Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Việc nâng cao vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế ở Việt Nam và kinh nghiệm nước ngoài : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 08

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------

NGÔ THÙY LINH

VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI
TRONG GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG KÝ KẾT, GIA NHẬP
VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
VÀ KINH NGHIỆM NƢỚC NGOÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------------

NGÔ THÙY LINH

VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI
TRONG GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG KÝ KẾT, GIA NHẬP
VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ
Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM NƢỚC NGOÀI
Chuyên ngành:

Luật Quốc tế

Mã số:



60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN LAN NGUYÊN

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Ngô Thùy Linh


MỤC LỤC
Lời cam đoan
LỜI MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1

CHƢƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA QUỐC

HỘI TRONG GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ
THỰC HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM ......................................9
1.1. Khái niệm về vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động ký kết, gia
nhập và thực hiện Điều ước quốc tế. .....................................................................9
1.1.1. Giám sát .......................................................................................................9
1.1.2. Vai trò giám sát tối cao của Quốc hội. ......................................................11
1.1.3. Vai trò giám sát của Quốc hội trong hoạt động ký kết, gia nhập và thực
hiện Điều ước quốc tế ở Việt Nam. ......................................................................17
1.2. Quy định của pháp luật về vai trò giám sát của Quốc hội trong hoạt động
ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế ở Việt Nam...............................27
CHƢƠNG 2 : KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ HOẠT
ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI TRONG QUÁ TRÌNH KÝ KẾT,
GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM ..........................41
2.1. Kinh nghiệm của một số Quốc gia về hoạt động giám sát của Quốc hội
trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế. ........................41
2.1.1 Quy định của pháp luật một số Quốc gia về hoạt động giám sát của
Quốc hội. ..............................................................................................................41
2.1.1.1. Chức năng giám sát của Quốc hội .........................................................41
2.1.1.2. Cách thức tiến hành hoạt động giám sát của Quốc hội .........................43
2.1.2 Kinh nghiệm của một số Quốc gia về hoạt động giám sát của Quốc hội
trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế . .......................48
2.1.2.1. Kinh nghiệm giám sát của Nghị viện Mỹ................................................48


2.1.2.2. Kinh nghiệm giám sát của Nghị viện nước Cộng hòa Pháp ..................56
2.1.2.3. Kinh nghiệm giám sát của Quốc hội nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa .......................................................................................................................57
2.2. Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động giám sát của
Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế..........59

2.2.1. Lịch sử hình thành chế định giám sát của Quốc hội trong quá trình ký
kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế. ......................................................59
2.2.2. Những hạn chế, bất cấp của pháp luật thực định quy định về hoạt động
giám sát của Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thưc hiện Điều ước
quốc tế. .................................................................................................................67
2.3. Thực tiễn tác động của việc theo dõi, xem xét, đánh giá của Quốc hội đối
với quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế. ............................71
2.3.1. Xây dựng Điều ước quốc tế (đàm phán, ký kết, gia nhập). .......................72
2.3.2. Thực hiện Điều ước quốc tế. ......................................................................76
CHƢƠNG 3 : PHƢƠNG HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO VAI
TRÒ GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI TRONG QUÁ TRÌNH KÝ KẾT,
GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ ..................................79
3.1. Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao vai giám sát của Quốc hội. ......79
3.2. Phương hướng nâng cao vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động ký
kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế. ......................................................89
3.3 Giải pháp ........................................................................................................92
KẾT LUẬN .......................................................................................................116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................118


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia
ngày càng được tăng cường và mở rộng. Hoà mình vào cùng sự phát triển chung của
thế giới, hiện nay Việt Nam đã ký kết và tham gia rất nhiều Điều ước quốc tế.
Các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập rất đa dạng thuộc
các lĩnh vực quan trọng trong xã hội. Hiện nay, Việt Nam còn rất nhiều điều ước
đang có hiệu lực thuộc các lĩnh vực: thương mại, nông nghiệp, công nghiệp, hàng
hải, hàng không, đường bộ, đường sắt, lao động, hợp tác nghề cá và phát triển thuỷ
sản, du lịch, y tế, tài chính, tín dụng, khuyến khích và bảo hộ đầu tư tránh đánh thuế

hai lần, bảo hộ quyền sở hữu... Các điều ước này đã góp phần tăng cường và mở rộng
các quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt, đặc biệt là thúc đẩy mạnh hội nhập kinh
tế quốc tế, tăng cường hợp tác thương mại, thu hút đầu tư cũng như những nguồn lực
phát triển chính thức.
Ngày 10/10/2001, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Công ước
Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế; Tháng 6/2005, tại kì họp thứ 7, Quốc hội khoá
XI, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật ký kết,
gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế. Đây được coi là một bước tiến của hệ thống
pháp luật Việt Nam đánh dấu sự quan tâm đối với việc ký kết, gia nhập và thực hiện
Điều ước quốc tế.
Sau khi Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế có hiệu lực, số
lượng Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết và gia nhập có tăng lên đáng kể. Bên
cạnh đó, Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, mối quan hệ giữa
Việt Nam và các nước ngày càng được mở rộng, tăng cường. Một trong những hoạt
động của việc mở rộng quan hệ đó là việc ký kết, tham gia, phê chuẩn nhiều hơn nữa
các Điều ước quốc tế. Để tạo đà và cơ sở pháp lý cho các mối quan hệ quốc tế nhất là
trong lĩnh vực bảo vệ chủ quyền của đất nước, hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, việc
đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện các Điều ước quốc tế ngày càng được Đảng
và Nhà nước quan tâm.

1


Do yêu cầu hội nhập, số lượng các Điều ước quốc tế đã tăng lên đáng kể, quá
trình quản lý, thống kê hiệu lực của các Điều ước quốc tế cũng như việc giám sát quá
trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế của các cơ quan có thẩm quyền
là rất cần thiết. Là một nhà nước trong thời kỳ phát triển, hội nhập chung với thế
giới, Việt Nam cần phải làm gì để tăng cường việc thực thi tốt các Điều ước quốc tế
mà mình đã ký kết, gia nhập cũng như việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các Điều
ước quốc tế, giám sát quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế của

các cơ quan có thẩm quyền. Đó là những vấn đề cần được nghiên cứu toàn diện và
đầy đủ.
Theo Hiến pháp 1992, Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra
theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ðại biểu Quốc hội
được cử tri bầu ra tại các đơn vị bầu cử, chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình và
trước cử tri cả nước. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc
hội có 3 chức năng chính: chức năng lập pháp; chức năng quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước; chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước trong đó có hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình đàm phán, ký kết,
gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế.
Trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế, Quốc hội có
chức năng giám sát hoạt động này của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát.
Chức năng, vai trò này của Quốc hội đã góp một phần quan trọng trong việc nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của Điều ước quốc tế, thúc đẩy hoạt động ký kết, gia nhập,
thực hiện Điều ước quốc tế, là cơ sở pháp lý trong việc tăng cường và mở rộng các
quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế. Hoạt động giám sát quá trình ký kết, gia nhập
và thực hiện Điều ước quốc tế nếu làm tốt sẽ có những đóng góp tích cực đối với
việc xây dựng vào hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước, có ý nghĩa quan
trọng gắn liền với sự gia tăng của Điều ước quốc tế, góp phần đáng kể vào sự nghiệp
phát triển toàn diện của đất nước và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế trong bối cảnh khu vực và thế giới hiện nay.

2


Từ những phân tích trên, vấn đề mà luận văn muốn đề cập tới là: Quốc hội
Việt Nam có vai trò như thế nào và cần làm gì để tăng cường giám sát của mình
trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế ?
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tác giả đề xuất nghiên cứu đề

tài: “Việc nâng cao vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động ký kết, gia
nhập và thực hiện Điều ƣớc quốc tế ở Việt Nam và kinh nghiệm nƣớc ngoài”.
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn trong việc
đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội; xác định rõ vị trí,
vai trò của các cơ quan nhà nước trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều
ước quốc tế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên; học hỏi, tiếp thu được kinh nghiệm giám sát của Quốc hội của một số
Quốc gia trên thế giới; thúc đẩy quá trình phát triển của đất nước trong quá trình hội
nhập hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong việc nghiên cứu về hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung và hoạt
động giám sát của Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước
quốc tế nói riêng, hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu như:
- Cuốn sách “Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội” do Văn
phòng Quốc hội xuất bản năm 2006 đề cập đến tổng quan về khái niệm giám sát của
Quốc hội, hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam theo quy định của pháp luật,
các công cụ giám sát của đại biểu Quốc hội, các kỹ năng thực hiện quyền giám sát
của đại biểu Quốc hội.
- Cuốn sách “Quyền giám sát của Quốc hội - nội dung và thực tiễn từ góc nhìn
tham chiếu” do TS Nguyễn Sỹ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội làm chủ
biên xuất bản năm 2004 để thực hiện chương trình hoạt động hợp tác giữa Quốc hội
Việt Nam với Quốc hội Thụy Điển nhằm cung cấp một số thông tin bổ ích về kinh
nghiệm giám sát của Quốc hội Đức, Ba Lan, Thụy Điển.
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Đổi mới hoạt động giám sát và xây dựng quy
trình giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội”. Đây là

3


một đề tài nhánh thuộc đề tài trọng điểm Quốc gia “Luận cứ khoa học để xây dựng

và hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Quốc hội” do Văn phòng Quốc hội
chủ trì được triển khai nghiên cứu từ tháng 10 năm 2000. Đề tài này được nghiên cứu
trong bối cảnh Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội chưa ra đời.
Ngoài ra, có một số bài viết, bài phát biểu về hoạt động giám sát của Quốc hội
như:
- “Kỷ yếu Hội thảo quá trình hình thành, phát triển và vai trò của Quốc hội
trong sự nghiệp đổi mới”, TS Lê Hữu Thể, Một số suy nghĩ về việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội,
2001, trang 13.
- Kỷ yếu hội thảo về hoạt động giám sát của Quốc hội, GS.TS Trần Ngọc
Đường, Quyền giám sát tối cao và một số suy nghĩ về việc nâng cao hiệu lực và hiệu
quả thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
- Quyền giám sát tối cao của Quốc hội và quyền giám sát của cá cơ quan của
Quốc hội – PGS. TS Nguyễn Ngọc Đường.
- Quốc hội Việt Nam, những lý luận và thực tiễn - PGS. TS Nguyễn Ngọc
Đường.
- Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội – PGS. TS Trương Thị Hồng
Hà.
- Hoạt động giám sát của Quốc hội các nước và ở nước ta – TS Lê Thanh Vân.
- Bàn về thực thi Điều ước quốc tế ở Việt Nam – PGS. TS Hoàng Ngọc Giao.
- Ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế ở Việt Nam – TS Lê Văn Bính.
- Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế
trong điều kiện hội nhập quốc tế - cơ sở lý luận và thực tiễn – TS Nguyễn Thị Thuận.
Với những mức độ và cách tiếp cận khác nhau, các công trình nghiên cứu hiện
nay chưa có nhiều công trình đi sâu vào nghiên cứu vai trò của Quốc hội trong giám
sát hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế ở Việt Nam. Luận văn
sẽ là một trong những nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này. Việc nghiên cứu vai trò
của Quốc hội Việt Nam trong giám sát hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện. Điều

4



ước quốc tế một cách hệ thống sẽ góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về
hoạt động giám sát của Quốc hội, về ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế,
góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, các cơ quan nhà nước trong hoạt động ký kết, gia
nhập và thực hiện Điều ước quốc tế.
3. Phạm vi nghiên cứu
Là một đề tài thuộc chuyên ngành Luật quốc tế, luận văn tập trung nghiên cứu
các vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra cho Quốc hội trong việc thực hiện chức năng
giám sát tối cao của mình trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước
quốc tế. Thông qua việc phân tích, tổng hợp hệ thống pháp luật thực định liên quan
đến chức năng này và qua thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội, từ đó tìm ra
được những hạn chế, bất cập của hoạt động giám sát, đánh giá tính hợp lý, khả thi
của hệ thống pháp luật, những vấn đề còn tồn tại, những quy định chưa phù hợp hay
những nội dung cần nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các văn bản pháp luật
Việt Nam, góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
thực hiện chức năng giám sát tối cao và góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý để các cơ
quan nhà nước tiến hành các hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc
tế.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động giám
sát của Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước tế, luận văn
tìm ra những hạn chế, bất cập của hoạt động này, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ các cơ sở pháp lý, các quy định của pháp luật hiện hành về chức
năng giám sát tối cao của Quốc hội nói chung và chức năng giám sát tối cao của

Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế.

5


- Làm rõ ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động giám sát của Quốc
hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế.
- Làm rõ đối tượng của hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình ký
kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế.
- Phân tích thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội, của đại biểu Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước
quốc tế. Từ đó tìm ra những bất cập, hạn chế và đưa ra những phương hướng, giải
pháp khắc phục những hạn chế, bất cập đó, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về
hoạt động giám sát của Quốc hội, góp phần vào việc nâng cao vị trí, vai trò của Quốc
hội, nâng cao chất lượng hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Điều ước quốc tế, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế
trong giai đoạn hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học: tổng hợp,
phân tích, so sánh, chứng minh, kết hợp các thông tin, tư liệu liên quan đến nội dung
nghiên cứu, đặc biệt là phương pháp so sánh luật học.
Luận văn cũng kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn góp phần nâng cao nhận thức, tầm quan trọng về vị trí, vai trò giám
sát của Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo trong việc thực hiện
chức năng giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của
Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước

quốc tế.

6


Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được ứng dụng trong việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, nhất là trong
hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế.
7. Những đóng góp của đề tài
Là một trong những luận văn đầu tiên nghiên cứu về hoạt động giám sát của
Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế.
Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt
động giám sát của Quốc hội nói chung và trong quá trình ký kết, gia nhập và thực
hiện Điều ước quốc tế nói riêng. Luận văn sẽ đóng góp vào việc giải đáp các vấn đề
như:
- Cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội, đại biểu Quốc hội trong hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc
tế hiện nay đã đáp ứng đầy đủ chưa?
- Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội có vai trò như
thế nào trong việc giám sát hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc
tế?
- Mối quan hệ giữa Quốc hội với cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quá
trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế? Việc thực hiện chức năng giám
sát trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế của Quốc hội có
tác động như thế nào đến các cơ quan trực tiếp tiến hành ký kết, gia nhập và thực
hiện Điều ước quốc tế ?
- Yêu cầu giám sát của Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện
Điều ước quốc tế trong bối cảnh hiện nay với mức độ, phạm vi, nội dung, hình thức
như thế nào?
- Vị trí, vai trò giám sát tối cao của Quốc hội được thực hiện bằng cách nào?

Tác động của hoạt động giám sát của Quốc hội với việc ký kết, gia nhập và thực hiện
Điều ước quốc tế ?
Dựa vào thực tiễn giám sát của Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và
thực hiện Điều ước quốc tế và các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này, luận

7


văn sẽ chỉ ra những điểm hạn chế, thiếu sót, đề xuất những phương hướng, quan
điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật, quy trình giám sát của
Quốc hội trong hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, nâng cao chất lượng của hoạt
động ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương
Chƣơng I: Những vấn đề lý luận về vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt
động ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế ở Việt Nam.
Chƣơng II: Kinh nghiệm của một số Quốc gia về hoạt động giám sát của
Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế và thực tiễn
hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam.
Chƣơng III: Phương hướng và kiến nghị nâng cao vai trò giám sát của Quốc
hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế.

8


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI
TRONG GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG KÝ KẾT, GIA NHẬP VÀ THỰC HIỆN
ĐIỀU ƢỚC QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm về vai trò của Quốc hội trong giám sát hoạt động ký kết, gia
nhập và thực hiện Điều ƣớc quốc tế.
1.1.1. Giám sát
Trong từ điển Tiếng Việt, “giám sát” được hiểu là “sự theo dõi, xem xét làm
đúng hoặc sai những điều đã quy định” hoặc là “theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định không”. Cũng trong Từ điển tiếng Việt, “giám sát”
còn được hiểu “là chức quan thời xưa trông nom, coi sóc một loại việc nhất định”.
[32]
Theo ngôn ngữ ở một số nước, “giám sát” được hiểu theo những khía cạnh
chủ yếu sau:
- Theo từ điển Tiếng Nga, “giám sát” được hiểu là “một nhóm hoặc một tổ
chức để theo dõi người, việc nào đó cụ thể”. [28]
- Theo từ điển Tiếng Anh, “giám sát” được hiểu là “sự bảo đảm cho công việc
hoặc hoạt động được thực hiện đúng theo quy định”. [29]
Với cách tiếp cận này, khái niệm “giám sát” có nội hàm gồm hai yếu tố sau:
+ Hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra của một chủ thể nhất định;
+ Phương thức bảo đảm cho công việc hoặc hoạt động được thực hiện đúng
theo quy định.
Giám sát đầu tiên được hiểu là sự xác định tính chất đúng đắn của tình hình sự
việc.[13] Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu về hoạt động giám sát của Quốc hội
thì các nhà khoa học pháp lý cho rằng hoạt động giám sát không chỉ bao gồm một
nghĩa là sự xác định trách nhiệm chính trị của đối tượng chịu sự giám sát hoặc còn
bao gồm cả quyền xử lý các hành vi vi phạm phát hiện trong quá trình giám sát.
Quyền giám sát của Quốc hội được các nhà khoa học pháp lý nước ngoài định nghĩa
như sau:

9


Theo định nghĩa của các nhà nghiên cứu Pháp: “Sự giám sát của Quốc hội là

tổ hợp các biện pháp cho phép nghị viện đưa ra nhận định về hoạt động của Chính
phử và hạ bệ nó trong trường hợp có sự bất đồng sâu sắc với chính sách đã thực
thi”. [2]
Còn theo định nghĩa của các nhà nghiên cứu Nga thì: “Sự giám sát của Quốc
hội là tổ hợp các biện pháp khác nhau do cơ quan lập pháp (đại diện) cao nhất của
chính quyền nhà nước thực hiện để theo dõi thường xuyên và kiểm tra hoạt động của
hệ thống, cũng như trừ bỏ những phát hiện từ sự kiểm tra đó và phòng ngừa những
sai phạm có thể xảy ra”. [18]
Như vậy, khái niệm “giám sát” dưới góc độ ngôn ngữ thông thường được hiểu
là: việc theo dõi, xem xét, kiểm tra của chủ thể có quyền đối với chủ thể khác để qua
đó có được nhận định về hoạt động của chủ thể này.
Từ nội dung khái niệm “giám sát” nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét như
sau:
Thứ nhất, giám sát dùng để chỉ hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra đối
tượng chịu sự giám sát, qua đó đưa ra nhận định về một việc làm nào đó đã được
thực hiện đúng hay sai so với các quy định hiện hành;
Thứ hai, để tiến hành hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra thì giám sát luôn
phải gắn với một hoặc một số đối tượng cụ thể;
Thứ ba, để có thể tiến hành được hoạt động giám sát thì chủ thể hoạt động
giám sát phải có những quyền hạn, nghĩa vụ nhất định đối với đối tượng chịu sự
giám sát;
Thứ tư, để có thể đưa ra được nhận định về hoạt động của đối tượng chịu sự
giám sát thì việc giám sát phải được tiến hành dựa trên những quy định do chủ thể có
quyền giám sát đặt ra;
Thứ năm, giám sát luôn là hoạt động có mục đích. Mục đích của hoạt động
giám sát là đưa ra những nhận định của chủ thể có quyền giám sát đối với hoạt động
của đối tượng chịu sự giám sát, qua đó có biện pháp xử lý đối với những việc làm

10



trái quy định của đối tượng chịu sự giám sát, bảo đảm cho những quy định của chủ
thể có quyền giám sát được chấp hành đúng.
1.1.2. Vai trò giám sát tối cao của Quốc hội.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quyền lực nhà nước là một
dạng quyền lực đặc biệt. Đó là quyền lực chính trị của một quốc gia gắn liền với ý
chí của giai cấp cầm quyền, gắn với ý chí, nguyện vọng, lợi ích của toàn xã hội, dân
tộc, quốc gia. Mỗi cách hiểu, mỗi góc độ tiếp cận về quyền lực nhà nước, cách thức
và quan điểm về tổ chức quyền lực nhà nước, về tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước đều có tác động và ảnh hưởng lớn tới vai trò, vị trí của những yếu tố cấu thành
quyền lực nhà nước, trong đó quyền lực của Quốc hội là một yếu tố cấu thành.
Trong lịch sử nhân loại đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quyền lực,
trong đó đều thống nhất với nhau ở việc “quyền lực nhà nước được thể hiện ở việc
quyền lực của một nhóm người đạt được sự thể hiện ý chí từ mình hoặc nhóm người
khác, tức là một nhóm chủ thể áp đặt quyền lực lên toàn bộ xã hội và có quyền sử
dụng những phương tiện cưỡng chế trong trường hợp có sự không tuân thủ từ phía
đối tượng bị áp đặt quyền lực. Quyền lực nhà nước được thực hiện nhờ những thiết
chế chính trị, trong đó Nhà nước là thiết chế chủ chốt, giữ vai trò trung tâm”. [10]
Trên thế giới, mỗi loại mô hình nhà nước lại có cách thức tổ chức quyền lực
nhà nước khác nhau, từ mô hình nhà nước chính thể đại nghị (điển hình là Vương
quốc Anh) luôn coi Quốc hội có vai trò quan trọng trong việc hình thành Chính phủ,
tới chính thể cộng hòa tổng thống (điển hình là hợp chủng quốc Hoa Kỳ) phân chia
quyền lực nhà nước ở dạng tam quyền phân lập, cơ chế kìm chế đối trọng giữa Chính
phủ và Quốc hội và mô hình nhà nước theo hình thức chỉnh thể hỗn hợp (điển hình là
Cộng hòa Pháp) tổ chức quyền lực nhà nước là sự kết hợp của hai mô hình trên.
Tuy được tổ chức dưới những dạng khác nhau, nhưng nhìn chung Quốc hội là
một phần không thể tách rời của hệ thống quyền lực nhà nước trong bất kỳ nhà nước
dân chủ nào. Quốc hội luôn thể hiện được vai trò, vị trí không thể thay thế và nắm
giữ một nhánh quyền lực nhất định. Có được vị trí này là nhờ bản chất, tính chất, các


11


chức năng và thẩm quyền của Quốc hội thể hiện trong mối quan hệ tương hỗ với các
nhánh quyền lực khác, đặc biệt là quyền hành pháp.
Chức năng cơ bản của Quốc hội được phân biệt với các chức năng của các cơ
quan nhà nước khác trong tổ chức bộ máy nhà nước đó là chức năng lập pháp.
Nhưng xuất phát từ vai trò đại diện nên cùng với chức năng lập pháp, chức năng
giám sát với những quyền hạn và nhiệm vụ đặc thù của mình cũng đang trở thành
một chức năng đặc thù của Quốc hội. Dù quyền giám sát của Quốc hội được hình
thành và phát triển trên cơ sở nhu cầu nào, trong điều kiện nào thì thực tế cho thấy,
hầu hết các mô hình nghị viện trên thế giới đều có quyền giám sát và được ghi nhận
trong đạo luật có giá trị cao nhất là Hiến pháp và được coi là một chức năng cơ bản
của Quốc hội.
Về bản chất, hoạt động giám sát của Quốc hội là việc Quốc hội thu thập các
thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước hữu quan và tiến hành xem xét,
đánh giá, thu thập thông tin thu được để từ đó có các biện pháp xử lý sau giám sát.
Để tiến hành các hoạt động này, Quốc hội sử dụng những công cụ khác nhau để đạt
những mục tiêu khác nhau. Một số công cụ để giám sát về mặt nội dung, một số công
cụ giám sát về mặt pháp lý, một số khác thì áp dụng ở mặt kinh tế. Tùy theo mục
tiêu, nội dung, đối tượng cần giám sát mà Quốc hội lựa chọn công cụ giám sát thích
hợp (có thể là chất vấn, điều trần, luận tội, xét báo cáo hoạt động, lập đoàn giám
sát...). Kết quả của hoạt động giám sát thể hiện quyền lực tập trung của Quốc hội, thể
hiện quyết định tập thể của Quốc hội nhằm thay đổi, sửa đổi, hủy bỏ các quyết định
trái pháp luật của các cơ quan hành pháp hoặc bãi nhiệm các chức vụ trong Chính
phủ, bất tín nhiệm đối với Chính phủ.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân bầu ra Quốc hội trên
nguyên tắc trực tiếp, phổ thông, bình đẳng và bỏ phiếu kín. Thông qua Quốc hội,
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, các đại biểu Quốc hội với lá phiếu bầu

của nhân dân họ sẽ thay mặt nhân dân thực hiện các chức năng của Quốc hội là lập

12


hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng và giám sát tối cao trong toàn bộ
hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Hiến pháp, văn bản pháp lý quan trọng nhất của nước ta đã có những quy định
cụ thể về quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980 cho
đến Hiến pháp 1992, quyền giám sát tối cao của Quốc hội luôn được thể hiện một
cách trực tiếp hay gián tiếp cả về phạm vi và đối tượng nhưng đều thể hiện được tính
quyền lực cao nhất của Quốc hội, thể hiện ở việc quy định Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến, lập pháp. Quốc hội có quyền giám sát tối cao toàn bộ hoạt
động của Nhà nước và có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Lập
hiến, lập pháp và giám sát của Quốc hội là những hình thức thực hiện quyền lực nhà
nước cao nhất được trao cho Quốc hội vì Quốc hội là cơ quan duy nhất được nhân
dân cả nước trực tiếp bầu ra. Đây chính là chức năng cơ bản và quan trọng của Quốc
hội đã được ghi nhận trong Hiến pháp. Chức năng này đang và sẽ tiếp tục được hoàn
thiện cả về lý luận và thực tiễn để ngày càng phát huy hiệu quả của nó trong việc bảo
đảm cho Hiến pháp, luật được thi hành nghiêm chỉnh trong cả nước, trước hết là từ
các cơ quan nhà nước; bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; làm cho bộ
máy nhà nước tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm tôn trọng, phát huy
quyền dân chủ của công dân, đồng thời duy trì trật tự nhà nước, trật tự xã hội và bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. [15]
Tuy nhiên, xét ở góc độ lý luận, Quốc hội không thể và không cần thiết tự
mình trực tiếp thực hiện quyền đó đối với mọi đối tượng chịu sự giám sát. Quốc hội
có thể giao một phần quyền của mình cho một hoặc một số cơ quan, cá nhân thực
hiện hoặc Quốc hội có thể trực tiếp thực hiện hoạt động đó trong một số lĩnh vực và
đối với những trường hợp cần thiết.
Quyền giám sát tối cao của Quốc hội được thể hiện ở một số khía cạnh sau

đây:
- Giám sát tối cao của Quốc hội là giám sát mang tính quyền lực nhà nước.
Đặc trưng này được xác định bởi vị trí pháp lý và tính chất của chủ thể giám
sát. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao xuất phát từ nguyên tắc tổ chức quyền

13


lực của nhà nước ta. Nhà nước ta không tổ chức theo mô hình học thuyết “tam quyền
phân lập” mà được tổ chức để đảm bảo nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Để
bảo vệ hiến pháp và bảo đảm hiệu lực thực tế của các đạo luật do Quốc hội ban hành,
yêu cầu khách quan đòi hỏi Quốc hội cần thực hiện việc giám sát tối cao đối với toàn
bộ hoạt động nhà nước. Đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, không tách
rời quyền lực nhà nước. Đặc trưng này chỉ rõ sự khác nhau giữa giám sát của Quốc
hội với giám sát của các cơ quan nhà nước khác, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân. Vì thế, thực hiện quyền giám sát tối cao chính là
Quốc hội thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước do chính nhân dân giao
cho.
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền giám sát tối cao. Giám sát tối cao là
quyền hiến định duy nhất mà chỉ có Quốc hội với vị trí, vai trò trong hệ thống bộ
máy nhà nước là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân mới được thực
hiện. Vì thế, quyền này chỉ có thể tiến hành tại các kỳ họp của Quốc hội với các
phương thức thực hiện phù hợp với đối tượng và nội dung giám sát nói trên. Các cơ
quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội thực hiện các chức năng giám sát trên cơ
sở pháp luật nhưng không phải là giám sát tối cao. Cùng với kết quả hoạt động giám
sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu quốc hội và cá nhân đại biểu
Quốc hội; kết quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước là cơ
sở để Quốc hội tiến hành thực hiện chức năng giám sát tối cao của mình.
- Thời gian tiến hành: Chỉ duy nhất được tiến hành tại phiên họp toàn thể hay
còn gọi là các kỳ họp của Quốc hội.

- Chủ thể giám sát: Chủ thể giám sát tối cao chỉ có Quốc hội. Chủ thể tham
gia thực hiện quyền đó thì cần phải hiểu ở nghĩa rộng, bao gồm các chủ thể sau:
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
- Đối tượng chịu sự giám sát: bao gồm các cơ quan cao nhất trong tổ chức bộ
máy nhà nước như: Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ

14


tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Nội dung quyền giám sát tối cao của Quốc hội:
Theo quy định tại Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 và Điều 9, Điều 10
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 thì quyền giám sát tối cao của Quốc
hội thể hiện ở việc:
+ Theo dõi, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp đối với các văn bản quy phạm
pháp luật và hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
+ Xử lý các hành vi vi phạm Hiến pháp và luật bằng các chế tài như bãi
nhiệm, miễn nhiệm các chức vị cao nhất trong bộ máy nhà nước, đình chỉ, bãi bỏ các
văn bản trái với Hiến pháp, luật và ra các nghị quyết khi xét thấy cần thiết.
- Hậu quả pháp lý của giám sát tối cao: Quốc hội ban hành Nghị quyết để
biểu dương, phê phán, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn; ban hành Nghị quyết yêu cầu các cơ quan bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần
văn bản quy phạm pháp luật… và hoạt động giám sát tối cao được tiến hành trên các
phương thức luật định. [22]
- Phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội
Vì Hiến pháp chỉ “giao” chức năng giám sát tối cao cho Quốc hội nên quyền
này chỉ có thể tiến hành tại các kỳ họp Quốc hội với các phương thức thực hiện

quyền phù hợp với đối tượng và nội dung giám sát nêu trên. Sở dĩ phải tiến hành với
các phương thức phù hợp như vậy vì đặc trưng cơ bản của Quốc hội là Quốc hội hoạt
động không thường xuyên và Quốc hội chỉ thực hiện quyền năng đối với các cơ quan
cao nhất trong bộ máy nhà nước.
Quốc hội giám sát tối cao tại kỳ họp thông qua các phương thức sau:
+ Xem xét các báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
+ Xem xét các đề nghị của các cơ quan của Quốc hội, của đại biểu Quốc hội,
của các cơ quan, tổ chức và các nhân về các văn bản quy phạm pháp luật của Chủ

15


tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật,
Nghị quyết của Quốc hội;
+ Xem xét chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp;
+ Thành lập Ủy ban lâm thời trong những trường hợp cần thiết điều tra về một
vấn đề nhất định.
Ngoài ra, quyền giám sát tối cao của Quốc hội còn được bảo đảm thông qua
hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Cụ thể là:
+ Ủy ban thường vụ Quốc hội, cơ quan thường trực của Quốc hội, giám sát
việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của
Ủy ban thường vụ Quốc hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân về
các vấn đề được Quốc hội giao;
+ Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối
với các vấn đề được Quốc hội giao. Khi cần thiết, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban cử
các thành viên của mình đến cơ quan, tổ chức hữu quan để điều tra, xem xét về vấn
đề mà Hội đồng, Ủy ban quan tâm.

Từ các trình bày và phân tích trên đây, có thể thấy rằng quyền giám sát tối cao
là quyền năng của Quốc hội, thể hiện trong quá trình điều tra, theo dõi, đánh giá đối
với mọi hoạt động của nhà nước trong việc tuân thủ Hiến pháp, luật, Nghị quyết của
Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đồng thời đưa ra
biện pháp xác định trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý của các đối tượng chịu
sự giám sát nhằm mục đích cảnh báo, phát hiện phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý
những vi phạm có thể xảy ra. Việc thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội tại
kỳ họp có mối quan hệ hữu cơ với hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Do đó, hoạt động giám sát của
các chủ thể thuộc cơ cấu của Quốc hội phải đặt trong mối liên hệ thống nhất với hoạt
động giám sát tối cao. Có như vậy, quyền giám sát tối cao của Quốc hội mới phát
huy được tính hiệu quả.

16


1.1.3. Vai trò giám sát của Quốc hội trong hoạt động ký kết, gia nhập và thực
hiện Điều ước quốc tế ở Việt Nam.
Theo quy định của Hiến pháp: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”, nói cách khác mọi hoạt động của nhà nước
đều dưới sự giám sát của Quốc hội. Vì vậy, hoạt động của các cơ quan nhà nước, các
cá nhân khi thực hiện nhiệm vụ ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế cũng
không nằm ngoài thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện
Điều ước quốc tế được hiểu là hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
đại biểu Quốc hội dùng các phương tiện, công cụ của mình để theo quy định của
pháp luật để thực hiện chức năng giám sát qua đó có những tác động đến hoạt động
ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức, cá nhân, góp phần thức đẩy sự phát triển của các Điều ước quốc tế. Cụ thể là
tiến hành tìm hiểu việc thực thi pháp luật quy định về hoạt động ký kết, gia nhập và

thực hiện Điều ước quốc tế. Là cơ sở để Quốc hội xem xét, phê chuẩn, rút khỏi, bảo
lưu… các Điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trình ra Quốc hội, là cơ sở để Quốc hội
sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động giám sát và hoạt động đàm
phán, ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế.
Vai trò này được thể hiện qua quá trình Quốc hội xem xét các quy định pháp
luật có liên quan đến hoạt động này do chính Quốc hội ban hành có được các cơ
quan nhà nước thực hiện đúng theo đúng quy định và các cơ quan nhà nước, các cá
nhân thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật hay không.
Trên cơ sở đó để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những chính sách, pháp luật quy định có
liên quan không còn phù hợp với thực tiễn ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế hoặc
không còn phù hợp với cuộc sống nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật về Điều
ước quốc tế thống nhất, hiện đại, toàn diện điều chỉnh các quan hệ quốc tế nhằm hợp
tác và phát triển, bảo vệ tối đa lợi ích của nhân dân, đất nước, phát triển đất nước
theo xu hướng của thời đại. [11]

17


Như vậy, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội trong quá trình ký kết, gia
nhập và thực hiện Điều ước quốc tế là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt
động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành nhiệm
vụ, quyền hạn của mình để ký kết, gia nhập và thực hiện các Điều ước quốc tế trên
cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội nhất là Luật ký kết, gia nhập và thực hiện
Điều ước quốc tế.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện
Điều ước quốc tế là một quá trình liên tục từ khi đàm phán đến việc ký kết, gia nhập
và thực hiện Điều ước quốc tế. Điều này xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, bên cạnh
hoạt động xây dựng pháp luật thực định với một quy trình luật định chặt chẽ nhằm
bảo đảm Quốc hội xây dựng được những đạo luật có tính khả thi cao thì việc giám

sát hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế cũng rất quan trọng vì
có nhiều quy định của Điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp kể cả khi có quy định
trái với các quy định của luật thực định, hơn nữa khác với quy trình xây dựng pháp
luật, Quốc hội trực tiếp tiến hành cho ý kiến vào nội dung dự án luật ngay từ khi
“thai nghén” còn trong hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế
phần lớn là do các cơ quan của Chính phủ, các chủ thể được Quốc hội trao quyền
tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật, vì vậy, hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội trong lĩnh vực này lại càng có ý nghĩa quan trọng nhằm tránh việc lạm
quyền, tránh những thiệt hại về chính trị, kinh tế… do sự ràng buộc của Điều ước
quốc tế mà nước ta đã ký kết, tham gia hoặc khi thực thi những Điều ước quốc tế
này. Mặt khác, thông qua hoạt động giám sát tối cao, Quốc hội còn bảo đảm sự tuân
thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước trong hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện
Điều ước quốc tế.
Mặc dù Hiến pháp có ghi nhận Quốc hội có quyền giám sát tối cao trong toàn
bộ hoạt động của Bộ máy nhà nước trong đó có quyền giám sát toàn bộ hoạt động ký
kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế, nhưng trên thực tế bản thân Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội không có đủ

18


nguồn lực cả về thời gian và nhân lực để có thể triển khai hoạt động giám sát một
cách đồng bộ, sâu sát với từng loại Điều ước. Hơn nữa, để đáp ứng kịp yêu cầu quản
lý Nhà nước và xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế, tạo sự chủ động cho các cơ
quan Nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền, Quốc hội đã xây dựng một hành lang
pháp lý để các cơ quan nhà nước, các cá nhân được Quốc hội trao quyền có thể chủ
động trong hoạt động đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế,
Quốc hội đã trao quyền cho các cơ quan nhà nước thay mặt Quốc hội thực hiện các
công việc trên và theo định kỳ phải báo cáo Quốc hội chính là việc Quốc hội thực
hiện chức năng của mình là kiểm soát quyền lực.

Trong lĩnh vực ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế, Quốc hội cho ý
kiến chỉ đạo việc ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế ở những lĩnh vực
quan trọng của đời sống xã hội như những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích cơ
bản của công dân, chủ quyền biên giới quốc gia, những vấn đề mới mà chưa có luật
thực định điều chỉnh hoặc những vấn đề trái với quy định của Hiến pháp… Theo quy
định của Điều 31 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế năm 2005,
những Điều ước trước khi có hiệu lực pháp luật phải được Quốc hội phê chuẩn gồm
có 3 loại điều ước sau:
- Điều ước quốc tế có quy định phải phê chuẩn;
- Điều ước quốc tế được ký nhân danh nhà nước;
- Điều ước quốc tế được ký nhân danh Chính phủ có quy định trái với quy định
trong các văn bản pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc có quy
định liên quan đến ngân sách nhà nước.
Theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 1, Công ước Viên 1969 về Luật Điều
ước quốc tế: “Điều ước quốc tế là một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản
giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc vào việc
thỏa thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc hai hay nhiều văn
kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc vào tên gọi của các văn kiện
đó”.

19


Liên quan đến khái niệm Điều ước quốc tế, bên cạnh khái niệm chung được
đưa ra trong các văn bản pháp lý quốc tế, luật quốc tế cũng tạo điều kiện cho các
quốc gia, trong khả năng của mình được phép ban hành các văn bản pháp luật
(nhưng cũng phải đảm bảo tính phù hợp với pháp luật quốc tế) quy định về vấn đề
trên. Cùng với pháp luật một số quốc gia khác, Luật ký kết, gia nhập và thực hiện
Điều ước quốc tế năm 2005 của Việt Nam cũng đã đưa ra khái niệm về Điều ước
quốc tế. Khoản 1 Điều 2 quy định: “Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam ký kết hoặc gia nhập là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết hoặc gia
nhập nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với một hoặc nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác của
pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định,
định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện
có tên gọi khác”.
Từ định nghĩa về điều ước quốc tế, ta có thể nhận thấy một số đặc điểm đặc
trưng của một điều ước quốc tế như sau:
- Về chủ thể của Điều ước quốc tế: Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Điều ước
quốc tế là kết quả của quá trình đấu tranh, thương lượng của ít nhất hai chủ thể của
Luật quốc tế tham gia có thể là trong quá trình ký kết, thực hiện hoặc trong quá trình
gia nhập, thực hiện Điều ước quốc tế. Việc ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước
quốc tế thể hiện quyền năng của chủ thể luật quốc tế mà chủ yếu là các quốc gia.
Một thỏa thuận được ký kết giữa một bên là quốc gia và bên kia là một công ty
hoặc một cá nhân không có tư cách đại diện cho quốc gia đó không phải là Điều ước
quốc tế. Quốc gia, Chính phủ là một thực thể pháp lý và thực hiện việc ký kết, gia
nhập Điều ước quốc tế thông qua một con người cụ thể được Quốc gia, Chính phủ ủy
quyền thực hiện, có thể là người đứng đầu quốc gia, người đứng đầu Chính phủ hoặc
người đứng đầu các Bộ, các cơ quan của Nhà nước hoặc Quốc hội. Do đó, đôi khi
các quốc gia còn gọi Điều ước quốc tế ký kết giữa nguyên thủ quốc gia, người đứng
đầu Chính phủ và người đứng đầu các Bộ, ngành.

20


×