Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA

NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA

THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2012

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA

THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Ts. Bùi Ngọc Cƣờng

Hà Nội - 2012
1


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

1

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

6

MỞ ĐẦU

7

CHƢƠNG 1: KHÁI LUẬN VỀ PHÁ SẢN VÀ THẨM QUYỀN CỦA
TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN

13

1.1. Khái quát về phá sản doanh nghiệp

13

1.1.1. Giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp – Thủ tục thanh toán nợ


13

1.1.1.1. Thủ tục phá sản là thủ tục thanh toán nợ tập thể

17

1.1.1.2. Thủ tục thanh toán nợ trong phá sản được tiến hành thông
qua cơ quan đại diện có thẩm quyền

19

1.1.1.3. Thủ tục thanh toán nợ trong vụ phá sản được tiến hành trên
cơ sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp

20

1.1.1.4. Thủ tục thanh toán nợ trong giải quyết yêu cầu phá sản chỉ được tiến
hành sau khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

21

1.1.1.5. Thanh toán nợ trong phá sản là thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp 22
1.1.2. Các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng phá sản

23

1.1.2.1. Chủ thể yêu cầu giải quyết phá sản

23


1.1.2.2. Chủ thể có thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

32

1.1.3. Các giai đoạn của giải quyết phá sản

40

1.2. Khái quát về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp

43

1.2.1. Cơ sở xác định thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp

43
2


1.2.1.1. Xuất phát từ bản chất của hiện tượng phá sản

44

1.2.1.2. Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Tòa án trong hệ thống cơ quan
nhà nước

45


1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc quy định thẩm quyền của Tòa án
trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

46

1.2.2.1. Điều kiện kinh tế

46

1.2.2.2. Trình độ văn hóa và ý thức pháp luật của các chủ nợ và con nợ khi
tham gia thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

49

1.2.2.3. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Tòa án mà đại diện là Thẩm phán 49
1.2.3. Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết phá sản theo quy định pháp
luật một số nước trên thế giới

50

1.2.3.1. Nhật Bản

51

1.2.3.2. Hoa Kỳ

52

1.2.3.3. Pháp


53

CHƢƠNG 2: THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI
QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP THEO QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH – THỰC TIỄN
ÁP DỤNG

56

2.1. Những quy định pháp luật hiện hành về thẩm quyền của Tòa án trong
giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

56

2.1.1. Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

56

2.1.2. Thẩm quyền của Tòa án trong giai đoạn thụ lý đơn yêu cầu và mở thủ
tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

59

2.1.3. Thẩm quyền của Tòa án trong giai đoạn phục hồi hoạt động sản xuất,
kinh doanh

69

2.1.3.1. Về thành phần tham gia Hội nghị chủ nợ


70

2.1.3.2. Triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ

71

3


2.1.3.3. Xem xét thông qua phương án phục hồi

73

2.1.3.4. Giám sát việc thực hiện phương án phục hồi

74

2.1.3.5. Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh

75

2.1.4. Thẩm quyền của Tòa án trong giai đoạn thanh lý tài sản, các khoản nợ

76

2.1.4.1. Các trường hợp Tòa án có thẩm quyền ra quyết định mở thủ tục thanh lý

77

2.1.4.2. Giải quyết khiếu nại, kháng nghị


80

2.1.4.3. Xác định nghĩa vụ tài sản

81

2.1.4.4. Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý

83

2.1.5. Thẩm quyền của Tòa án trong giai đoạn tuyên bố doanh nghiệp phá sản 84
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa
án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

87

2.2.1. Áp dụng quy định pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong giải
quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

87

2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót trong việc áp dụng quy định pháp luật về
thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

92

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN
CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN

DOANH NGHIỆP

105

3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền của
Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

105

3.2. Một số giải pháp cụ thể

108

3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về phá sản doanh nghiệp nói
chung và Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh
nghiệp nói riêng

108

4


3.2.2. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với ngành Tòa án để Tòa án thực
hiện có hiệu quả thẩm quyền của mình trong giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp

114

3.2.3. Đối với cơ quan nhà nước


116

3.2.4. Hoàn thiện quy định pháp luật liên quan giúp Tòa án giải quyết hiệu
quả yêu cầu phá sản doanh nghiệp

117

KẾT LUẬN

119

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

121

5


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. LPS

: Luật phá sản

2. LPS 2004

: Luật phá sản năm 2004

3. LPSDN 1993: Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993


6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thủ tục phá sản thường chỉ được biết đến như một thủ tục đòi nợ tập
thể, trong đó mục tiêu quan trọng nhất là bảo vệ và bảo đảm công bằng cho
các chủ nợ, quyền lợi của doanh nghiệp bị phá sản là vấn đề được cân nhắc
sau, thậm chí pháp luật phá sản còn trừng phạt đối với doanh nghiệp bị phá
sản. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, Viê ̣t Nam
cũng như đa số các nước trên thế giới , đều quan tâm xây dựng chế định pháp
luâ ̣t về phá sản với mu ̣c tiêu ha ̣n chế đế n mức thấ p nhấ t những hâ ̣u quả do phá
sản gây ra, bảo vệ quyền, lơ ̣i ić h hơ p̣ pháp của các bên tham gia quan hê ̣ kinh
tế trước các rủi ro trong kinh doanh, từ đó góp phầ n ổ n đinh
̣ trâ ̣t tự xã hô ̣i.
Quá trình giải quyết phá sản là quá trình tương đối phức tạp với sự
tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, trong số các chủ thể này, Tòa án được
biết đến như là một chủ thể có vị trí trung tâm, thẩm quyền quan trọng ảnh
hưởng đến việc giải quyết phá sản.
Ý thức được tầm quan trọng c ủa Luật phá sản (sau đây được viết tắt là
LPS) nói chung và chế định về thẩ m quyề n của Tòa án trong giải quy ết phá
sản nói riêng , Đa ̣o Luâ ̣t P há sản đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam được thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1993 với tên go ̣i Luâ ̣t
Phá sản doanh nghiệp (sau đây viết tắt là LPSDN 1993) đã quy đinh
̣ cu ̣ thể về
thẩ m quyề n của Tòa án trong giải quyế t phá sản . Song trong quá triǹ h thực thi
còn nhiều bất cập , không phù hơ ̣p với thực tế khách quan , ngày 15 tháng 6
năm 2004 Luâ ̣t phá sản (sau đây được viết tắt là LPS 2004) đã ra đời thay thế
7



LPSDN 1993. Tuy nhiên, do đươ ̣c ban hành trong điề u kiê ̣n nước ta đang xây
dựng nề n kinh tế thi ̣trường đinh
̣ hướng xã hô ̣i chủ nghiã , các quan hệ xã hội
có nhiều biến động , hê ̣ thố ng pháp luâ ̣t lại chưa đồng bộ nên sau thời gian
thực hiê ̣n , quy đinh
̣ pháp luâ ̣t về thẩ m quyề n của Tòa án trong giải quyế t yêu
cầ u phá sản còn bô ̣c lô ̣ nhiề u bấ t câ. ̣p
Để bảo vệ một cách có hiệu quả nhất quyền và lợi ích chính đáng của
các chủ nợ, người lao động, đồng thời bảo vệ lợi ích của con nợ, thúc đẩy
hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nâng cao vai trò chủ đa ̣o của Tòa
án trong giải quyết phá sản thì v ấn đề hoàn thiện pháp luật phá sản nói chung
và các quy định về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản
nói riêng ngày càng trở nên cấp bách. Muốn thực hiện được những điều đó
cần phải có những nghiên cứu đánh giá tổ ng thể về lý luận cũng như thực tiễn
hoạt động của Tòa á n trong giải quyế t phá sả n từ đó tiế n hành điề u chỉnh , bổ
sung văn bản pháp luâ ̣t ta ̣o khung pháp lý nhằ m phát huy mô ̣t cách có hiê ̣u
quả nhất thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết phá sản. Đó cũng chính là lý
do người viết chọn đề tài: “Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu
phá sản doanh nghiệp” làm đề tài Luận văn cao ho ̣c của miǹ h.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ khi được ban hành đến nay, LPS đã được tìm hiểu, nghiên cứu dưới
rất nhiề u góc đ ộ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trước đây
thường mới chỉ đề cập, bàn luận đến các vấn đề pháp lý cơ bản về phá sản
hoặc nghiên cứu các thủ tục cụ thể về quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản, về phục hồi doanh nghiệp, xử lý nợ của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản v.v…

8



Chẳng hạn như: Bài viết “Đi tìm triết lý của Luật Phá sản”, của tác giả
Phạm Duy Nghĩa trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp năm 2003 nêu lên sự cầ n
thiế t của LPS, mô ̣t số kiế n nghị đối với LPS;
Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2004 của Tòa án nhân dân Tối cao: “Cơ sở
lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của Luật Phá sản về thủ tục phá
sản” Do Tiến sĩ Nguyễn Văn Dũng – Phó Viện trưởng Viện khoa học xét xử
Tòa án nhân dân Tối cao làm chủ nhiệm đề tài.
Luận án Tiến sĩ Luật học “Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới
góc độ Luật so sánh và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Trương Hồng
Hải bảo vệ năm 2004 tại Đại học Luật Hà Nội. Luận án đã có những nghiên
cứu, đánh giá LPSDN 1993 trong mối quan hệ so sánh với LPS của các nước
đồng thời rút ra những kết luận về những điểm tương đồng hay khác biệt giữa
các mô hình pháp luật phá sản này.
Công trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam”, của PGS.TS
Dương Đăng Huệ là công trình nghiên cứu và đánh giá một cách đầy đủ và
toàn diện về các vấn đề liên quan đến phá sản, công trình đã có sự chú ý đến
các chủ thể tham gia thủ tục phá sản. Tuy nhiên, vì là một công trình bao quát
nên không thể nghiên cứu một cách chi tiết, sâu rộng về Thẩm quyền của Tòa
án với tư cách là một chủ thể đặc biệt trong tố tụng phá sản.
Báo cáo “Đánh giá thực trạng thực hiện, nghiên cứu, phân tích để
khuyến nghị hoàn thiện Luật Phá sản doanh nghiệp và các quy định pháp luật
có liên quan” của Bộ Tư pháp năm 2009 nêu lên vấ n đề ch ung về pháp luâ ̣t
phá sản , tình hình ban hành văn bản hướng dẫn và kết quả

thực hiê ̣n LPS

2004 và từ đó nêu lên kiến nghị hoàn thiện LPS 2004.
Luận án Tiến sĩ Luật học của Vũ Thị Hồng Vân bảo vệ tại khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài: “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo

9


quy định của pháp luật phá sản Việt Nam”. Luận án đã tập trung nghiên cứu
về thủ tục quản lý và xử lý tài sản phá sản, từ đó có phân tích, đánh giá những
bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật.
Tác phẩm: “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục phá sản doanh nghiệp ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, là Luận văn Thạc sỹ Luật học năm 2009
của tác giả Trần Thị Thu Trang. Luận văn cũng đã đề cập đến việc hoàn thiện
quy định pháp luật về vai trò của Tòa án trong giải quyết phá sản nhưng Luận
văn chưa nêu được cơ sở lý luận và thực trạng các quy định pháp luật về vấn
đề này.
Ngoài ra, có nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo khoa học có liên
quan đến vấn đề phá sản như: Hội thảo chuyên đề LPS – thực tiễn, vướng
mắc, kiến nghị của Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
năm 2006; Hội thảo đánh giá việc thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự và LPS
của Tòa án nhân dân Tối cao năm 2007 v.v… Những công trình nghiên cứu
này tiếp cận LPS dưới nhiều góc độ (quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham
gia quan hệ tố tụng phá sản, nghiên cứu các giai đoạn của thủ tục phá sản)
nhưng việc tìm hiểu về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầ u phá
sản còn rất ít hoặc chưa hệ thống. Vì vậy, nằm trong yêu cầu sửa đổi, bổ sung
các quy định của LPS thì việc nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm sáng tỏ những cơ sở lý
luận, sự cần thiết phải xây dựng quy định pháp luật về thẩm quyền của Tòa án
trong giải quyết phá sản. Qua đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị để xây dựng
và hoàn thiện những quy định về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu
cầ u phá s ản với mong muốn nhà làm luật sẽ tạo ra một chế định pháp lý để

10



Tòa án phát huy được vai trò của mình trong giải quyết phá sản, nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan cũng như duy trì trật tự xã hội.
Để thực hiện mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền
của Tòa án trong giải quyết yêu cầ u phá sản doanh nghiê ̣p;
- Đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn thi hành quy định pháp luật
Việt Nam hiện hành về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầ u phá
sản doanh nghiê ̣p;
- Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền của Tòa
án trong giải quyết yêu cầ u phá sản doanh nghiê ̣p.
4. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
LPS có nội dung đa dạng, phức tạp, đề cập rất nhiều vấn đề, nhiều quan
hệ tố tụng. Đề tài: Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp – Là đề tài hẹp, do đó phạm vi nghiên cứu của Luận văn chỉ tập
trung nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến thẩm quyền của Tòa án
trong giải quyết phá sản, còn về phương diện luật thực định chủ yếu tập trung
nghiên cứu các quy định về thẩm quyền của Tòa án và vấn đề thực thi các quy
định đó trên thực tế mà không nghiên cứu các mối quan hệ tố tụng khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu vấn đề
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin về kinh tế, quản lý nói
chung và về pháp luật nói riêng để giải quyết những vấn đề lý luận trên cơ sở
điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Bên cạnh đó, Luận văn cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: Phương pháp phân tích, tổng hợp mang lại cho Luận văn một cái nhìn
11



tổng quát về vấn đề nghiên cứu và làm cho Luận văn có chiều sâu, có sự kết
hợp lý luận và thực tiễn.
Phương pháp lịch sử, so sánh được sử dụng song hành trong quá trình
nghiên cứu và chỉ khi đặt quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền
của Tòa án trong giải quyết phá sản trong mối liên hệ với quy định pháp luật
của một số nước, pháp luật Việt Nam thời kỳ trước đó và với cả thực tiễn về
vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết phá sản ta mới thấy được
những tiến bộ cũng như hạn chế của quy định pháp luật Việt Nam hiện hành
về quy định này.
6. Những đóng góp mới của Luận văn
Đề tài nêu lên những vấn đề lý luận và thực tiễn về thẩm quyền của Tòa
án trong giải quyết phá sản, đồng thời đánh giá những tiến bộ và hạn chế của
pháp luật Việt Nam liên quan đến chế định này làm cơ sở cho việc hoàn thiện
pháp luật phá sản nói chung và pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong giải
quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp nói riêng.
7. Nội dung Luận văn gồm các phần như sau:
Ngoài lời mở đầ u , kế t luâ ̣n và danh mu ̣c tà i liê ̣u tham khảo , Luận văn
gồ m 3 chương và đươ ̣c kế t cấ u như sau:
Chương 1: Khái luận về phá sản và thẩm quyền của Tòa án trong giải
quyết yêu cầ u phá sản doanh nghiệp
Chương 2: Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành – thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp.
12


CHƢƠNG 1:
KHÁI LUẬN VỀ PHÁ SẢN VÀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN

TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN
1.1. Khái quát về phá sản doanh nghiệp
1.1.1. Giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp – Thủ tục thanh toán nợ
Ý chí có vai trò rất quan trọng đối với giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại, là yếu tố cơ bản không thể thiếu để hình thành, thực hiện và
chấm dứt giao dịch dân sự, kinh doanh – thương mại, từ đó làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể trong giao dịch đó.
Tự do ý chí có giá trị nổi bật đó là sự hạn chế sự can thiệp của công
quyền vào tự do cá nhân và ý tưởng tự do ý chí ra đời thực sự nhằm tới mục
tiêu mở rộng tối đa các quyền tự do đối với tài sản, các lợi ích của cá nhân và
thu hẹp tối đa sự can thiệp của cơ quan nhà nước vào khu vực tư nhân. Tuy
nhiên, kinh tế sẽ không thể phát triển nếu các thỏa thuận được lập ra một cách
tự do, chính vì vậy nhà nước cần có sự can thiệp vào khu vực quyền lợi tư. Sự
can thiệp của nhà nước vào khu vực quyền lợi tư là rất cần thiết bởi các lý do sau:
Sự hạn chế bớt tự do ý chí xuất phát từ nhu cầu bảo vệ người yếu thế
trong xã hội trong một giao dịch cụ thể. Đây cũng chính là lý do, mà việc giải
quyết các tranh chấp trong dân sự, kinh doanh – thương mại hầu hết cần có sự
can thiệp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Sự can thiệp của nhà nước vào khu vực quyền lợi tư là do nhu cầu cân
đối lợi ích của cá nhân với lợi ích chung của cộng đồng. Một mặt con người
13


cần được tự do để phát triển đầy đủ và toàn diện đúng với mục đích sống của
chính mình, nhưng cộng đồng cũng cần được duy trì và phát triển để trở thành
cái nôi thực sự nuôi dưỡng cho các ước mơ chung của con người và mỗi cá
nhân. Ngoài ra, sự hạn chế bớt tự do ý chí trong giao dịch dân sự, kinh doanh
thương mại còn do nhu cầu phát triển kinh tế có trật tự và đúng hướng theo sự
lựa chọn chung của toàn thể quốc gia.
Mặt khác, theo Chủ nghĩa Mác – Lê Nin đã khẳng định thì cái ý chí
được nâng lên thành luật không phải từ trên trời rơi xuống hay từ dưới đất

mọc lên trong đầu các nhà làm luật một cách ngẫu nhiên, tùy tiện mà bản thân
nó được quy định bởi các điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị
mà đại diện trực tiếp của nó là nhà lập pháp. Điều này giải thích tại sao, cùng
là quy định về việc Tòa án có thẩm quyền đại diện cho nhà nước trong giải
quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp nhưng tên gọi, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Tòa án ở các nước có nền kinh tế khác nhau được quy định là
khác nhau.
Ngoài những lý do trên thì sự can thiệp của nhà nước trong giải quyết
phá sản doanh nghiệp còn xuất phát từ viê ̣c giải quyết yêu cầu phá sản doanh
nghiệp là vấn đề rất phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội
khác nhau. Đó là việc:
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản gây nên tình trạng thất nghiệp
của những người làm công ăn lương ở các doanh nghiệp bị phá sản đồng thời
việc doanh nghiệp bị phá sản còn gây ra rất nhiều hậu quả xấu cho xã hội.
Mỗi khi doanh nghiệp bị phá sản thì các doanh nghiệp làm ăn cùng doanh
nghiệp phá sản đó cũng bị ảnh hưởng theo phản ứng dây chuyền.
+ Bên cạnh đó, trong quá trình sản xuất, kinh doanh mỗi khi thiếu vốn
thì doanh nghiệp phải vay tiền của ngân hàng, phải thế chấp tài sản, chính vì
14


vậy phá sản còn liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, lĩnh vực dân sự (cầm cố,
thế chấp, kinh doanh nhà đất) v.v…
+ Mỗi công dân muốn đứng ra kinh doanh cần phải xin phép cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và phải chịu thuế theo luật định, còn khi phá sản thì
phải báo các cơ quan có trách nhiệm để khỏi phải nộp thuế và chịu các nghĩa
vụ xã hội khác. Việc pháp luật quy định điều kiện để “khai sinh” doanh
nghiệp nên cũng quy định cả những điều kiện để “khai tử” chúng là hoàn toàn
đúng đắn.
Thanh toán nợ có nghĩa chung nhất là bán tài sản của người mắc nợ để

thanh toán cho các chủ nợ. Chủ nợ và con nợ hoàn toàn có quyền thỏa thuận
để dàn xếp việc trả nợ và lấy nợ bằng nhiều cách khác nhau như xóa nợ, hoãn
nợ, chuyển đổi nợ thành vốn góp v.v…
Một nguyên tắc chung trong giao dịch dân sự là con nợ - nợ tài sản của
chủ nợ thì phải có nghĩa vụ trả nợ và ngược lại chủ nợ cho con nợ - vay thì có
quyền đòi nợ. Tuy nhiên, thủ tục thanh toán nợ trong giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp còn được xây dựng trên quan niệm: Trong nền kinh tế cạnh
tranh cao, một doanh nghiệp không thể cạnh tranh sẽ mất vị trí và phải rời
khỏi thương trường. Dấu hiệu để xác định một doanh nghiệp mấ t khả năng
cạnh tranh chính là việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, để giải
quyết việc phá sản của doanh nghiêp này một cách nhanh chóng, hiệu quả thì
thủ tục thanh toán nợ đó vừa mang tính dân sự, kinh tế vừa phải mang tính tập
thể, các chủ nợ được đối xử công bằng, và quyết định đó có hiệu lực ràng
buộc với cả chủ nợ và con nợ. Khi phải giải quyết mối quan hệ nợ nần giữa
một con nợ với nhiều chủ nợ ở trạng thái mà sản nghiệp còn lại của con nợ
không còn đủ để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với tất cả các chủ nợ, thì thủ tục dân
sự lại có một số khiếm khuyết như:
15


Thứ nhất, trường hợp một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
thường có rất nhiều chủ nợ. Nếu sử dụng thủ tục lấy nợ trong dân sự thì sẽ có
sự xuất hiện đồng thời của nhiều vụ kiện dân sự trên thực tế và Tòa án không
thể thụ lý và giải quyết hết được, mặt khác chi phí đòi nợ lớn có thể làm tiêu
hao sản nghiệp vốn đã còn ít ỏi của con nợ và trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích
của các chủ nợ.
Thứ hai, thủ tục đòi nợ trong dân sự chỉ cho phép chủ nợ thực hiện quyền
đòi nợ của mình khi khoản nợ đã đáo hạn. Vì vậy, khi các khoản nợ không
đáo hạn cùng một lúc sẽ dẫn đến tình trạng “lo lắng” của các chủ nợ có các
khoản nợ đáo hạn sau khi mà họ nhìn thấy sản nghiệp của con nợ đã không

còn hoặc còn rất ít và chắc chắn sẽ không đủ để thực hiện nghĩa vụ thanh toán
đối với mình. Ngay cả khi các khoản nợ đáo hạn cùng một lúc thì theo thủ tục
dân sự, cơ quan tài phán cũng chỉ có thể ra phán quyết buộc con nợ có nghĩa
vụ phải thanh toán chứ không thể giải quyết thỏa đáng vấn đề con nợ không
còn khả năng thực hiện đồng thời tất cả các nghĩa vụ tài sản của mình.
Tất cả những khiếm khuyết đã phân tích của thủ tục thanh toán nơ ̣ trong
dân sự chỉ có thể được giải quyết bằng cơ chế lấy nợ của thủ tục phá sản,
trong điều kiện sản nghiệp của con nợ không còn đủ để đồng thời thanh toán
hết tổng số nợ, dù con nợ có trao toàn bộ sản nghiệp của mình cho các chủ nợ
thì rủi ro vẫn là quá lớn đối với các chủ nợ. Nếu có thể, bằng một giải pháp
nào đó và với sự trợ giúp của các chủ nợ, mà con nợ còn có thể tiếp tục tồn tại
thì cơ hội để thu hồi đủ số nợ cho các chủ nợ sẽ trở nên hiệu quả hơn. Qua
phân tích trên ta nhận thấy sự thiện chí của chủ nợ có vai trò rất lớn, quyết
định sự tồn tại của con nợ.
Có thể nói, việc thanh toán nợ trong thủ tục phá sản có nhiều ưu điểm hơn
so với thủ tục thanh toán nợ trong dân sự, đồng thời việc thanh toán nợ trong
16


thủ tục phá sản khác với thanh toán nợ trong dân sự, kinh tế và điều đó được
thể hiện như sau:
1.1.1.1. Thủ tục phá sản là thủ tục thanh toán nợ tập thể
Thứ nhấ t, tính tập thể của thủ tục phá sản được thể hiện ở chỗ tất cả các
chủ nợ đều được tham gia vào quá trình đòi

nơ ̣ và thanh toán nơ ̣ . Khác với

thanh toán nơ ̣ trong dân sự l à các chủ nợ “ma ̣nh ai nấ y đòi”, trong thủ tu ̣c phá
sản các chủ nợ không thể tùy tiện đòi doanh nghiệp mắc nợ thanh toán cho
mình và doanh nghiệp mắc nợ cũng không đươ ̣c tự ý thanh toán nơ ̣ cho riêng

mô ̣t chủ nơ ̣ nào mà các chủ nợ đều phải gửi giấy đòi nợ cho Tòa án trong thời
hạn do luật quy định . Hế t thời ha ̣n do pháp luâ ̣t quy đinh
̣ mà các chủ nợ
không gửi giấ y đòi nơ ̣ đế n Tòa án t hì coi như chủ nợ đã từ bỏ quyề n đòi nơ ̣
của mình, chủ nợ có tên trong danh sách chủ nơ ̣ sẽ đươ ̣c chia thành các nhóm
khác nhau và yêu cầ u của c ủa các chủ nợ này sẽ được xem xét mô ̣t cách
công bằ ng .
Thứ hai, thủ tục thanh toán nợ trong phá sản được thực hiện với sự
tham gia của một tổ chức có tính tập thể - Đó chính là Hội nghị chủ nợ.
Đối với các con nợ , họ không bao giờ mong muốn để doanh nghiệp
mình bị lâm vào tình trạng phá sản và họ luôn mong muốn khôi phụ c la ̣i đươ ̣c
khả năng hoạt động bình thường của mình để làm ăn có hiệu quả, đủ khả năng
trả nợ và tiếp tục tồn tại , phát triển. Còn các chủ sở hữu, các cổ đông phải đối
diê ̣n với nguy cơ mấ t hế t tài sản mà ho ̣ đã đầ u tư vào doanh nghiê ̣p lâm vào
tình trạng phá sản do họ là đối tượng được thanh lý tài sản sau cùng. Bên ca ̣nh
đó, khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản là việc người lao động mất việc
làm và kéo theo đó hàng l oạt hậu quả như đói nghèo, tê ̣ na ̣n xã hô ̣i v .v…Vì
vậy, viê ̣c chủ nơ ̣ và con nơ ̣ cùng nhau tìm kiếm giải pháp để giải quyết khó

17


khăn cho doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản vừa là nghĩa vụ vừa là
quyền lợi của doanh nghiệp và cả chủ nợ.
Các giải pháp mà doanh nghiệp có thể áp dụng để ra khỏi tình trạng phá
sản rất nhiều như huy động thêm vốn, bán các khoản nợ cho công ty mua bán
nợ v.v… Nhưng dù là giải pháp gì thì việc thương lượng với các chủ nợ về
việc cơ cấu lại các khoản nợ, phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh
doanh có vai trò quan trọng. Bởi các giải pháp khác chỉ có thể được thực hiện
hiệu quả khi Hội nghị chủ nợ thông qua phương án phục hồi hoạt động sản

xuất, kinh doanh. Chẳng hạn như, việc huy động thêm vốn của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản là đi vay ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu hoặc
huy động thêm vốn góp từ các tổ chức, cá nhân v.v… Tuy nhiên, khi một
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì khó có ngân hàng nào dám cho
vay vì ngân hàng lo sợ việc mình cho vay sẽ không thu hồi được gốc và lãi là
rất lớn, còn việc phát hành trái phiếu thì khó tìm được nhà đầu tư nào mua.
Bên ca ̣nh đó , khi doanh nghiê ̣p lâm vào tình trạng phá sản nhưng doanh
nghiệp có thiện chí trả nợ, xây dựng đươ ̣c phương án phu ̣c hồ i hoa ̣t đô ̣ng sản
xuấ t kinh doanh thì cần được pháp luật giúp đỡ để có thể rút lui khỏi thị
trường, từ đó tìm cho mình cơ hội mới. Pháp luật Phá sản thường có quy định
Hội nghị chủ nợ có quyền đề cử người đại diện tham gia vào Tổ quản lý,
thanh lý tài sản; có quyền thông qua hoặc không thông qua phương án phục
hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, pháp luật phá
sản không chỉ có nghĩa vụ bảo đảm việc thu hồi nợ một cách tối đa và công
bằng cùng lúc cho nhiều chủ nợ mà còn phải đảm bảo “tính nhân văn” trong
mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ.
Thứ ba, việc thanh toán nợ cho các chủ nợ trong giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp không phải là việc thanh toán riêng lẻ mà là việc thanh toán
chung. Khi bi ̣áp du ̣ng thủ tu ̣c thanh lý tài sản thì toà n bô ̣ tài sản của con nơ ̣
18


đươ ̣c đưa vào mô ̣t quỹ chung dùng để trả cho các chủ nơ ̣ d ựa trên số tài sản
còn lại của con nợ, tất cả các chủ nợ đều được thanh toán như nhau theo một
tỷ lệ tương ứng với khoản nợ của từng chủ nợ với mục đích đảm bảo quyền
lợi của các chủ nợ trên nguyên tắc công bằng và hợp lý.
1.1.1.2. Thủ tục thanh toán nợ trong phá sản được tiến hành thông qua cơ
quan đại diện có thẩm quyền
Trong nền kinh tế thị trường, việc doanh nghiệp phá sản là điều khó
tránh khỏi, sự can thiệp của Nhà nước vào hiện tượng này nhằm hạn chế tối

đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của viê ̣c giải quyế t
yêu cầ u phá sản doanh nghiê ̣p. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước có thể
can thiệp vào quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, quá trình
thanh toán nợ một cách năng động và mềm dẻo. Để đảm bảo điều đó, thủ tục
phá sản cũng phải linh hoạt, mềm dẻo trong việc điều tiết mối quan hệ về lợi
ích giữa các chủ nợ và con nợ nhằm bảo vê ̣ quyề n lơ ̣i của các chủ thể

tham

gia thủ tu ̣c phá sản, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tồn tại và duy trì được
trật tự kinh tế.
Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì việc lấy nợ của các
chủ nợ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như sự tồn tại cùng lúc của nhiều chủ
nợ có quyền đòi nợ trên một sản nghiệp duy nhất của con nợ và sản nghiệp đó
không thể đồng thời thanh toán đủ cho tất cả các khoản nợ hay chủ nợ lo sợ
khi thương nhân kinh doanh thua lỗ thường có xu hướng thực hiện hành vi tẩu
tán sản nghiệp của mình. Chính vì vậy, để đảm bảo tính hiệu quả cho việc thu
hồi nợ của các chủ nợ thì pháp luật phá sản phải chú trọng đến việc bảo toàn
và phát triển sản nghiệp của con nợ. Có sự khác biệt như vậy là do “nợ” trong
vụ phá sản thường là nợ khó đòi và con nợ thì đã mất khả năng thanh toán,
nếu cứ sử dụng các phương pháp đòi nợ thông thường thì không đạt kết quả,
19


việc một cơ quan trung gian với đầy đủ thẩm quyền đứng ra giải quyết việc
đòi nợ và thanh toán nợ là cần thiết.
Bên cạnh đó, phá sản không chỉ bao gồm trình tự thu hồi tài sản và
thanh toán theo một thứ tự nhất định cho các chủ nợ mà thủ tục phá sản còn
tạo cơ hội cho người mắc nợ và chủ nợ thỏa thuận, tái tổ chức kinh doanh và
lập một kế hoạch trả nợ phù hợp nên thủ tục thanh toán nợ trong phá sản cần

được tiến hành bởi cơ quan đại diện có thẩm quyền.
Ở Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới việc giải quyết
yêu cầu phá sản doanh nghiệp theo nguyên lý thông thường đều thuộc thẩm
quyền của Tòa án. Thủ tục phá sản bắt đầu kể từ khi Tòa án thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản, trong quá trình giải quyết phá sản Tòa án ra quyết
định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý
tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản đồng thời
giám sát hoạt động của tổ này, quyết định thanh lý tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã bị phá sản v.v…
Nếu như thanh toán nợ trong dân sự các chủ nợ và con nợ trực tiếp trao
đổi với nhau thì trong phá sản các chủ thể này phải thông qua cơ quan đại
diện là Tòa án mà trực tiếp là Tổ quản lý, thanh lý tài sản do Tòa án thành lập
để giúp Tòa án thực hiện các công việc cần thiết trong tiến trình giải quyết
yêu cầu phá sản. Mặt khác, sự tham gia của Tòa án khi thanh toán nợ trong
thủ tục phá sản còn nhằm bảo đảm công bằng, hợp lý cho các chủ thể tham
gia thủ tục đòi nợ và thanh toán nợ.
1.1.1.3. Thủ tục thanh toán nợ trong vụ phá sản được tiến hành trên cơ
sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp
Nế u việc đòi nợ thông thường đươ ̣c giải quyế t bằ ng cách

“nợ bao

nhiêu, trả bấy nhiêu” thì việc thanh toán nợ trong thủ tục phá sản được tiến
20


hành dựa trên số tài sản còn lại của doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá
sản. Điều này có nghĩa trong giải quyết yêu cầu phá sản, nếu số tài sản còn lại
của doanh nghiệp mắc nợ đủ trả nợ thì con nợ sẽ được thanh toán toàn bộ số
nợ, còn nếu tài sản của con nợ có ít hơn tổng số nợ thì việc thanh toán cũng

coi như kết thúc sau khi trả nợ hết số tài sản đó, mỗi chủ nợ sẽ được thanh
toán theo tỷ lệ tương ứng, các chủ nợ sẽ phải gánh chịu rủi ro theo tỷ lệ.
Sau khi kết thúc thủ tục thanh lý tài sản (thanh toán nợ), Tòa án sẽ
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, điều này cũng đồng nghĩa với
việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp, hợp tác xã đó nên việc xóa nợ đối
với doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản là đương nhiên. Tuy nhiên, để loại trừ
tình trạng các doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh lợi dụng thủ tục
đặc biệt này để xin giải quyết phá sản nhằm được xóa nợ và trốn tránh nghĩa
vụ trả nợ của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công ty hợp
danh, pháp luật không miễn trừ nghĩa vụ về tài sản của chủ doanh nghiệp tư
nhân và thành viên hợp danh của công ty hợp danh đối với chủ nợ chưa được
thanh toán, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác (Điều 90 LPS 2004).
1.1.1.4. Thủ tục thanh toán nợ trong giải quyết yêu cầu phá sản chỉ
được tiến hành sau khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Với thủ tục đòi nợ thông thường thì các chủ nợ có quyền đòi nợ bất cứ
khi nào mà khoản nợ đến hạn theo phương thức hai bên lựa chọn, ngay cả
trường hợp có sự can thiệp của Tòa án thì ý chí định đoạt của các bên về
thanh toán khoản nợ vẫn được Tòa án tôn trọng và bảo vệ. Thủ tục phá sản là
thủ tục pháp lý không dễ xảy ra, nó chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp mắc
nợ dường như không giải quyết được vấn đề tài chính mà người ta thường gọi
là tình trạng phá sản, là sự lựa chọn duy nhất và cuối cùng của doanh nghiệp
21


lâm vào tình trạng phá sản, đồng thời là cách đòi nợ cuối cùng mà chủ nợ sử
dụng khi các phương thức đòi nợ thông thường khác không đạt kết quả. Mục
đích của thanh toán nợ trong phá sản là thanh toán nợ cho tất cả các chủ nợ,
tránh tình trạng người đòi trước thì được trả đầy đủ còn người đòi sau thì
được thanh toán ít hoặc không được thanh toán do tài sản của doanh nghiệp,

hợp tác xã đã không còn. Đồng thời, viê ̣c giải quyế t yêu cầ u phá sản doanh
nghiê ̣p tạo điều kiện cho doanh nghiệp lâm vào tiǹ h tra ̣ng phá sản có thể phục
hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh nên các chủ nợ chỉ được thanh toán các
khoản nợ sau khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Tòa
án, trước khi có quyế t đinh
̣ của Tòa án thì không một chủ nơ ̣ nào được yêu
cầu thanh toán nợ (trừ chủ nợ có bảo đảm), doanh nghiệp mắc nợ cũng không
được tự ý thanh toán nợ cho chủ nợ.
1.1.1.5. Thanh toán nợ trong phá sản là thủ tục pháp lý có tính chất
tổng hợp
Khi giải quyết yêu cầu phá sản, Tòa án phải xử lý nhiều công việc khác
nhau về tính chất chứ không chỉ đơn thuần là các công việc có tính chất tài
sản như tố tụng dân sự, kinh tế. Chẳng hạn, Tòa án phải giải quyết các vấn đề
việc doanh nghiệp nợ bao nhiêu, nợ ai mà còn phải giải quyết vấn đề khác
như việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, quản lý tài sản của doanh
nghiệp, triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ v.v…Việc phải xử lý nhiều công
việc khác nhau đã làm cho thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
khác thủ tục tố tụng dân sự, kinh tế về cả quy mô và tính chất. Điều này lý
giải tại sao thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp không thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật Tố tụng Dân sự mà luôn được điều chỉnh bởi hệ
thống pháp luật riêng – pháp luật Phá sản [32, tr.11].

22


LPS là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản như điều kiện nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản, điều kiện mở thủ tục phá sản, xác định nghĩa vụ về tài sản
và các biện pháp bảo toàn về tài sản, thủ tục phục hồi v.v… LPS có sự khác
biệt với các luật khác trong hệ thống pháp luật của bấ t kỳ mô ̣t quố c gia nào .

Sự khác biệt ấ y được thể hiện ở việc pháp luật phá sản không chỉ bao gồm các
quy định về nội dung mà còn bao gồm các quy định về hình thức, có nghĩa là
pháp luật phá sản vừa có điều luật điều chỉnh mối quan hệ giữa con nợ và chủ
nợ, xác định nghĩa vụ về tài sản, phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh
v.v…vừa quy định thẩm quyền, trình tự thủ tục, thời hạn khiếu nại giải quyết
yêu cầu phá sản.
1.1.2. Các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng phá sản
1.1.2.1. Chủ thể yêu cầu giải quyết phá sản
Trong LPS thì việc yêu cầu giải quyết phá sản không những là quyền
mà còn là nghĩa vụ của chủ nợ và con nơ ̣ , tuy nhiên việc giải quyết yêu cầ u
mở thủ tu ̣c phá sản của những doanh nghiệp đặc biệt thì pháp luật có những
quy định về việc tham gia của một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Kế thừa nội dụng quy định của LPSDN 1993, LPS 2004 vẫn tiếp tục
dành cho các chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần (Điều
13) và người lao động được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều
14), còn chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản. Ngoài ra, LPS 2004 còn bổ sung quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản của chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (Điều 16), các cổ đông công ty cổ
phần (Điều 17) và thành viên hợp danh của công ty hợp danh (Điều 18).
Thứ nhấ t, chủ thể yêu cầu mở thủ tục phá sản là các chủ nợ
23


Trong LPS của nhiều nước thì chủ nợ được hiểu là các chủ thể (có thể
là thể nhân hay pháp nhân) có các khoản nợ không được bảo đảm trả đúng
hạn, có rất nhiều loại chủ nợ khác nhau tùy thuộc vào tiêu chí xác định tư
cách của chủ nợ:
+ Nếu xét theo mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao
động thì chủ nợ có thể là người lao động khi doanh nghiệp không trả lương

cho họ;
+ Nếu xét trên phương diện quản lý nhà nước thì nhà nước trở thành
chủ nợ khi doanh nghiệp nợ thuế nhà nước v.v…
+ Đặc biệt, nếu xét theo tính bảo đảm của các khoản nợ thì chủ nợ gồm
có các loại sau:
Chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ mà quyền đòi nợ được đảm bảo bằng tài
sản của con nợ hoặc chủ nợ đó được bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba, khi
đó tổng giá trị của tài sản bảo đảm luôn bằng hoặc lớn hơn giá trị các khoản
nợ của con nợ; bảo đảm các khoản nợ sẽ được thanh toán đầy đủ trong trường
hợp phải xử lý tài sản bảo đảm;
Chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ mà các khoản nợ của họ không
được bảo đảm toàn bộ (nghĩa là giá trị của tài sản bảo đảm luôn thấp hơn giá
trị các khoản nợ và khi thanh lý tài sản thì chủ nợ này chỉ được thanh toán
một phần từ tài sản bảo đảm, phần còn lại sẽ thanh toán theo thủ tục chung về
phá sản;
Chủ nợ không có bảo đảm là chủ nợ mà các khoản nợ của họ không
được bảo đảm thanh toán bằng tài sản của con nợ. Các chủ nợ không có bảo
đảm thường được hình thành khi con nợ đi mua bán hàng hóa nhưng không
được áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản của con nợ.

24


×