánh giá hiệu quả cưỡng chế THADS; các nguyên tắc cưỡng chế.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành ở Việt Nam về cưỡng
chế THADS.
- Nhận xét, đánh giá toàn diện đối với thực trạng áp dụng pháp luật về
cưỡng chế THADS. Trong đó, tập trung nêu rõ những hạn chế, tồn tại và đề xuất
các giải pháp để nâng cao chất lượng của việc áp dụng pháp luật về cưỡng chế
THADS.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn hướng đến mục đích:
- Làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành đối với việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án
- Chỉ ra các bất cập, những khó khăn vướng mắc khi áp dụng các biện pháp
cưỡng chế Thi hành án theo quy định của pháp luật;
- Đưa ra những giải pháp hiệu quả để khắc phụ những bất cập, những khó khăn
vướng mắc đã nêu. Trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật

hiện hành.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn hướng tới việc thực hiện các
nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về cưỡng chế Thi hành án dân sự;
Hai là, Phân tích, đối chiếu với lý luận để đánh giá thực trạng các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành về cưỡng chế Thi hành án dân sự và khảo sát, đánh giá

4


thực tiễn thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS. Trên cơ sở đó, chỉ ra những
vướng mắc, bất cập cũng như xác định các nguyên nhân để làm cơ sở cho việc đề xuất
các giải pháp hữu hiệu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Để làm rõ thực trạng công tác áp dụng pháp luật về cưỡng chế Thi hành án dân
sự, trong Luận văn, tác giả đã áp dụng một số phương pháp nghiên cứu, như: Phương
pháp phân tích, chứng minh, so sánh, phương pháp quy nạp, diễn dịch, diễn giải và
phương pháp nghiên cứu xã hội học.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Luận văn có những ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
- Tổng hợp, phân tích và sắp xếp, hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về
cưỡng chế Thi hành án dân sự như: khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, vai trò và ý
nghĩa của việc pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự… Từ đó, giúp cho người đọc
có thể hiểu rõ, đánh giá chính xác bức tranh về việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự;
- Đưa ra những phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tại Việt Nam, phù hợp với yêu cầu về xây
dựng nhà nước pháp quyền và đường lối đổi mới được Đảng và nhà nước đề ra.
7. Kết cấu của Luận văn

Luận văn có kết cấu thành ba phần gồm lời mở đầu, phần nội dung và kết luận.
Riêng phần nội dung chính được trình bày thành 03 chương như sau:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận chung về áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự.
Chƣơng 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay.
Chƣơng 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt
động áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.

5


CHƢƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
VỀ CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của áp dụng pháp luật về cƣỡng chế
thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật về cƣỡng chế thi hành án dân sự
1.1.1.1.Khái niệm Thi hành án và Thi hành án dân sự
Hiện nay, khoa học pháp lý ở Việt Nam chưa có định nghĩa cụ thể thế nào là
Thi hành án và Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, qua việc nghiên cứu một vài tài liệu
chuyên khảo cho thấy, đa số các học giả đều cho rằng: “Thi hành án là quá trình đưa
pháp luật của nhà nước ra thi hành trên thực tế và do một cơ quan hoặc cá nhân được
nhà nước trao quyền thực hiện”.
Theo hướng tiếp cận đó, hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm thi hành án dân sự. Quan điểm thứ nhất cho rằng: THADS là hoạt động tố tụng.
Vì: "Có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của của công tác xét
xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương
sự" [19, tr43].
Quan điểm thứ hai cho rằng: THADS không phải là hoạt động tố tụng, bởi thi

hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng, Thi hành án là quá trình tiến hành các
hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Do đó, Thi hành án mang bản chất của hoạt động hành chính – tư pháp. [20,tr1]
Nhìn chung, các quan điểm nêu trên mặc dù chưa lột tả được toàn diện về thuật
ngữ THA dân sự, song đều được xây dựng trên những cơ sở khoa học riêng, có sự đầu
tư và nghiên cứu nghiêm túc. Tuy nhiên, để làm rõ thuật ngữ này, theo tác giả chúng ta
cần hiểu rõ mục đích, ý nghĩa vai trò của THA, trên cơ sở đó đưa ra khái niệm phù hợp
với thực tiễn và phản ánh toàn diện, đầy đủ về hoạt động này.
Mục đích của THADS là đưa bản án, quyết định của tòa án và các cơ quan có
thẩm quyền khác ra thi hành trên thực tế. Ý nghĩa của THA là đảm bảo quyền lợi ích
hợp pháp của người dân, cá nhân, tố chức và nhà nước. Đồng thời đảm bảo tính công

6


bằng, nghiêm minh của pháp luật. Và cao hơn nữa là ổn định trật tự chính trị - xã hội,
làm cơ sở để xây dựng và phát triển kinh tế quốc gia. Xuất phát từ đó, chúng ta không
nhất thiết phải coi THA là hoạt động tố tụng, hay là hoạt động tư pháp hoặc là hoạt
động hành chính – tư pháp. Bởi thực chất nếu nó là hoạt động gì đi nữa thì mục đích, ý
nghĩa của nó mang lại chỉ có một. Chính vì vậy chúng ta cần hiểu một cách đơn giản
nhất về khái niện này như sau: Thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan, tổ chức
được nhà nước trao quyền để thực hiện hoạt động đưa bản án, quyết định của Tòa án
hay của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác ra thi hành trên thực tế, đảm bảo
quyền, lợi ích cho cá nhân, cơ quan, tổ chức và nhà nước, được pháp luật bảo vệ.
1.1.1.2. Khái niệm biện pháp cƣỡng chế thi hành án dân sự và áp dụng
pháp luật về cƣỡng chế thi hành án dân sự
Qua nghiên cứu, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau định nghĩa về thuật
ngữ cưỡng chế. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản
thanh niên ấn hành năm 2001 “cưỡng chế là dùng quyền lực nhà nước bắt buộc người
khác phải tuân theo”[30,tr196]. Theo cuốn Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ

điển bách khoa ấn hành năm 1999 thì cưỡng chế được giải thích là “những biện pháp
bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện và phục tùng mệnh lệnh nhất định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền”[31,tr323]. Theo cuốn Đại Từ điển tiếng Việt do tác giả
Nguyễn Như Ý (chủ biên), Trung tâm Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Bộ Giáo dục
và Đào tạo do Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành năm 1998 thì cưỡng chế là “
bắt buộc phải tuân theo bằng sức mạnh quyền lực: tính chất cưỡng chế của pháp luật
” [38, tr499].
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm của thuật ngữ “Cưỡng chế”
nhưng suy cho cùng: Cưỡng chế Nhà nước là cách sử dụng quyền lực nhà nước bắt
buộc cá nhân, tổ chức thực hiện hoặc không thực hiên một công việc nhất định trái với
ý muốn của họ.
Hiện nay, pháp luật về THADS chưa có định nghĩa về khái niệm cưỡng chế
THADS mà chỉ có các quy định về đối tượng cưỡng chế, điều kiện cưỡng chế và cách
thức thực hiện các biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định đó,

7


tác giả cho rằng: Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cuối cùng của hoạt động
thi hành án dân sự, do Chấp hành viên hoặc Thừa phát lại thực hiện, nhằm buộc
người phải THA, người có nghĩa vụ liên quan phải thực hiện những hành vi hoặc
nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, được áp dụng trong
trường hợp người phải THA có điều kiện thi hành nhưng không tự nguyện thi hành
trong thời hạn ấn định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn sự tẩu tán, hủy họa tài
sản.
Thực tế cho thấy, hiệu quả cưỡng chế THADS phụ thuộc rất nhiều vào việc áp
dụng pháp luật về cưỡng chế THADS. Thế nhưng, áp dụng pháp luật về cưỡng chế
THADS là gì? là như thế nào? thì đến nay vẫn chưa có tác giả nào đưa ra một câu trả
lời cụ thể.
Theo lý luận Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật thì áp dụng pháp luật là

một trong những hình thức quan trọng của việc thực hiện pháp luật. Đó chính là hoạt
động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện,
tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể thực hiện được quyền và nghĩa vụ pháp lý của
mình theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể khái quát khái niệm
áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS như sau: Áp dụng pháp luật về cưỡng chế
THADS là hình thức thực hiện các quy định của pháp luật về cưỡng chế THADS, do
chủ thể là CHV hoặc TPL tiến hành bằng cách ban hành các quyết định cưỡng chế thi
hành án dân sự và tổ chức thi hành quyết định đó để buộc người phải THA, người
được THA, những cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan phải thực hiện hoặc không
được thực hiện hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Trên cơ sở đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ về tài sản, về
dân sự của người phải THA, người được THA, những cá nhân, cơ quan, tổ chức liên
quan.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật về cƣỡng chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế THADS là một loại hình cưỡng chế do các cá nhân được nhà nước
giao quyền thực hiện, vì vậy nó vừa mang những đặc điểm chung và những đặc điểm
riêng như sau:

8


1.1.2.1. Áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự hướng đến
nhiều chủ thể khác nhau:
Kết quả nghiên cứu cho thấy, áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS hướng
đến các loại chủ thể như sau: Thứ nhất là chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật về
cưỡng chế THADS; Thứ hai là những chủ thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Theo quy định của Luật THADS và Nghị quyết số 107/2015/NQ-QH ngày
26/11/2015 của Quốc hội về thực hiện chế định TPL thì chủ thể có thẩm quyền áp
dụng biện pháp cưỡng chế THADS là CHV của cơ quan THADS và TPL của Văn
phòng TPL. Khi áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS, CHV và TPL được ban

hành quyết định cưỡng chế và tổ chức thực hiện quyết định đó. Đây là một điểm khác
biệt cơ bản giữa áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS và áp dụng pháp luật khác
như: Luật THA Hình sự, Luật Tố tụng Hành chính….Bởi, chủ thể có thẩm quyền ban
hành và thực hiện quyết định cưỡng chế hình sự hay cưỡng chế hành chính là những
người có chức vụ, có quyền quản lý, lãnh đạo trong các cơ quan có thẩm quyền, những
người đó thường là: Thủ trưởng cơ quan, Chủ tịch UBND các cấp... Tuy nhiên, đối với
áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS, chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể là
những người trong biên chế của cơ quan nhà nước (CHV cơ quan THADS), nhưng
cũng là những người ở các doanh nghiệp tư nhân (Văn phòng Thừa phát lại).
Ngoài ra, sự khác biệt giữa áp dụng pháp luật về THADS với các hình thức áp
dụng pháp luật khác… còn được biểu hiện ở chủ thể (đối tượng) bị áp dụng cưỡng chế.
Theo quy định của pháp luật về THADS đối tượng chủ yếu bị cưỡng chế THADS là
người phải THA (Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện
nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành[2, khoản 3 Điều 3]), tuy nhiên trong
một số trường hợp cụ thể đối tượng bị cưỡng chế còn được mở rộng đến các đối tượng
khác, gồm:
Một là, người đang giữ tài sản, giấy tờ của người phải THA, gồm: Người thứ ba
đang giữ tài sản của người phải THA (Điều 91, Luật THADS) hoặc người thứ ba đang
giữ giấy tờ phải giao, trả của người phải THA được xác định trong khoản 1, Điều 116,
Luật THADS.

9


Hai là, người được THA. Đây là chủ thể đặc biệt được pháp luật bảo vệ về
quyền tài sản, quyền nhân thân và trách nhiệm cơ quan thi hành án dân sự là phải thi
hành theo yêu cầu thi hành án của họ. Nhưng không vì thế, đối tượng này không bị
cưỡng chế thi hành án mà ngược lại thì: “Người được thi hành án không nộp phí thi
hành án thì cơ quan thu phí có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng
chế để thu phí thi hành án, kể cả việc bán đấu giá tài sản đã giao cho người được thi

hành án để bảo đảm thu hồi tiền phí thi hành án. Chi phí định giá, bán đấu giá tài sản
để thu phí do người được thi hành án chịu”[7, khoản 4 Điều 45].
Như vậy, so với Luật THA Hình sự, Luật Đất đai, Luật thuế…., đối tượng bị
cưỡng chế là cá nhân, pháp nhân cụ thể, như: Luật Thuế chỉ cưỡng chế đối với cá nhân
kinh doanh và doanh nghiệp nợ thuế, Luật THAHS chỉ cưỡng chế đối với người vi
phạm Luật hình sự; Luật đất đai cưỡng chế đối với đối tượng vi phạm về đất đai, thì
đối tượng đối tượng bị cưỡng chế THADS đa dạng hơn.
1.1.2.2. Áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là nhiệm vụ
chung của hệ thống chính trị, bắt buộc các cơ quan, ban ngành có liên quan phải
tham gia phối hợp và hỗ trợ.
Việc cưỡng chế THADS được thực hiện khi và chỉ khi có căn cứ cho rằng đối
tượng phải thi hành án có điều kiện THA nhưng không tự nguyện thi hành và cố tình
chống đối, chây ỳ việc thực thi nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật. Xuất phát từ sự chống đối của người phải THA, việc tổ chức cưỡng
chế THADS đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều cơ quan, ban ngành liên quan, một
mặt nhằm ngăn chặn các hành vi chống đối quyết liệt có thể xẩy ra làm ảnh hưởng đến
tính mạng, sức khỏe và tài sản của họ cũng như của những người tham gia cưỡng chế;
mặt khác tạo nên tính khách quan, minh bạch theo đúng quy định của pháp luật.
Khi tổ chức cưỡng chế, tùy theo tính chất, mức độ chống đối của người phải
THA và những người xung quanh; tùy theo hình thức cưỡng chế áp dụng mà mà đề
nghị các cơ quan tổ chức nhà nước có liên quan tham gia, phối hợp cưỡng chế phù
hợp, cụ thể:
Đối với cưỡng chế quyền sử dụng đất, nhà ở, cưỡng chế giao con có tính chất

10


phúc tạp, có khả năng chống đối quyết liệt thì bắt buộc có sự tham gia của nhiều cơ
quan như: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; Cơ quan công an; Ủy ban nhân
dân xã phường, thị trấn và đại diện khối, xóm, bản nơi tổ chưc cưỡng chế nơi tổ chức

cưỡng chế; Đại diện UBND huyện; Bệnh viện; Đại diện cơ quan báo chí hoặc đài phát
thanh, truyền hình…
Đối với việc cưỡng chế khấu trừ tài khoản, cưỡng chế khấu trừ thu nhập, cưỡng
chế buộc nhận lao động trở lại làm việc…vv… là những hình thức cưỡng chế ít khi
phải huy động lực lượng, do đó tùy theo loại hình mà có sự tham gia phối hợp của các
cơ quan liên quan như: Ngân hàng, Bảo hiệm xã hội, doanh nghiệp, công an và viện
kiểm sát…
Như vậy, so với những hình thức cưỡng chế hành chính khác, như: cưỡng chế
giải phóng mặt bằng, cưỡng chế giải tỏa hành lang giao thông… cưỡng chế THADS
cũng đòi hỏi lực lượng tham gia đông đảo, đầy đủ… Tuy nhiên, khác với các hình thức
cưỡng chế trên, không phải bất cứ lúc nào cưỡng chế THADS cũng phải huy động lực
lượng tham gia đông. Ngoài ra, cưỡng chế THADS dù áp dụng hình thức nào cũng
luôn chịu sự giám sát chặt chẽ của VKSND cùng cấp theo đúng quy định của Luật
kiểm sát nhân dân.
1.1.2.3. Áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện tính
quyền lực của nhà nước
Cũng như các hình thức áp dụng pháp luật về cưỡng chế hành chính, cưỡng chế
hình sự, áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS thể hiện đặc điểm của quyền lực Nhà
nước. Quyền lực nhà nước trong cưỡng chế THADS được trao cho chủ thể là cá nhân
có thẩm quyền thực hiện, nhằm buộc các tổ chức, cá nhân khác phải tôn trọng và phối
hợp thực hiện đảm bảo hiệu quả cưỡng chế. Kể cả việc huy động lực lượng công an
khi tổ chức cưỡng chế nhằm trấn áp những cá nhân có hành vi cản trở, chống đối làm
ảnh hưởng tài sản, tính mạng người tham gia cưỡng chế THADS.
1.1.2.4. Áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được thực hiện
thông qua nhiều biện pháp cưỡng chế THADS khác nhau
Do tài sản, đối tượng bị cưỡng chế rất đa dạng nên yêu cầu phải có các biện

11



pháp cưỡng chế đa dạng phù hợp với từng chủ thể bị cưỡng chế. Hiện nay, theo pháp
luật về THADS có các biện pháp cưỡng chế như: khấu trừ tiền trong tài khoản; thu
hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; Trừ vào thu nhập của người
phải thi hành án; Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang
do người thứ ba giữ; Khai thác tài sản của người phải thi hành án. Buộc chuyển giao
vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ; Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc
không được thực hiện công việc nhất định. Trong khi đó, áp dụng pháp luật về cưỡng
chế hình sự, cưỡng chế hành chính … chỉ có một biện pháp cưỡng chế duy nhất. Sự đa
dạng hóa các biện pháp cưỡng chế THADS đã tạo nên nét riêng đặc sắc của việc áp
dụng pháp luật về cưỡng chế THADS.
1.1.2.5. Áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp ép
buộc nhưng mang tính nhân văn
Tính nhân văn của hoạt động áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS được biểu
hiện trên các phương diện sau:
Một là, khi cưỡng chế đối với một số tài sản đặc thù, người thực hiện việc cưỡng
chế phải trích lại một phần giá trị tài sản để đảm bảo cuộc sống tối thiếu cho người bị
cưỡng chế. Vấn đề này được Luật THADS quy định đối với việc cưỡng chế: trừ vào
thu nhập (Khoản 3, Điều 78 Luật THADS); Khi kê biên hoa lợi là lương thực, thực
phẩm (Điều 97, Luật THADS); giao tài sản là nhà ở duy nhất (khoản 5, Điều 115 Luật
THADS); Thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải THA (Điều 79 Luật
THADS).
Hai là, không được tổ chức cưỡng chế trong một số thời điểm nhạy cảm, như:
thời điểm gần tết, những ngày lễ lớn, những ngày nghỉ và khoảng thời gian nghỉ ngơi
ban đêm của công dân. (khoản 2 Điều 46 Luật THADS)
Ba là, không được kê biên tài sản của người được thi hành án dùng để phục vụ
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày hoặc phục vụ lợi ích cộng đồng, xã hội, như quy định
tại khoản 2, khoản 3, Điều 87 Luật THADS
Bốn là, trước thời điểm khi tiến hành kê biên hoặc trước thời điểm bán đấu giá
tài sản bị cưỡng chế, đương sự vẫn có quyền thỏa thuận. Tuy nhiên, thỏa thuận đó


12


không được trái với quy định của pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội.
Năm là, không thực hiện cưỡng chế THADS trong trường hợp: Người phải bị
cưỡng chế bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; bị mất hoặc bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án [2, khoản 1 Điều ].
Có thể nói,so với các ngành luật khác, tính nhân văn của pháp luật về cưỡng
chế THADS là sự kết tinh nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp của tình người và đạo lý pháp
luật. Nhờ đó, dù cưỡng chế THADS là biện pháp ép buộc nhưng vẫn đảm bảo quyền
sống, quyền mưu cầu hạnh phúc cho người phải THA.
1.1.3. Ý nghĩa của việc áp dụng pháp luật về cƣỡng chế thi hành án dân sự
Việc áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong trong thực tiễn cuộc sống. Cụ thể:
- Áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS góp phần bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, công dân, cơ quan, tổ chức và đảm bảo pháp chế XHCN;
- Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về
THADS nói riêng, hệ thống pháp luật nói chung.
- Áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS có ý nghĩa trong việc xây dựng tính
ổn định về tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tạo tiền đề để phát triển
kinh tế quốc gia.
1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc áp dụng pháp luật về cƣỡng chế thi
hành án dân sự
Hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về THADS phụ thuộc rất nhiều vào các
yếu tố chủ quan, khách quan khác nhau như:
1.2.1. Năng lực tổ chức thi hành án của người có thẩm quyền – Yếu tố chủ
quan ảnh hưởng lớn đến hiệu quả áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân
sự
Theo quy định của pháp luật, người có thẩm quyền tổ chức cưỡng chế THADS
là CHV và TPL. Vì vậy, chất lượng, hiệu quả cưỡng chế THADS phụ thuộc vào chính

năng lực tổ chức cưỡng chế THADS của họ.
Năng lực tổ chức cưỡng chế THADS của CHV, TPL được thể hiện ở khả năng

13


về kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, bản lĩnh, nhân cách và đạo đức nghề nghiệp.... Do
đó, để đảm bảo năng lực tổ chức cưỡng chế THADS đòi hỏi CHV, TPL không những
phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư tưởng, đạo đức tốt và có lối sống lành mạnh.
Ngoài ra còn phải có năng lực, trình độ chuyên môn chắc chắn, được đào tạo, bồi
dưỡng bài bản, có kinh nghiệm thực tiễn; kịp thời cập nhật thông tin, tri thức; tích cự
bổ sung các kinh nghiệm, giải pháp để thực hiện tốt công tác THADS, trong đó có việc
áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS.
1.2.2. Những yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật
về cưỡng chế thi hành án dân sự
1.2.2.1. Công tác phối hợp – yếu tố quyết định sự thành công trong cƣỡng
chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế THADS không phải đơn thuần là hoạt động được thực hiện chỉ bởi
một mình cơ quan THADS, mà là sự phối kết hợp nhuần nhuyễn giữa các cơ quan ban
ngành hữu quan như: VKSND, Cơ quan công an, UBND các cấp, các đơn vị khác có
liên quan… Thực tế cho thấy, tùy theo đặc thù công tác mà mỗi cơ quan, ban ngành
tham gia vào hoạt động cưỡng chế với vai trò khác nhau, nếu thiếu một hoặc một vài
cơ quan thì hiệu quả quả cưỡng chế bị ảnh hưởng không nhỏ, thậm chí có thể thất bại.
Ví dụ: Cơ quan công an có trách nhiệm bảo đảm an toàn cho đoàn cưỡng chế và tài
sản cưỡng chế, đồng thời kịp thời ngăn cản các hành vi chống đối gây ảnh hưởng đến
công tác cưỡng chế. Do đó, trong trường hợp cưỡng chế cần huy động lực lượng mà
thiếu sự phối hợp của đơn vị này thì không thể thực hiện cưỡng chế được. Hay như,
khi tổ chức cưỡng chế THADS, UBND cấp xã vừa đóng vai trò chứng kiến nhưng
cũng đồng thời là lực lượng quan trọng để giải thích, vận động người dân không gây
cản trở cho việc cưỡng chế. Do đó, nếu không có sự có mặt của đại diện UBND cấp xã

thì công tác cưỡng chế THADS gặp vô vàn khó khăn và có thể thất bại do không đủ
thành phần tham gia theo quy định của pháp luật.
Vì vậy, thực hiện tốt công tác phối hợp chính là cách để tranh thủ sự đồng tình
từ phía các cơ quan, tổ chức tạo móc xích liên kết để nâng cao hiệu quả công tác áp
dụng pháp luật về cưỡng chế THADS.

14


1.2.2. 2. Yếu tố xã hội
Thành công của biện pháp cưỡng chế THADS phụ thuộc rất nhiều vào các yếu
tố xã hội như: Trình độ dân trí, ý thức pháp luật, phong tục tập quán và điều kiện kinh
tế.
*Trình độ dân trí của cộng đồng dân cư
Trình độ dân trí là thước đo của sự phát triển của một xã hội nói chung và một
cộng đồng dân cư nói riêng. Dân trí thấp thì xã hội không phát triển, nhận thức của
người dân không cao, cuộc sống khó khăn, kinh tế lạc hậu và ngược lại. Trong
THADS, nếu đương sự có trình độ dân trí cao, đồng nghĩa với việc có nhận thức pháp
luật đầy đủ, đúng đắn, do đó thi thi hành án họ sẽ tích cực phối hợp tốt, trường hợp
nếu phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thì họ chỉ chống đối trong chừng mực nhất định
và không có dấu hiệu quá khích. Ngoài ra, đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan, nếu trình độ dân trí, nhận thức pháp luật cao thì khi được yêu cầu, đề nghị
phối hợp, hỗ trợ công tác cưỡng chế THA thì họ tham gia tích cực, nhiệt tình. Ngược
lại nếu không có nhận thức pháp luật đầy đủ, họ sẽ tạo ra những cản trở khách quan
cho việc cưỡng chế THADS. Thực tiễn có nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền vì nhận thức pháp luật chưa đầy đủ nên cố tình trì hoãn, không phối
hợp trong việc thực hiện cưỡng chế, thậm chí có trường hợp còn ban hành văn bản
không đúng quy định pháp luật để yêu cầu hoãn, tạm dừng việc cưỡng chế ngay trước
thời điểm tổ chức cưỡng chế THADS.
* Phong tục tập quán

Cưỡng chế THADS ngoài việc phải tuân thủ đúng quy trình, thủ tục do pháp
luật quy định thì phải luôn chú ý đến phong tục tập quán. Bởi Việt Nam là một trong
những quốc gia tôn trọng các phong tục, tập quán và truyền thống dân tộc. Do đó, khi
thực hiện cưỡng chế THADS nếu không tính đến vấn đề này thì sẽ mang lại kết quả
không mong muốn. Ngoài ra, khi thực hiện cưỡng chế THADS còn phải tính đến đặc
thù văn hóa dân tộc, tôn giáo của chủ thể bị cưỡng chế.
Việc tôn trọng những yếu tố phong tục, tập quán chính là tôn trọng nét đẹp văn
hóa. Có như vậy, chúng ta mới có sự cân nhắc khi áp dụng pháp luật về cưỡng chế

15


THADS nhằm hạn chế mức thấp nhất phản ứng tiêu cực, thậm chí là sự chống đối của
người phải THA hay cộng đồng dân cư.
* Điều kiện kinh tế - xã hội
Điều kiện kinh tế, xã hội là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc áp dụng pháp
luật về thi hành án dân sự. Thực tế chứng minh: Kinh tế, xã hội phát triển thì việc áp
dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự càng thuận lợi, bởi lúc đó cuộc sống
về vật chất và tinh thần của người dân được đảm bảo, ý thức chấp hành pháp luật vì
vậy được nâng cao. Nếu kinh tế - xã hội kém phát triển thì cuộc sống vật chất và tinh
thần của người dân sẽ khó khăn, nhận thức pháp luật bị hạn chế. Do đó, thường gây
nên sự căng thẳng, sự khó chịu và biểu hiện sự phản kháng đối với việc THADS. Đặc
biệt, khi người phải THADS gặp khó khăn về kinh tế thì họ không có đủ điều kiện để
THA nên khi tiến hành cường chế, nhất là cưỡng chế tài sản duy nhất (nhà, đất,
phương tiện..) sẽ hết sức khó khăn, phức tạp, khả năng chống đối rất cao.
Xét về góc độ điều kiện kinh tế của quốc gia cho thấy: Ở các nước phát triển
luôn có sự minh bạch, rõ ràng về tài sản và quyền sở hữu tài sản do đó thực hiện
cưỡng chế một cách thuận lợi. Ngược lại, với các nước có nền kinh tế chưa phát triển
hay kinh tế chậm phát triển thì công tác quản lý tài sản cá nhân, tổ chức thiếu sự chặt
chẽ, không tách bạch rõ rang về quyền sở hữu tài sản. Do đó, khi áp dụng pháp luật về

cưỡng chế THADS gặp nhiều khó khăn nhất là sự phân định tài sản chung, riêng của
người phải THA.
1.3. Điều kiện đảm bảo và tiêu chí đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật về
cƣỡng chế thi hành án dân sự
1.3.1. Điều kiện đảm bảo tính hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về cưỡng
chế thi hành án dân sự
Để đảm bảo tính hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS vào
thực tế, đòi hỏi phải có những điều kiện như sau:
Thứ nhất, các quy định của pháp luật về cưỡng chế THADS phải rõ ràng, minh
bạch và phù hợp với thực tiễn cuộc sống cũng như đảm bảo tính tương thích, thống
nhất với hệ thống pháp luật liên quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người có thẩm

16


quyền áp dụng một cách dễ dàng.
Thứ hai là, công tác phối hợp cưỡng chế THADS phải phát huy được hiệu quả.
Thực tế cho thấy, sự thành công của việc áp dụng cưỡng chế THADS phụ thuộc rất
lớn vào công tác phối hợp. Nếu phối hợp tốt thì công tác cưỡng chế thuận lợi, nếu
công tác phối hợp không tốt, các cơ quan, ban ngành liên quan không hỗ trợ, không
phối hợp thì hiệu quả, mục đích của công tác cưỡng chế không thực hiện được.
Thứ ba là, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế phải là người có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức tốt. Có
như vậy, khi áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS mới đảm bảo được tính khách
quan, công bằng và minh bạch.
Thứ tư là, công tác tuyên truyền, vận động thuyết phục người phải THA tự
nguyện thi hành phải thường xuyên được chú trọng, không vội vàng tiến hành cưỡng
chế khi chưa thực hiện tốt công tác này.
1.3.2. Những tiêu chí đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật về cưỡng chế Thi
hành án dân sự

Việc đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật về THADS được thể hiện thông qua
các tiêu chí sau:
1.3.2.1. Tiêu chí về mặt kinh tế
Như chúng ta đã biết, tất cả các cuộc cưỡng chế THADS, ít nhiều đều gây ra
tổn thất về mặt kinh tế đối với chủ thể tổ chức cưỡng chế, cũng như chủ thể bị cưỡng
chế. Thực tế chứng minh, càng có nhiều cá nhân, cơ quan – tổ chức tham gia cưỡng
chế THADS thì chi phí tổ chức cưỡng chế càng lớn và thời gian tổ chức cưỡng chế
phải kéo dài; Ngược lại, cuộc cưỡng chế nào càng ít thành phần tham gia thì càng
thuận lợi, không mất nhiều thời gian và chi phí cưỡng chế thấp. Do đó, việc thực hiện
cưỡng chế mà không tạo ra tổn thất lớn về mặt kinh tế cho các chủ thể tham gia thì
hiệu quả cưỡng chế thu được càng lớn. Chính vì vậy, yếu tố kinh tế là một trong những
tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả việc áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS.
1..3.2.2. Tiêu chí về số lượng và tỷ lệ các vụ việc cưỡng chế thành công
Cưỡng chế THADS có mục đích đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho các cá

17


nhân, cơ quan, tổ chức, mặt khác thông qua đó đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh
của pháp luật. Do đó, số lượng các vụ việc cưỡng chế thành công càng lớn thì hiệu
quả áp dụng pháp luật về cưỡng chế càng cao, uy tín và vị thế của cơ quan THADS
được củng cố. Và ngược lại, càng nhiều vụ việc cưỡng chế không thành công thì
chứng tỏ mục đích cưỡng chế không đạt được, quyền lợi ích của cá nhân, cơ quan tổ
chức không được đảm bảo, công lý không được thực thi. Chính vì vậy, số lượng và tỷ
lệ các vụ cưỡng chế thành công chính là thước đo chính xác phản ảnh tính hiệu quả
của công tác áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS trên thực tế.
1.3.2.3. Chất lượng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
Thực tế hoạt động cưỡng chế thi hành án cho thấy, nếu các quy định của pháp
luật về cưỡng chế THADS càng rõ ràng, cụ thể và khoa học thì dẫn đến sự áp dụng dễ
dàng và thuận tiện. Ngược lại, nếu pháp luật về cưỡng chế THADS chứa đựng các quy

định thiếu rõ ràng, không mang tính tiên lượng các tình huống xẩy ra thì việc áp dụng
vào thực tế gặp muôn vàn khó khăn. Chính vì vậy, sự minh bạch, rõ ràng của pháp luật
về cưỡng chế THADS là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến kết quả cưỡng chế THADS.
Theo tác giả Lê Anh Tuấn ở bài viết: “Tiêu chí nào đánh giá hiệu quả cưỡng chế thi
hành án dân sự”, ngày 27/02/2017 trên cổng thông tin điện tử Tổng cục THADS đã
bình luận:
“Chất lượng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự không phụ thuộc vào
số lượng văn bản quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nhiều hay ít
mà chính là nội dung các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có chất
lượng hay không, đã đầy đủ chưa, có phù hợp với thực tiễn và dễ nhận thức, thực hiện
trong thực tiễn hay không. Hình thức, số lượng văn bản cũng như số lượng quy phạm
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở mức độ nhất định nhưng chứa đựng đầy
đủ nội dung điều chỉnh về cưỡng chế thi hành án dân sự, khoa học, rõ ràng, dễ thực
hiện và chi phí bỏ ra ít thì cưỡng chế thi hành án dân sự thành công, đạt hiệu quả cao.
Quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nằm rải rác ở nhiều văn bản,
hình thức văn bản quy phạm pháp luật không cao, quy định không rõ ràng, mâu thuẫn,
chồng chéo sẽ dẫn đến khó khăn trong nhận thức và thực hiện, rất dễ sai sót, vi phạm

18


trong cưỡng chế thi hành án dân sự”[18].
1.4. Căn cứ áp dụng pháp luật về cƣỡng chế Thi hành án dân sự
Cưỡng chế THADS là biện pháp làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt mối
quan hệ về tài sản, về dân sự của người phải THA, người được THA, những cá nhân,
cơ quan, tổ chức liên quan. Vì vậy, khi áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS bắt
buộc người có thẩm quyền áp dụng phải có đủ các căn cứ sau:
1.4.1. Căn cứ pháp lý
Căn cứ pháp lý để áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS là căn cứ do pháp
luật định ra và bắt buộc phải có. Theo quy định tại Điều 70, Luật THADS thì căn cứ

pháp lý để áp dụng biện pháp cưỡng chế gồm: Bản án, quyết định; Quyết định thi hành
án; Quyết định cưỡng chế thi hành án.
1.4.1.1. Bản án, quyết định
Bản án, quyết định được đưa ra thi hành gồm: Bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của TAND, của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và của Trọng tài
thương mại [2, khoản 1 Điều 2]; Trường hợp đặc biệt những bản án, quyết định của
tòa án mặc dù chưa có hiệu lực pháp luật về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động,
trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vẫn được tổ chức THADS ngay [2,
khoản 2 Điều 2].
1.4.1.2. Quyết định thi hành án
Quyết định THA là một trong những căn cứ pháp lý cần phải có để áp dụng
biện pháp cưỡng chế THADS. Quyết định THADS do người có thẩm quyền quản lý,
chỉ đạo, điều hành của cơ quan THADS ban hành có nội dung buộc người phải THA
phải thi hành nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định.
1.4.1.3. Quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự
Quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự do CHV, TPL ban hành áp dụng đối
với người phải THA có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành hoặc có
hành vi chống đối, tẩu tán, hủy hoại tài sản tài sản nhằm trốn trách nghĩa vụ THADS.

19


1.4.2. Căn cứ thực tiễn
Căn cứ thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS là sự nắm
bắt toàn diện về thái độ, biểu hiện của người phải THA, cũng như những người xung
quanh họ: người thân, bạn bè, hàng xóm… để lên phương án, kế hoạch cưỡng chế tỷ
mỷ, chu toàn, đảm bảo tính hiệu quả trên thực tiễn.
Ngoài ra, căn cứ thực tiễn để áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS còn là sự

bảo thủ, cố chấp, cố tình không thực hiện bản án, quyết định của người phải THA dù
đã được vận động, thuyết phục tự nguyện thi hành. Đây là cơ sở tạo ra điều kiện chín
muồi về thực tiễn để có căn cứ áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS đối với họ.
Đồng thời, cũng là lý do để người có thẩm quyền giải thích cho những người có liên
quan, có quan hệ với người phải thi hành án hiểu nhằm giảm thiểu khả năng đồng tình,
ủng hộ người phải THA.
1.5. Nguyên tắc áp dụng pháp luật về cƣỡng chế thi hành án dân sự
Như đã phân tích ở trên, pháp luật về cưỡng chế THADS là việc sử dụng quyền
lực Nhà nước để buộc những đối tượng phải THA tuân thủ, tôn trọng pháp luật nhằm
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho cá dân, công dân, tổ chức, bảo vệ pháp chế
XHCN và đảm bảo hiệu lực thực thi của bản án, quyết định đã có hiệu lực. Tuy nhiên,
khi áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS, người có thẩm quyền bắt buộc phải tuân
thủ nguyên tắc do pháp luật quy định. Gồm:
1.5.1. Nguyên tắc về thời gian tổ chức cƣỡng chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế THADS là biện pháp được áp dụng để buộc đối tượng có nghĩa vụ
THA thi hành đúng nội dung quyết định, bản án. Mặc dù vậy, không phải vào thời
điểm nào cũng có thể áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi THADS. Pháp luật về
THADS quy định không được tổ chức cưỡng chế THADS vào các thời điểm sau:
Một là, khi chưa hết thời gian tự nguyện thi hành án thì không được áp dụng
biện pháp cưỡng chế. Khi chưa hết thời gian tự nguyện thi hành án. Thời hạn tự
nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người được thi hành án nhận được hoặc
được tống đạt hợp lệ quyết định thi hành án [2, khoản 1 Điều 45]. Trường hợp cần
ngăn chặn người phải THA có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác

20


×