Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Giáo dục pháp luật cho phụ nữ ở nước ta hiện nay. Luận văn ThS. Luật học: 60 38 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ NGỌC MINH

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO PHỤ NỮ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012


Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012.

Có thể tìm hiểu luận văn


tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
Chương 1:

1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC

7

PHÁP LUẬT CHO PHỤ NỮ

1.1.

Khái niệm về giáo dục pháp luật cho phụ nữ

7

1.1.1.

Khái niệm giáo dục pháp luật


7

1.1.2.

Khái niệm về giáo dục pháp luật cho phụ nữ

10

1.1.3.

Mục đích của giáo dục pháp luật cho phụ nữ

11

1.1.4.

Nội dung và hình thức của giáo dục pháp luật cho phụ nữ

14

1.1.4.1. Nội dung của giáo dục pháp luật cho phụ nữ

14

1.1.4.2. Hình thức giáo dục pháp luật cho phụ nữ

16

1.1.5.


Chủ thể, khách thể, đối tượng giáo dục pháp luật cho phụ nữ

18

1.1.5.1. Chủ thể giáo dục pháp luật cho phụ nữ 18
1.1.5.2. Khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật cho phụ nữ

18

1.2.

Các yếu tố tác động đến việc giáo dục pháp luật cho phụ nữ

20

1.2.1.

Các yếu tố về truyền thống, văn hóa, phong tục tập quán

20

1.2.2.

Yếu tố kinh tế, lao động - việc làm

23

1.2.3.

Yếu tố về pháp luật đối với phụ nữ


24

1.2.4.

Yếu tố nhận thức của bản thân người phụ nữ

29

1.2.5.

Yếu tố về năng lực chủ thể đi giáo dục pháp luật

30

1.3.

Những đặc điểm cơ bản của giáo dục pháp luật cho phụ nữ

32


1.3.1.

Phụ nữ ít quan tâm đến pháp luật hơn nam giới

32

1.3.2.


Phụ nữ thường chỉ quan tâm đến một số văn bản pháp luật
cơ bản có liên quan đến phụ nữ

33

1.4.

Quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật cho phụ nữ

35

1.4.1.

Các chính sách, quy định của pháp luật về giáo dục pháp
luật cho phụ nữ

35

1.4.2.

Các chủ thể tham gia quản lý nhà nước về giáo dục pháp luật

37

Chương 2:

39

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO PHỤ NỮ NƢỚC TA HIỆN NAY


2.1.

Thực trạng đời sống của phụ nữ ở nước ta hiện nay

39

2.1.1.

Phụ nữ nông thôn

39

2.1.2.

Phụ nữ thành thị

43

2.1.3.

Phụ nữ là công nhân lao động

45

2.1.4.

Phụ nữ trí thức

47


2.2.

Thực trạng của chính sách và việc thực hiện pháp luật về
quyền phụ nữ

52

2.2.1.

Các quyền và chính sách đối với phụ nữ theo pháp luật Việt
Nam

52

2.2.2.1. Các quyề n của phu ̣ nữ theo pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam

52

2.2.2.2. Viê ̣c thực hiê ̣n pháp luâ ̣t về quyề n của phu ̣ nữ

53

2.3.

Thực trạng về giáo dục pháp luật cho phụ nữ hiện nay

2.3.1.

Kế hoa ̣ch về tuyên truyề n , giáo dục pháp luật cho phụ

đến năm 2012 của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam

2.3.2.

Thực trạng của giáo du ̣c pháp luâ ̣t cho phu ̣ nữ

56

2.3.2.1

Về nội dung giáo dục pháp luật

56

54
nữ

54

2.3.2.2. Hình thức giáo dục pháp luật

59

2.3.2.3. Cơ quan, tổ chức, báo cáo viên làm công tác giáo dục pháp luật

60


2.3.2.4. Vấn đề trợ giúp pháp lý cho phụ nữ
Chương 3:


TĂNG CƢỜNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHỤ

60
63

NỮ NƢỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP

3.1.

Sự cần thiết phải giáo dục pháp luật cho phụ nữ trong giai
đoạn hiện nay

63

3.2.

Những nhu cầu thực tiễn về giáo dục pháp luật cho phụ nữ

64

3.2.1.

Về nhận thức chung của phụ nữ về nhu cầu hiểu biết pháp luật

64

3.2.2.

Về nhu nội dung pháp luật được giáo dục


65

3.2.3.

Nhu cầu về hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật phù hợp

66

3.2.4.

Nhu cầu về hình thức tài liệu tuyên truyền phổ biến pháp luật

68

3.2.

Phương hướng tăng cường giáo dục pháp luật cho phụ nữ
hiện nay

68

3.2.1

Xây dựng kế hoạch, chương trình giáo dục pháp luật cho
phụ nữ

68


3.2.2.

Phối hợp với các bộ, ngành liên quan tăng cường công tác
tuyên truyền giáo dục pháp luật cho phụ nữ

71

3.2.3.

Xây dựng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên về pháp luật

71

3.3.

Các giải pháp cơ bản về tăng cường giáo dục pháp luật cho
phụ nữ trong giai đoạn hiện nay

73

3.3.1.

Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về giáo dục pháp luật
cho phu ̣ nữ

73

3.3.2.


Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật cho phụ nữ

74

3.3.3.

Kết hợp giáo dục pháp luật với các lĩnh vực giáo dục đào
tạo khác đặc biệt là giáo dục phẩm chất đạo đức cho phụ nữ

75

3.3.4.

Tăng cường, đa dạng các hình thức giáo dục pháp luật cho

76


phụ nữ thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tham gia giáo dục pháp
luật cho phụ nữ
3.3.5.

Thành lập các trung tâm tư vấn pháp luật cho phụ nữ

81

3.3.6.


Tiếp tục thực hiện có hiệu quả và mở rộng Đề án "Cấp báo
Phụ nữ Việt Nam không thu tiền cho Hội Liên hiệp phụ nữ
xã, chi Hội phụ nữ các xã đặc biệt khó khăn, chi hội phụ nữ
thôn, bản đặc biệt khó khăn thuộc xã vùng II"

83

3.3.7.

Bảo đảm kinh phí trong công tác giáo dục pháp luật cho phụ nữ

84

3.3.8.

Tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm đối với
những mô hình, câu lạc bộ pháp luật hiệu quả đồng thời
tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm những vi
phạm kỷ luật, pháp luật của cán bộ, công chức

85

KẾT LUẬN

87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

90



Danh môc c¸c b¶ng

Sè hiÖu

Tªn b¶ng

Trang

b¶ng
2.1

Nội dung pháp luật đã được tuyên truyền, giáo dục

58

2.2

Hình thức giáo dục pháp luật đã được áp dụng

59

3.1

Về nhận thức chung của phụ nữ về nhu cầu hiểu biết

65

pháp luật
3.2


Nhu cầu về nội dung pháp luật cần được giáo dục

66

3.3

Hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật được coi là

67

phù hợp
3.4

Hình thức tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật được
coi là phù hợp, dễ sử dụng

68


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của đất nước trên
mọi lĩnh vực, vai trò, vị trí của phụ nữ cũng được nâng lên rõ rệt. Phụ nữ ngày
càng tham gia sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Có được sự
phát triển đó là do sự nỗ lực phấn đấu của bản thân mỗi người phụ nữ, tuy
nhiên sự thành công đó cũng không thể trở thành hiện thực nếu không có một
hệ thống pháp luật đồng bộ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Các
quy đinh

̣ của pháp luật hiê ̣n nay đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ
thực hiê ̣n các quyề n và nghiã vu ̣ của mình.
Bên cạnh kết quả đã đạt được vẫn còn nhiều phụ nữ chưa được tiếp
cận với các quy định của nhà nước về những quyền và nghĩa vụ của mình.
Chính từ sự thiếu hiểu biết về pháp luật nên một bộ phận phụ nữ không tự bảo
vệ được mình và người thân trong hoàn cảnh cụ thể.
Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong những năm gần
đây cũng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, tuy nhiên những kết quả
đạt được vẫn còn nhiều hạn chế , đặc biệt là việc tuyên truyền , giáo dục pháp
luật đối với phụ nữ.
Để quản lý được Nhà nước và xã hội bằng pháp luật theo tiêu chí của
một nhà nước pháp quyền thì mọi người dân phải được trang bị những kiến
thức về nhà nước và pháp luật một cách đầy đủ và kịp thời. Nhưng hiện nay,
qua các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy: ở nhiều địa phương, việc vi
phạm pháp luật, làm trái pháp luật của người dân đặc biệt là phụ nữ không
phải là ít. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm pháp luật, có một
nguyên nhân cơ bản, đó là do phụ nữ không biết, hiểu không đúng các quy
định của pháp luật.

1


Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, với chức năng:
Đại diện, bảo vệ quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp
và chính đáng của phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản
lý Nhà nước; Đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền, giáo dục, vận động,
tổ chức hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [28, tr. 1]
Là một cán bộ của Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, tôi luôn trăn

trở làm thế nào để giúp chị em phụ nữ nâng cao trình độ của bản thân, hiểu rõ
các quy định của pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bản
thân khi bị xâm hại. Qua những đợt nghiên cứu thực thế, qua tiếp xúc, trao
đổi, làm việc với đội ngũ cán bộ Hội chuyên trách các cấp, với hội viên, phụ
nữ ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước tôi nhận thấy: còn một bộ phận khá lớn
phụ nữ đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa không quan
tâm hoặc hiểu biết rất ít các quy định của pháp luật liên quan trực tiếp đến
phụ nữ.
Làm thế nào để phụ nữ trong cả nước hiểu và làm đúng các quy định
của pháp luật, nhất là các quy định liên quan trực tiếp đến phụ nữ để tự bảo vệ
mình và gia đình khi quyền lợi đó bị xâm phạm? Đây là một vấn đề lớn đòi
hỏi sự quan tâm của tất cả các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương.
Qua hai năm học tập, nghiên cứu tại Khoa Luật - Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội, kết hợp giữa lý luận đã được học và thực tế làm việc tại cơ
quan Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam; được sự hướng dẫn khoa
học của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế, tôi chọn đề tài "Giáo dục pháp luật cho
phụ nữ ở nước ta hiện nay" làm đề tài bảo vệ luận văn Thạc sĩ. Tôi mong
muốn qua luận văn này đưa ra được thực trạng cũng như những kiến nghị, đề
xuất trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho phụ nữ hiện nay.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục pháp luật là một vấn đề mang tính cấp thiết ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học pháp lý
quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố, như:
"Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước
hiện nay", Luận án tiến sĩ của Lê Đình Khiên, 1993; "Xây dựng ý thức và lối
sống theo pháp luật", Đào Trí Úc chủ biên, Hà Nội, 1995; "Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", của Viện
Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội, 1995; "Một số vấn đề
giáo dục pháp luật ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số", Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1996; "Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay", Luận án tiến sĩ
Luật học của Đinh Xuân Thảo, 1996; "Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư
pháp - hình thức đặc thù của giáo dục pháp luật", Luận án tiến sĩ của Dương
Thanh Mai, 1996; "Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta - Thực
trạng và giải pháp", Luận văn Thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng, 1997; "Một số vấn
đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay", của Vụ Phổ biến giáo dục
pháp luật, Bộ Tư pháp, Nxb Thanh niên, 1997; "Bàn về hiệu quả, phổ biến giáo
dục pháp luật của nước ta hiện nay", của GS.TS Hoàng Thị Kim Quế, 2011.
Các công trình nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận
và thực tiễn trong hoạt động giáo dục pháp luật trên nhiều góc độ, tuy nhiên
chưa có nhiều công trình nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về giáo dục pháp
luật cho phụ nữ. Vì vậy với môi trường làm việc thực tế của mình tôi đã chọn
đề này để nghiên cứu với mong muốn đưa ra được một số biện pháp giúp cho
công tác giáo dục pháp luật cho phụ nữ ngày càng hiệu quả.
3. Tổng quan nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên hoạt động thực tiễn trong công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho hội viên, phụ nữ của Hội Liên hiệp

3


phụ nữ Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng, nhu cầu về
trang bị kiến thức pháp luật đối với đối tượng là phụ nữ ở các địa bàn, vị trí khác
nhau từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao kiến thức pháp luật cho
phụ nữ, ý thức chấp hành luật pháp, từng bước thay đổi nhận thức và hành vi
của phụ nữ trong việc thực hiện "sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật".

4. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
4.1. Mục đích
Từ hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam để nghiên cứu thực trạng và đưa ra giải pháp trong việc
giáo dục pháp luật cho phụ nữ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ
- Đưa ra được thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho nhân dân nói
chúng và phụ nữ nói chung trong giai đoạn hiện nay.
- Tìm ra được những mặt được và những mặt còn hạn chế cũng như
nguyên nhân của nó.
- Đưa ra giải pháp khắc phục những hạn chế đó.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm tăng
cường giáo dục pháp luật cho phụ nữ trong giai đoạn hiện nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phương pháp luận trong nghiên cứu là
phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin.

4


5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu thực tế: từ hoạt động thực tiễn của
Hội trong việc giáo dục pháp luật cho hội viên, phụ nữ.
- Tổ chức hội thảo, tọa đàm, phỏng vấn sâu về vấn đề giáo dục pháp
luật cho phụ nữ hiện nay.

- Sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát đối với một số đối tượng
phụ nữ (đề tài được thực hiện dựa trên kết quả khảo sát nghiên cứu tại 6
tỉnh/thành: Hà Nội, Sơn La, Gia Lai, Quảng Ngãi, Trà Vinh và Bình Thuận
với 5 đối tượng được nghiên cứu là: Lãnh đạo Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp,
Cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp, Đại diện một số cơ quan, sở, ban,
ngành, đoàn thể trên địa bàn khảo sát; báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp
luật của Hội công tác tại các cơ quan, ban, ngành địa phương và hội viên, phụ
nữ là nông dân, người dân tộc thiểu số, công nhân, nữ chủ doanh nghiệp và nữ
công nhân viên chức trong các cơ quan nhà nước). Với tổng số phiếu điều tra,
nghiên cứu là: 1.800 phiếu hỏi
+ 240 phiếu dành cho cán bộ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam các cấp,
tỉnh, huyện, xã; Đại diện một số cơ quan, sở, ban, ngành, đoàn thể trên địa
bàn khảo sát; báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật của Hội công tác tại
các cơ quan, ban, ngành địa phương
+ 1.560 phiếu bốn nhóm phụ nữ (phụ nữ là nông dân, lao động giản
đơn; phụ nữ là công nhân; phụ nữ là doanh nhân, nữ tiểu thương; phụ nữ là
cán bộ công chức viên chức: 390 phiếu/nhóm đối tượng).
- Sử dụng các kết quả nghiên cứu từ các đề tài khoa học của Hội, của
các Bộ, ngành liên quan.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về thực trạng công
tác giáo dục pháp luật cho phụ nữ ở nước ta hiện nay.

5


- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản về giáo dục pháp luật
cho phụ nữ.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ vai trò, vị thế của phụ nữ trong công cuộc

đổi mới hiện nay. Trên cơ sở đó góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo
dục pháp luật cho phụ nữ
- Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể sử dụng trong công tác giáo
dục pháp luật cho riêng từng nhóm đối tượng phụ nữ trong cả nước.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục pháp
luật cho Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và hệ thống Hội các cấp.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục
pháp luật đối với các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể trong hệ thống
chính trị xã hội ở Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về giáo dục pháp luật cho phụ nữ.
Chương 2: Thực trạng việc giáo dục pháp luật cho phụ nữ ở nước ta
hiện nay.
Chương 3: Tăng cường giáo dục pháp luật cho phụ nữ nước ta trong
giai đoạn hiện nay - phương hướng và giải pháp.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHỤ NỮ

1.1. KHÁI NIỆM VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHỤ NỮ

1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
Đến nay, khái niệm về giáo dục pháp luật ở nước ta đã được nghiên
cứu một cách tương đối đầy đủ và có hệ thống. Có nhiều quan niệm khác

nhau về khái niệm giáo dục pháp luật. Về cơ bản có các quan niệm sau đây:
- Quan niệm thứ nhất cho rằng, pháp luật là qui tắc xử sự có tính bắt
buộc chung. Mọi công dân đều phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, do đó không
cần đặt vấn đề giáo dục pháp luật. Bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện chức
năng của mình bằng các quy định về quyền và nghĩa vụ thông qua các chế tài
đối với những người tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh.
- Quan niệm thứ hai, đồng nhất hoặc coi giáo dục pháp luật là một bộ
phận của giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức. Chỉ cần thực hiện tốt
quá trình giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức là mọi người đã có ý
thức pháp luật cao, có sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Quan niệm này đã
từng tồn tại trong một thời gian khá dài ở nước ta. Vì vậy, việc đào tạo
chuyên ngành luật chưa thực sự được Nhà nước chú ý, dẫn đến hậu quả là các
cơ sở đào tạo của ngành luật hầu như không có. Mãi đến năm 1979 mới có cơ
sở chuyên ngành đào tạo các luật gia ở bậc đại học và đến những năm 19871988, việc giáo dục pháp luật mới bắt đầu đưa vào chương trình giáo dục ở
bậc phổ thông.
- Quan niệm thứ ba, coi giáo dục pháp luật đồng nhất với việc tuyên
truyền, giới thiệu, phổ biến các văn bản pháp luật. Theo quan niệm này, việc
giáo dục pháp luật thực chất chỉ là các đợt tuyên truyền, cổ động khi có văn

7


bản pháp luật quan trọng mới ban hành như: Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ
luật Dân sự hoặc trước các kỳ bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân
các cấp.
Các quan niệm nói trên còn mang tính phiến diện, một chiều, chưa
thấy hết đặc thù, sự tác động của giáo dục pháp luật, nên đã vô tình hoặc cố ý
hạ thấp vai trò, giá trị xã hội của giáo dục pháp luật. Bởi vì, bản thân pháp
luật mới chỉ là văn bản qui phạm pháp luật, là mô hình ở dạng "tiềm năng".
Pháp luật chỉ thực sự đi vào cuộc sống thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm

các giai đoạn: Ban hành, tuyên truyền giáo dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra
giám sát. Trong cơ chế đó "yếu tố con người là cơ bản và là linh hồn của cơ
chế" [23, tr. 14]. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, con người phải suy
nghĩ, lựa chọn cách xử sự thể hiện qua hành vi. Đây là một quá trình tâm lý
phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Ở giai đoạn
này, qui phạm pháp luật có khả năng tác động lên ý thức của cá nhân như
khuyến khích hành vi hợp pháp hoặc kìm chế hành vi bất hợp pháp. Do đó,
việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cá
nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật. Điều kiện đủ ở đây là cá
nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức đó phải được hình thành dưới
sự tác động liên tục, thường xuyên của các điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân "cho nên công bố đạo luật
này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền, giáo dục
lâu dài mới thực hiện được tốt" [42, tr. 135]. Để xác định đúng đắn khái niệm
giáo dục pháp luật, trước hết cần xuất phát từ khái niệm giáo dục của khoa
học sư phạm. Trong khoa học sư phạm, giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng
và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình ảnh hưởng của nhiều điều
kiện khách quan như: Môi trường sống, chế độ xã hội, trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán... và sự tác động của nhân tố chủ quan
như: Sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và định hướng của con

8


người lên việc hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối
tượng giáo dục.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục, nhằm đạt được
các mục tiêu nhất định như: Truyền bá những kinh nghiệm trong sản xuất,

trong đấu tranh; những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy để khách thể (hay
đối tượng) có đủ khả năng tham gia vào đời sống xã hội.
Trong thực tiễn, tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách
quan là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người, các nhà lý
luận, các nhà khoa học sư phạm vẫn nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu,
cực kỳ quan trọng, thậm chí mang yếu tố quyết định của nhân tố chủ quan
trong giáo dục. Vì thế, khái niệm giáo dục hiện nay thường được hiểu theo
nghĩa hẹp.
Từ những quan niệm trên, giáo dục pháp luật trước hết là một hoạt
động mang đầy đủ tính chất chung của giáo dục, nhưng nó cũng có những nét
đặc thù riêng, phạm vi riêng để tác động lên ý thức con người. Theo cả nghĩa
rộng và nghĩa hẹp của giáo dục, giáo dục pháp luật được hiểu là: Con người
nói chung là khách thể (hay đối tượng) chịu ảnh hưởng và tác động của các
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành nên ý thức, tình cảm
và hành vi pháp luật.
Tóm lại, khái niệm giáo dục pháp luật được hiểu: là hoạt động có định
hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động lên đối tượng
giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi phù
hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
Với khái niệm giáo dục pháp luật như đã nêu trên, trong điều kiện
hiện nay ở nước ta, việc trang bị tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm và thói
quen pháp luật cho mọi công dân là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Trong đó trước hết thuộc về hệ thống

9


các cơ quan có chức năng giáo dục đào tạo nói chung và các cơ quan có chức
năng giáo dục pháp luật của Nhà nước nói riêng.
Giáo dục pháp luật là một trong những mắt xích quan trọng, có ý

nghĩa đặc biệt trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, giáo
dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi
công dân, nhằm phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, như Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ là, tiếp
tục "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [16, tr. 135]. Chúng ta đang từng
bước phấn đấu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong
phương hướng đó, giáo dục pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, vì
đó là khâu đầu tiên để tạo ra tiền đề ý thức cho phương hướng có khả năng trở
thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động
trong công tác giáo dục pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng ý thức pháp luật của cán bộ công chức, nhân dân nói chung
còn thấp. Điều đó đặt ra cho chúng ta sự cần thiết phải nhận thức ý nghĩa
mang tầm chiến lược của công tác giáo dục pháp luật trong suốt cả quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nó là một bộ
phận đặc biệt quan trọng trong chiến lược con người của Đảng và Nhà nước
ta hiện nay.
1.1.2. Khái niệm về giáo dục pháp luật cho phụ nữ
Giáo dục pháp luật cho phu ̣ nữ là mô ̣t phầ n trong giáo du ̣c pháp luâ ̣t
nói chung, tuy nhiên đã đươ ̣c cu ̣ thể hóa về đố i tươ ̣ng đươ ̣c giáo du ̣c . Khác
với nam giới phu ̣ nữ có những đă ̣c điể m riêng về tâm sinh lý , nhâ ̣n thức, trình
đô ̣ rấ t khác nhau gi ữa các vùng , miề n...nên đòi hỏi có sự giáo du ̣c riêng cho
phù hơ ̣p.

10


Từ khái niê ̣m về giáo du ̣c pháp luâ ̣t, chúng ta có thể hiểu rằng giáo dục

pháp luật cho phu ̣ nữ là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của
chủ thể giáo dục, tác động lên phụ nữ nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật,
tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
Như vâ ̣y, viê ̣c giáo du ̣c pháp luâ ̣t cho phu ̣ nữ là mô ̣t hoa ̣t đô ̣ng có đinh
̣
hướng, có tổ chức nghĩa là nó được tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện giáo dục
pháp luật nghiên cứu , đinh
̣ hướng trước nô ̣i dung cầ n giáo du ̣c . Đối tượng
giáo dục ở đây được xác định cụ thể là phụ nữ. Thông qua viê ̣c giáo du ̣c nhằ m
giúp phụ nữ biế t, có ý thức và thực hiện pháp luật.
1.1.3. Mục đích của giáo dục pháp luật cho phụ nữ
Mục đích của giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố tạo nên
cấu trúc bên trong của giáo dục pháp luật. Việc xác định đúng đắn các mục
đích xã hội cần phải đạt được trong quá trình giáo dục pháp luật, có vai trò
quan trọng trong lý luận và thực tiễn giáo dục pháp luật. Bởi vì, các phạm trù,
nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật phần lớn phụ thuộc vào
việc xác định những mục đích xã hội nào được đặt ra trước quá trình giáo dục.
Mục đích của giáo dục pháp luật cho phụ nữ cũng thế, đòi hỏi phải đáp ứng
được các yêu cầu cụ thể của xã hội đối với từng giai đoạn, trong các điều kiện
lịch sử cụ thể. Theo quan điểm chung của nhiều nhà khoa học, giáo dục pháp
luật cho phụ nữ bao gồm các mục đích cơ bản sau đây:
- Mục đích thứ nhất: Hình thành, làm sâu sắc từng bước mở rộng hệ
thống tri thức pháp luật của phụ nữ (mục đích nhận thức). Đây là mục đích
hàng đầu, bởi vì, chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về giá trị
xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để hình
thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật ở mỗi công dân nói chung và phụ nữ
nói riêng. Hơn nữa, tri thức pháp luật còn giúp cho con người tổ chức một
cách có ý thức hoạt động của mình và tự đánh giá kiểm tra, đối chiếu hành vi
với các chuẩn mực pháp luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều


11


kiện như nước ta hiện nay, khi mà hiểu biết pháp luật của phụ nữ còn thấp,
còn chịu ảnh hưởng tư tưởng và nếp sống của người sản xuất nhỏ , nhận thức
về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ . Mặt khác, công tác giáo dục
pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho phụ nữ chưa được coi trọng
dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông lỏng, làm giảm hiệu lực của pháp luật;
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Do đó, từ Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công
tác giáo dục pháp luật:
Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật... Cán
bộ quản lý các cấp từ Trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản
lý hành chính và hiểu biết về pháp luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện
pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân
dân [12, tr. 121];
"Thường xuyên giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc
theo pháp luật" [13, tr. 92];
"Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường
pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn dân, nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật" [16, tr. 135].
- Mục đích thứ hai: Hình thành ý thức và lòng tin của phụ nữ đối với
pháp luật (mục đích cảm xúc). Mục đích này rất quan trọng, vì nếu có tri thức
pháp luật mà không có ý thức tôn trọng và lòng tin vào pháp luật cũng như
các cơ quan bảo vệ pháp luật thì phụ nữ rất dễ hành động chệch khỏi các
chuẩn mực pháp luật vì lợi ích riêng tư. Nội hàm của mục đích cảm xúc đạt
được thông qua việc: Một là, giáo dục tình cảm công bằng, biết xác định các
tiêu chuẩn đánh giá tính công bằng của pháp luật, biết đối xử với người khác
và với chính mình bằng các tiêu chuẩn công bằng thể hiện qua các qui phạm
pháp luật. Hai là, giáo dục tình cảm, trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật

của người phụ nữ ở mọi nơi mọi lúc. Phê phán, lên án những biểu hiện coi

12


thường pháp luật, các hành vi phạm pháp. Đồng thời ủng hộ và tích cực tham
gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Có được tình cảm trên, phụ nữ sẽ
có được lòng tin vững chắc vào sự cần thiết tuân theo những qui phạm pháp
luật. Khi đã có lòng tin vào pháp luật, phụ nữ sẽ có những hành vi hợp pháp
và luôn có ý thức thức giúp người khác thực hiện đúng pháp luật.
- Mục đích thứ ba: Hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự
theo pháp luật (mục đích hành vi). Đây cũng là một mục đích rất quan trong
trong việc giáo dục pháp luật cho phụ nữ. Động cơ và hành vi hợp pháp là kết
quả cuối cùng của cả quá trình nhận thức pháp luật, đấu tranh nội tâm dưới
tác động của những yếu tố tâm lý, tình cảm, lòng tin... Từ mục đích nhận thức
được pháp luật giúp cho người phụ nữ có ý thức chấp hành pháp luật, biết
được quyền nghĩa vụ của họ mà pháp luật quy định đồng thời có những kiến
thức, kỹ năng cơ bản để bảo vệ mình trước pháp luật. Khi đã được trang bị
những kỹ năng cần thiết về pháp luật sẽ giúp phụ nữ hình thành thói quen xử
sự hợp pháp đó là: tuân thủ các quy phạm hướng dẫn của pháp luật, thực hiện
đúng các quyền và nghĩa vụ pháp lý và áp dụng các tri thức pháp luật, các quy
phạm pháp luật cụ thể để bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình,
của người khác, của Nhà nước và của xã hội.
Việc phân chia các mục đích giáo dục pháp luật trên đây chỉ mang
tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ đan xem qua lại trong mối liên hệ
hữu cơ thống nhất. Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác; từ tính tự giác đến
tính tích cực; từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. Ngược lại,
khi có thói quen xử sự theo pháp luật thì lòng tin, tình cảm pháp luật lại được
củng cố. Do đó, khi tiến hành giáo dục pháp luật cho phụ nữ đều phải hướng
hoạt động vào cả ba mục đích trên.

Việc xác định mục đích của giáo dục pháp luật cho phụ nữ trong quá
trình giáo dục pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trong lý luận lẫn
thực tiễn giáo dục pháp luật. Việc xác định đúng hay không đúng mục đích

13


của giáo dục pháp luật sẽ dẫn đến chất lượng tốt hay không tốt tới giáo dục
pháp luật.
1.1.4. Nội dung và hình thức của giáo dục pháp luật cho phụ nữ
1.1.4.1. Nội dung của giáo dục pháp luật cho phụ nữ
Nội dung giáo dục pháp luật phụ nữ được xác định trên cơ sở ba mục
đích của giáo dục pháp luật cho phụ nữ nói trên, đó là sự hình thành cho
người phụ nữ có nhận thức về hệ thống tri thức pháp luật từ đó xây dựng tình
cảm, lòng tin và thói quen hành động phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Nội
dung giáo dục pháp luật cho phụ nữ là một thành tố quan trọng của quá trình
giáo dục pháp luật, nó được xác định trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ và đồng
thời xuất phát từ nhu cầu, đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật. Xác
định đúng nội dung của giáo dục pháp luật cho phụ nữ sẽ bảo đảm cho chất
lượng của việc giáo dục pháp luật cho phụ nữ có hiệu quả cụ thể, thiết thực.
Phạm vi của nội dung giáo dục pháp luật theo quan điểm chung hiện
nay bao gồm:
- Các thông tin về pháp luật, gồm cả kiến thức cơ bản và văn bản pháp
luật thực định.
- Các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình vi phạm pháp
luật và tội phạm, về việc điều tra xử lý các vi phạm pháp luật.
- Các thông tin về kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học về thực hiện
áp dụng pháp luật đối với đời sống kinh tế xã hội, đối với từng đối tượng, các
tầng lớp dân cư. Đồng thời phản ánh những nhu cầu, nguyện vọng, ý kiến, đề
xuất của nhân dân, của các chuyên gia pháp luật trong việc xây dựng và hoàn

thiện pháp luật.
- Các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân (như
các quyền, các nghĩa vụ pháp luật, các quy trình thủ tục để bảo vệ các quyền
hợp pháp).

14


Từ phạm vi nội dung giáo dục pháp luật nêu trên, trong thực tiễn của
giáo dục pháp luật cho phụ nữ ở nước ta hiện nay mới chú trọng đến việc
cung cấp những kiến thức cơ bản liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ
của người phụ nữ. Tùy theo từng nhóm đối tượng phụ nữ, tùy vào công việc,
vị trí xã hội mà người phụ nữ đảm nhiệm cũng có những nhu cầu khác nhau
về kiến thức pháp luật. Việc giáo dục pháp luật cho phụ nữ cũng cần lưu ý tới
những đặc điểm của nội dung giáo dục pháp luật. Đó là trạng thái động của
các thông tin trong nội dung giáo dục pháp luật. Những đặc điểm này cần
được nhận thức đầy đủ đối với những người làm công tác giáo dục pháp luật.
Trên cơ sở đó họ lựa chọn phương pháp tiếp cận tới nội dung giáo dục pháp
luật của từng đối tượng một cách phù hợp, giúp cho đối tượng giáo dục có
cách nhìn nhận đúng đắn, biện chứng về quá trình hoàn thiện pháp luật, đưa
pháp luật vào cuộc sống, cũng như những điểm mâu thuẫn và thống nhất của
tiến trình đổi mới, phát triển khoa học pháp lý và pháp luật thực định ở nước ta.
Những nội dung chủ yếu của giáo dục pháp luật cho phụ nữ ở nước ta
giai đoạn hiện nay, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, được xác định theo những
mức độ, tầng cấp độ khác nhau tùy theo từng nhóm đối tượng. Căn cứ vào
nhu cầu và vị trí xã hội của người phụ nữ, người ta phân định nội dung giáo
dục pháp luật thành ba mức, cấp độ khác nhau sau đây:
Một là, mức độ tối thiểu về giáo dục pháp luật phổ cập cho mọi công
dân trong đó có phụ nữ. Sống trong một xã hội được quản lý bằng pháp luật
thì mỗi phụ nữ phải có những hiểu biết tối thiểu về pháp luật và có những kỹ

năng tối thiểu để sử dụng pháp luật nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
và thực hiện nghĩa vụ của mình.
Hai là, mức độ giáo dục pháp luật theo nhu cầu ngành nghề của những
phụ nữ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế kỹ thuật, văn hóa xã hội. Họ cần
những hiểu biết và kỹ năng sử dụng pháp luật ở mức độ cao hơn, mang tính
định hướng nghề nghiệp rõ hơn thì ngoài những khái niệm pháp lý cơ bản

15


thường gặp trong thực tiễn, nội dung giáo dục pháp luật theo ngành nghề còn
bao gồm một số luật thực định, liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động của
đối tượng. Các quyền và nghĩa vụ công dân trong lĩnh vực hoạt động và các
trình tự giải quyết các tranh chấp phổ biến liên quan trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Ba là, mức độ giáo dục chuyên luật, đây là mức độ cao nhất của nội
dung giáo dục pháp luật, nhằm mục đích đào tạo cho phụ nữ là các luật gia, cán
bô ̣ làm công tác pháp luâ ̣t trong bộmáy nhà nước và các tổ chức mang tính nghề
nghiệp về pháp luật. Sự hiểu biết của đối tượng này bao gồm cả những quan
điểm, những học thuyết về nhà nước và pháp luật trong lịch sử và hiện tại.
Những hiểu biết tương đối toàn diện về hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế
trong lĩnh vực chuyên sâu của từng người (về hình sự, về dân sự, về kinh tế, về
hôn nhân gia đình, về luật quốc tế,...). Kỹ năng của nhóm phụ nữ này không chỉ
dừng lại ở việc tuân thủ pháp luật mà chủ yếu là vận dụng chính xác, linh hoạt
các quan hệ pháp luật vào việc xử lý, giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp
luật (hoặc tư vấn cho việc giải quyết các vấn đề về pháp luật, như các tranh
chấp, các vi phạm pháp luật...). Kỹ năng quan trọng và đặc thù của đối tượng
là sáng tạo pháp luật, là khả năng tham gia vào việc hoàn thiện pháp luật.
Từ việc xác định phạm vi, đặc điểm và các mức độ yêu cầu về nội
dung giáo dục pháp luật cho phụ nữ có thể thấy rằng: Không thể có một hình
thức hay một chủ thể giáo dục pháp luật riêng biệt có thể đáp ứng được tất cả

các yêu cầu, nội dung để đạt tới mục tiêu giáo dục pháp luật chung cho mọi
đối tượng phụ nữ. Do đó cần phải có sự phối hợp nhiều hình thức, phương
tiện, chương trình, mục tiêu giáo dục pháp luật của các chủ thể khác nhau để
hỗ trợ, bổ sung cho nhau nhằm đạt được mục đích của giáo dục pháp luật mà
nội dung giáo dục pháp luật đề ra.
1.1.4.2. Hình thức giáo dục pháp luật cho phụ nữ
Mục đích và nội dung của giáo dục pháp luật cho phụ nữ không thể tự
thân đi vào nhận thức, tình cảm của mỗi phụ nữ được giáo dục pháp luật, mà

16


phải qua những kênh chuyển tải thông tin, là các dạng hoạt động cụ thể để tổ
chức quá trình giáo dục pháp luật, thể hiện nội dung giáo dục pháp luật. Các
dạng hoạt động cụ thể đó phải phù hợp với khả năng tiếp cận của từng đối
tượng. Do đó, hiệu quả của giáo dục pháp luật không chỉ phụ thuộc vào việc
xác định đúng mục đích và nội dung giáo dục pháp luật mà còn phụ thuộc vào
việc xác định đúng hình thức giáo dục pháp luật. Có nhiều quan niệm khác
nhau về hình thức giáo dục pháp luật. Xuất phát từ giáo dục học, khái niệm
hình thức giáo dục được hiểu là: Các hình thức tổ chức hoạt động phối hợp
giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh nội dung giáo
dục và đạt mục đích giáo dục. Trên cơ sở của khái niệm này, hình thức giáo
dục pháp luật được coi là các dạng cụ thể, có tổ chức phối hợp giữa chủ thể
giáo dục pháp luật và đối tượng giáo dục pháp luật để thể hiện nội dung giáo
dục pháp luật và đạt mục đích giáo dục pháp luật. Từ khái niệm hình thức
giáo dục pháp luật, người ta còn phân chia hình thức giáo dục pháp luật ra
thành nhiều loại khác nhau. Qua thực tiễn cũng như qua nghiên cứu lý luận về
nguyên tắc, nội dung, chủ thể, đối tượng giáo dục pháp luật, hình thức giáo
dục pháp luật được chia làm hai loại:
- Các hình thức giáo dục pháp luật cho phụ nữ mang tính phổ biến,

truyền thống của giáo dục chính trị tư tưởng như: phổ biến, nói chuyện pháp
luật tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức quần chúng, các địa bàn dân cư;
các hội nghị, hội thảo pháp luật; các câu lạc bộ pháp luật; các đội thông tin cổ
động pháp luật; các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền qua báo chí và
các phương tiện thông tin đại chúng khác; các hình thức văn học nghệ thuật;
thông qua sinh hoạt hội viên; dạy và học pháp luật trong các nhà trường.
- Các hình thức giáo dục pháp luật đặc thù như: Các hoạt động định
hướng giáo dục pháp luật trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp
của các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và Viện kiểm sát);
giáo dục pháp luật qua các hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức nghề
nghiệp, tổ chức quần chúng (tổ hòa giải, tư vấn pháp lý...).

17


1.1.5. Chủ thể, khách thể, đối tƣợng giáo dục pháp luật cho phụ nữ
1.1.5.1. Chủ thể giáo dục pháp luật cho phụ nữ
Theo lý luận giáo dục học thì chủ thể giáo dục là thầy cô giáo và tất cả
những người làm công tác giáo dục khác. Vận dụng vào giáo dục pháp luật,
có thể hiểu: Chủ thể giáo dục pháp luật cho phụ nữ là tất cả những người mà
theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực
hiện các mục đích giáo dục pháp luật cho phụ nữ. Các nghiên cứu lý luận và
thực tiễn đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể giáo dục pháp luật: chủ
thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp với vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu
trình độ và kỹ năng giáo dục pháp luật khác nhau. Từ đó, có các hình thức,
phương thức và phương pháp tiến hành hoạt động giáo dục pháp luật khác nhau.
Chủ thể chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những người mà chức
năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp của họ là thực hiện các mục đích, nội dung
giáo dục pháp luật (giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên về
pháp luật...).

Chủ thể không chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những người mà
chức năng chính không phải là giáo dục pháp luật, nhưng một trong các
nhiệm vụ của họ là thông qua hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện
mục đích giáo dục pháp luật (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân,
cán bộ, công chức thuộc các cơ quan hành pháp, tư pháp...).
Tóm lại, chủ thể giáo dục pháp luật cho phụ nữ được hiểu là tất cả
những người mà theo chức năng hay theo trách nhiệm xã hội, đã tham gia góp
phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục pháp luật cho phụ nữ.
1.1.5.2. Khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật cho phụ nữ
Khách thể theo quan niệm chung nhất là "đối tượng chịu sự tác động,
chi phối của hành động trong quan hệ đối lập với đối tượng gây ra hành động
gọi là chủ thể". Từ quan niệm chung đó có thể đồng nhất khách thể với đối
tượng chịu sự tác động. Trong lý luận giáo dục người ta cho rằng: Khách thể

18


×