Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra theo pháp luật Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 60 38 30

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 126 trang )

Đại học quốc gia hà nội
Khoa luật

Vũ Ngọc Chuẩn

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do người chưa thành niên gây ra
theo pháp luật việt nam

Luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội – 2010


Đại học quốc gia hà nội
Khoa luật

Vũ Ngọc Chuẩn

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do người chưa thành niên gây ra
theo pháp luật việt nam
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số

: 60 38 30

Luận văn thạc sĩ luật học

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên


Hà nội - 2011


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

Chương 1:

1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG

7

THIỆT HẠI DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN GÂY RA

1.1.

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chế định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra

7

1.1.1.

Khái niệm người chưa thành niên, trẻ em


7

1.1.2.

Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại

11

1.1.2.1. Khái quát về quá trình phát triển của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại

11

1.1.2.2. Khái niệm bồi thường thiệt hại và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại

13

1.1.2.3. Năng lực chủ thể và năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của người chưa thành niên

21

1.1.2.4. Ý nghĩa của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người chưa thành niên gây ra

28

1.2.


Mục tiêu điều chỉnh pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người chưa thành niên gây ra

30

1.3.

Nnội dung và năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của người chưa thành niên

32

1.4.

Khái quát về chế định bồi thường thiệt hại do người chưa
thành niên gây ra ở việt nam

35

1.4.1.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên
gây ra theo Luật Hồng Đức

36


1.4.2.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên

gây ra theo Luật Gia Long

37

1.4.3.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên
gây ra theo quy định của các Bộ Dân luật

37

1.4.4.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên

38

gây ra theo quy định của Pháp luật Việt Nam hiện đại
Chương 2:

PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH CỦA VIỆT NAM VỀ TRÁCH

43

NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN GÂY RA

2.1.

Quy định về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt

hại do người chưa thành niên gây ra

43

2.1.1.

Có thiệt hại xảy ra

44

2.1.2.

Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại

49

2.1.3.

Có mối quan hệ nhân quả

52

2.1.4.

Có lỗi

56

2.2.


Năng lực bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên

60

2.2.1.

Người chưa thành niên dưới mười lăm (15) tuổi gây thiệt hại

60

2.2.2.

Người từ đủ mười lăm tuổi (15) đến chưa đủ mười tám (18)
tuổi gây thiệt hại

60

2.2.3.

Người chưa thành niên có người giám hộ gây thiệt hại

61

2.2.4.

Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi gây ra
trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp
quản lý

61


2.3.

Quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, xác định thiệt
hại và mức bồi thường thiệt hại

61

2.3.1.

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong pháp luật Việt Nam

61

2.3.1.1. Nguyên tắc thỏa thuận bồi thường thiệt hại

62


2.3.1.2. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ

63

2.3.1.3. Nguyên tắc bồi thường kịp thời

64

2.3.1.4. Nguyên tắc giảm trách nhiệm bồi thường

65


2.3.1.5. Nguyên tắc thay đổi mức bồi thường thiệt hại

66

2.3.2.

Xác định thiệt hại

67

2.3.2.1. Thiệt hại về tài sản

67

2.3.2.2. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

68

2.3.2.3. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

72

2.3.2.4. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm

74

2.3.3.

Quy định về mức bồi thường


75

2.3.3.1. Đối với thiệt hại về tài sản

75

2.3.3.2. Đối với trường hợp xâm phạm sức khỏe

76

2.3.3.3. Đối với trường hợp xâm phạm tính mạng

78

2.3.3.4. Đối với trường hợp xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy
tín của cá nhân

80

2.4.

Quy định về những trường hợp được miễn hoặc giảm trách
nhiệm bồi thường

81

2.4.1.

Trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại


81

2.4.1.1. Gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng

81

2.4.1.2. Gây thiệt hại trong trường hợp tình thế cấp thiết

83

2.4.1.3. Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị hại

84

2.4.1.4. Thiệt hại xảy ra trong trường hợp sự kiện bất ngờ

84

2.4.2.

Trường hợp được giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại

85

2.5.

Quy định về trách nhiệm của cha, mẹ, người quản lý hoặc
người giám hộ hợp pháp của người chưa thành niên gây ra


86

thiệt hại


Chương 3:

THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

92

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN GÂY RA

3.1.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người chưa thành niên gây ra ở Việt Nam

92

3.1.1.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người dưới 15 tuổi

94

3.1.2.


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người từ đủ
đến dưới 18 tuổi

100

3.1.3.

Mô ̣t số thiế u sót trong quá trinh áp du ̣ng cá c quy đinh
̣ của
pháp luật khi giải quyết việc bồi thường thiệt hại do người
chưa thành niên gây ra

106

3.2.

Phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện các quy định
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa
thành niên gây ra

109

3.2.1.

Nên đánh giá lại quan điểm về khái niệm "lỗi" trong dân sự

110

3.2.2.


Cần xây dựng cơ sở pháp lý cho khái niệm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho người chưa thành niên gây ra để làm
căn cứ cho việc nghiên cứu và áp dụng luật

111

3.2.3.

Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của
người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại

111

3.2.4.

Thố ng nhấ t và quy đinh
̣ cu ̣ thể hơn trong quy đinh
̣ xác đinh
̣
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành ni ên

113

3.2.5.

Thành lập Tòa án cho người chưa thành niên

113

KẾT LUẬN


115

DANH MỤC TÀ I LIÊU
̣ THAM KHẢO

117

15 tuổi


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Một trong những chế định xuất hiện sớm trong pháp luật dân sự là chế
định bồi thường ngoài hợp đồng. Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng đặt ra nhằm xác định trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại mà trước đó
giữa bên bị thiệt hại và bên gây thiệt hại không có sự thỏa thuận hoặc có sự
thỏa thuận nhưng sự thỏa thuận đó không liên quan đến hậu quả thiệt hại

.

Viê ̣c gây thiê ̣t cho người khác và phải bồ i thường thiê ̣t ha ̣i là điề u mang tiń h
tấ t yế u trong xã hô ̣i , trong số đó có cả người chưa thành niên gây ra thiê ̣t ha ̣i
cho người khác . Tại Nhật, số vụ yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do hành vi
sai trái (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng) chiếm 61% trong tổng số vụ
việc tranh chấp dân sự. Con số này nói lên mức độ quan trọng của quyền yêu
cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái trong đời sống dân sự.
Đối với người chưa thành niên , với quan điểm nhất quán trong việc
bảo vệ đố i tươ ̣ng này , Nhà nước đã thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống pháp

luật bảo vệ quyền của người chưa thành niên , bên ca ̣nh đó Nhà nước cũng xác
đinh
̣ rõ ràng trách nhiệm của họ khi tham gia vào các quan hê ̣ pháp luâ ̣t cu ̣ thể ,
trong đó đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng là những trường hợp người
chưa thành niên gây ra thiê ̣t ha ̣i cho người khác . Điều này càng thể hiện mối
quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với người chưa thành niên . Chính
vì thế, trong các quy đinh
̣ của pháp luật về bồ i thường thiê ̣t ha ̣i của Nhà nước đối
với người chưa thành niên là nhằm giúp đỡ, giáo dục để người chưa thành niên
nhận ra sai lầm từ đó sửa chữa những sai lầm của mình, tạo điều kiện để các
em có khả năng tái hòa nhập cuộc sống. Đồng thời, cũng nhằm xác định trách
nhiê ̣m của cha mẹ, người quản ý trong viê ̣c giáo du ̣c chăm sóc con em min
̀ h .
Xác định người chưa thành niên là người chưa phát triển hoàn thiện về
tâm và sinh lí, thiếu bản lĩnh, kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động, dụ

1


dỗ vào nhiề u hoạt động, chưa tự chủ trong mọi tình huống. Do vậy, pháp luật
dân sự Viê ̣t Nam đã có những quy đinh
̣ riêng để nhằ m xác đinh
̣ trách nhiê ̣m
bồ i thường thiê ̣t ha ̣i do người chưa thành niên gây ra mô ̣t cách khách quan
nhấ t, phù hợp nhất .
Trên thế giới, các quốc gia đều coi trong viê ̣c bảo vê ̣ người chưa thành
niên cũng như bảo vê ̣ quyề n và lơ ̣i ić h hơ ̣p pháp khác của các chủ thể khi bi ̣
người chưa thành niên xâm ha ̣i .
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra là
một nội dung trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồ ng . Viê ̣c xác

đinh
̣ trách nhiê ̣m bồ i thường của người chưa thành niên là vấ n đề hế t sức
phức ta ̣p bởi ho ̣ đươ ̣c coi là những chủ thể chưa có đủ năng lực hành vi dân
sự, và do vậy bắt họ phải chịu một mức bồi thường thiệt hại cụ thể lại là điều
còn khó khăn hơn , khi mà truyề n thố ng và thói quen ở Viê ̣t Nam

, những

người chưa thành niên hầ u hế t là không có tài sản riêng để tự chiụ trách
nhiê ̣m do hành vi của min
̀ h.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, các cơ quan còn gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc vì quy định còn có nhiều cách hiểu khác nhau nên việc áp dụng chưa
thống nhất, gây bức xúc cho đương sự. Trên thực tế, đây là vấn đề khá khó khăn
do chưa có hướng dẫn cụ thể nên các cơ quan bảo vệ pháp luật gặp nhiều vướng
mắc khi giải quyết các trường hợp liên quan tới vấn đề này. Những người làm
công tác thực tiễn cũng chỉ thường xuyên trao đổi các tình huống cụ thể khó xử trên
các diễn đàn tạp chí, chứ cho đến thời điểm này vẫn chưa có một công trình khoa
học nào nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng và đưa ra phương hướng hoàn
thiện pháp luật về vấn đề bồi thường thiê ̣t ha ̣i do người chưa thành niên gây ra.
Vì vậy, tác giả viết luận văn này với mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu
một cách khoa học, có hệ thống giúp các nhà nghiên cứu, áp dụng pháp luật
có một cách nhìn toàn diện về vấn đề này khi giải quyết các vụ án cụ thể góp
phần mang đến sự công bằng cho các đương sự trong các vụ án.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài có liên quan
Vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi

thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra luôn được quan tâm nhằm
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị xâm hại. Nhưng điều khó khăn là
việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây
ra như thế nào khi mà đối tượng này bị coi là có năng lực hành vi dân sự
không đầy đủ.
Trên thực tế, pháp luật nói chung và pháp luật dân sự Việt Nam nói
riêng đã có những quy định về việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do người chưa thành niên gây ra nhưng vẫn còn một số vướng mắc.
Mặt khác, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa
thành niên gây ra tuy không phải là vấn đề quá mới mẻ nhưng là vấn đề khó
khăn, phức tạp, … nên những bài viết xuất hiện trên các tạp chí chỉ dừng lại ở
một mức độ nhất định và có thể nói là còn khá khiêm tốn . Chưa có một công
trình nào mang tính khái quát.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, chế định bồ i thường thiê ̣t ha ̣i ngoài
hợp đồng đã được nhiều nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước quan tâm
nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau.
Ở Việt Nam, đến nay đã có luận văn thạc sĩ Luật học của Phạm Kim
Anh về đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng"; Luận án
tiến sĩ Luật học của Lê Mai Anh về đề tài "Những vấn đề cơ bản về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự"; Luận văn
thạc sĩ Luật học của Trần Thị Thu Hiền về đề tài "Những nguyên tắc bồi
thường thiệt hại trong luật dân sự Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ Luật học của
Lê Kim Loan về đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
theo Bộ luật Dân sự Việt Nam", một số bài viết của Nguyễn Đức Giao, về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Thạc sĩ Nguyễn Đức Mai về
"Người giám hộ và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành

3



niên gây ra" đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật cũng như các giáo trình Luật dân sự đề cập vấn đề này. Bài viết của thạc
sĩ Mai Thanh Hiế u về "Xác định trách nhiê ̣m bồ i thường của cha , mẹ bị cáo
đố i với thiê ̣t hại do bi ̣ cáo thực hiê ̣n hành vi phạm tội là người chưa thành
niên gây ra và tư cách tố tụng của họ". Và đặc biệt là cuốn sách chuyên khảo:
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng của
Tiến sĩ Phùng Trung Tập - Nhà xuất bản Hà Nội 2009... Tuy nhiên, các công
trình nghiên cứu này mới dừng lại ở mức độ chung nhất hoặc chỉ đề cập ở phạm
vi hẹp trong nội dung nghiên cứu về các vấn đề khác nhau, mà chưa có tác giả
nào nghiên cứu đầy đủ có hệ thống trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng để trên cơ sở đó nghiên cứu một trường hợp cụ thể của loại trách nhiệm
này - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra .
3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra

,

theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, là loại trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng hay còn gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do có
hành vi trái pháp luật. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả không
nghiên cứu toàn bộ những vấn đề thuộc chế định bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng mà chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề trách nhiệm b ồi thường thiê ̣t ha ̣i
do người chưa thành niên gây ra cho người khác mà thôi . Đồng thời, trên cơ
sở kết quả nghiên cứu từ đề tài này và có đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật
của một số vụ việc đã được giải quyết bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
tác giả mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Để đạt được các mục đích trong phạm vi nghiên cứu trên đây, đề tài
tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm chung về người
chưa thành niên . Đồng thời phân tích bản chất pháp lý và những căn cứ phát

sinh trách nhiệm bồi thường.

4


Thứ hai: Nghiên cứu, xác định trách nhiệm bồi thường thiê ̣t ha ̣i do
người chưa thành niên gây ra dưới mô ̣t số khía ca ̣nh cu ̣ thể .
Thứ ba: Đánh giá thực trạng xét xử của cơ quan có thẩm quyền trong
việc áp dụng pháp luật khi giải quyết trách nhiệm bồi thường

thiê ̣t ha ̣i do

người chưa thành niên gây ra . Thông qua đó tìm ra những điểm vướng mắc,
tồn tại và đề xuất các giải pháp khắc phục.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Kết hợp giữa
quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Quá trình nghiên cứu đề tài tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp
chứng minh.
5. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn
Có thể coi đây là công trình nghiên cứu khoa học khá toàn diện kể từ
khi vấn đề bồi thường thiê ̣t ha ̣i do người chưa thành niên gây ra được quy
định trong Bộ luật Dân sự của Việt Nam. Việc nghiên cứu được thực hiện một
cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiê ̣t
hại do người chưa thành niên gây ra . Đồng thời, đề tài cũng đi sâu vào nghiên
cứu một số trường hợp cụ thể để có thể vận dụng trong thực tiễn giải quyết
các tình huống tương tự.
Bên cạnh đó, trong luận văn tác giả không chỉ dừng lại nghiên cứu các

quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này mà còn tiến hành xem xét công tác áp
dụng pháp luật qua một số vụ việc cụ thể trong thời gian qua, qua đó đề xuất
một số biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật để tháo gỡ những vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng.
Ngoài ra, việc thực hiện luận văn giúp tác giả có được hiểu biết sâu
sắc hơn về vấn đề trách nhiệm bồi thường bồi thường thiê ̣t ha ̣i do người chưa

5


thành niên gây ra trong luật dân sự, đồng thời cũng là vấn đề thu hút sựu chú
ý của xã hội và sự quan tâm của các cơ quan áp dụng pháp luật.
Luận văn cũng mang đến cho người đọc có thêm những hiểu biết về
trách nhiệm bồi thường bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra
trong pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam .
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
chưa thành niên gây ra.
Chương 2: Pháp luật hiện hành của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người chưa thành niên gây ra.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI

DO NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN GÂY RA

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỊNH TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN GÂY RA

1.1.1. Khái niệm ngƣời chƣa thành niên, trẻ em
"Người chưa thành niên" là khái niệm không xa lạ đối với các nhà luật
học trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa ngôn
ngữ đời thường và ngôn ngữ luật học đôi khi lại đem lại khó khăn cho nhiều
người khi tìm hiểu. Trong đời thường chúng ta gọi là "vị thành niên", còn luật
học gọi là "chưa thành niên". Thực tế cả hai cách gọi đều là một, nó chỉ khác
nhau ở biểu đạt cách nói, cách viết mà thôi.
Có thể nói rằng, hầu hết người chưa thành niên là những người chưa
hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa
vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của
người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: "Trong phạm vi Công ước này, trẻ
em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với
trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn".
"Nữ thập tam, nam thập lục", là cái tuổi mà ông cha ta chỉ những
người có thể nói là có đầy đủ khả năng để được phép lấy vợ, lấy chồng, được
tự quyết định các công việc của mình, và trở thành "người lớn". Một cách
nhìn về độ tuổi được coi là trưởng thành phù hợp với truyền thống dân tộc.
Nhưng trong xã hội hiện đại, cái tuổi 13, 16 ấy có vẻ không còn phù
hợp nữa, chỉ trong chừng mực nào đấy cái tuổi này còn một chút ý nghĩa, bởi

7



lẽ, các điều kiện về kinh tế - xã hội, sức khỏe tâm sinh lý... và nhiều điều kiện
khác đã khác xưa rất nhiều.
Những người vào độ tuổi ấy được gọi là người chưa thành niên. Người
chưa thành niên được chia thành nhiều độ tuổi khác nhau, trong đó người
chưa đủ 6 tuổi hoàn toàn không có năng lực hành vi dân sự, người từ đủ 6 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi hạn chế. Phân theo đối tượng, người
chưa thành niên bao gồm toàn bộ trẻ em và một phần là thanh niên.
Người chưa thành niên chưa phát triển đầy đủ về mặt cơ thể sinh học,
còn nhiều hạn chế cả về thể chất cũng như tinh thần và rất dễ bị tổn thương.
Vì vậy họ được pháp luật đặc biệt quan tâm bảo vệ. Có rất nhiều quy định
riêng biệt đối với người chưa thành niên như: Việc xử phạt nhẹ đáng kể đối
với người chưa thành niên phạm tội và ngược lại xử phạt rất nặng đối với
hành vi xâm phạm đến người chưa thành niên, như hiếp dâm, mua bán, cưỡng
bức, hành hạ người chưa thành niên,… Đặc biệt, một người chưa đủ 18 tuổi,
thì dù có phạm tội lỗi tày đình đến đâu đi chăng nữa, cũng không bao giờ phải
chịu mức hình phạt tử hình.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, người chưa thành niên
(hay còn gọi là vị thành niên), là người chưa đủ 18 tuổi. Người chưa thành
niên không có đủ năng lực hành vi dân sự, tức là chưa được phép tự mình xác
lập và thực hiện các giao dịch dân sự như đối với người thành niên.
Pháp luật có nhiều quy định hạn chế hành vi của người chưa thành
niên. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của họ phải được người đại
diện theo pháp luật đồng ý, trừ trường hợp đặc biệt như giao dịch nhằm phục
vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc có tài sản riêng bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định được phép.
Ở độ tuổi này, trong các lĩnh vực đời sống xã hội khác nhau, người
chưa thành niên tham gia các hoạt động cụ thể và nhiều khi là chủ thể của các
quan hệ pháp lí, như trong lĩnh vực hành chính, dân sự và hình sự.

8



Dưới góc độ pháp lí, tâm lí và y học, thì người chưa thành niên là
người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lí, chưa có khả năng nhận
thức đầy đủ tính nguy hiểm, tính cần thiết cho xã hội của các hành vi do mình
thực hiện.
Tuổi đủ năng lực hành vi dân sự, hay tuổi để trở thành người lớn có ý
nghĩa pháp lý và thực tế vô cùng quan trọng. Chưa đủ 18 tuổi, tức là chưa
được tự mình quyết định hầu hết những công việc trong cuộc sống, như chưa
được thành lập và quản lý doanh nghiệp, chưa được thuê lao động, chưa nhận
thẻ cử tri để đi bầu cử, chưa được lái xe mô tô từ 50 cm3 trở lên,…
Thậm chí đối với một số công việc còn yêu cầu phải qua ngưỡng tuổi
thành niên một thời gian nhất định mới được làm. Ví dụ như nam giới phải đủ
20 tuổi trở lên mới được phép hiến tình trùng (theo Luật Hiến, lấy, ghép mô,
bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006). Hay người đủ 21 tuổi trở
lên mới được ứng cử đại biểu quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
(Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân năm 2003), mới được lái xe ô tải, máy kéo trên 3,5 tấn (Luật Giao
thông đường bộ năm 2008).
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự
phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hóa bằng
giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó,
người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Như vậy, quan điểm cơ bản của chúng ta là: Người chưa thành niên là
người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa
có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Trong
cuộc sống, người ta vẫn thường hiểu cái tuổi để coi là trẻ em có vẻ mang một
chút trừu tượng nào đó và không thống nhất. Có lúc nào đấy, dưới 12 tuổi
được coi là trẻ em, nhưng có lúc lại là dưới 13, 14, thậm chí còn hơn nữa.


9


Về mặt khoa học thì trẻ em là:
Giai đoạn phát triển của đời người từ lúc sơ sinh cho đến tuổi
trưởng thành. Có đặc điểm nổi bật là sự tăng trưởng và phát triển liên
tục về thể chất và tâm thần. Quá trình phát triển của trẻ em trải qua
các thời kì: sơ sinh, bú mẹ, trước khi đi học, đi học và tuổi dậy thì. Ở
mỗi thời kì, có những đặc điểm sinh học khác nhau nên việc nuôi
dưỡng, giáo dục, chăm sóc sức khỏe cũng khác nhau, phù hợp với
những đặc điểm của mỗi thời kì [29].
Và để hiểu thống nhất như thế nào là trẻ em, chúng ta đành căn cứ vào
các quy định trong hệ thống pháp luật hiện hành của nhà nước để định hình
một cách rõ rệt, chứ bản thân khoa học pháp lý của Việt Nam cũng chưa có
định nghĩa như thế nào là trẻ em cả.
Trong hệ thống pháp luật hiện hành của nước ta, có rất nhiều đạo luật
đề cập tới trẻ em nhằm để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cũng như sự ưu
đãi nhất định cho các em trong một số lĩnh vực. Tuy nhiên, cũng chính trong
các đạo luật này, độ tuổi của trẻ em lại đang có sự vênh nhau khá nhiều.
Thậm chí cùng một tuổi nhưng ở luật này là trẻ em, ở luật khác đã thành
người lớn...
Theo Nghị định thư của Liên hợp quốc về phòng ngừa, trấn áp và trừng
trị buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em đã được Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua, có hiệu lực từ ngày 25/12/2003 thì trẻ em là người dưới
18 tuổi. Tương tự, các công ước, văn kiện quốc tế liên quan đến việc bảo vệ
quyền con người, quyền của phụ nữ và trẻ em mà Việt Nam đã tham gia ký kết
và là thành viên như: Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ, Công ước về quyền trẻ em, Nghị định thư không bắt buộc bổ sung
cho Công ước về quyền trẻ em về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn

hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, các thỏa thuận, ghi nhớ với một số nước có chung
đường biên giới với nước ta về hợp tác chống buôn bán phụ nữ, trẻ em, và

10


hiện Việt Nam đang nghiên cứu các điều kiện để phê chuẩn Công ước về chống
tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các Nghị định thư bổ sung về chống
buôn bán phụ nữ, trẻ em và chống đưa người di cư trái phép… đều có quy
định tương tự. Trong khi đó, định nghĩa trẻ em của pháp luật Việt Nam coi trẻ
em là người dưới 16 tuổi. Như vậy là sự không tương thích đã thể hiện rõ ràng.
Nhưng có thể ngầm hiểu rằng, khái niệm người chưa thành niên bao
gồm cả trẻ em, nhưng khái niệm trẻ em thì bao gồm cả người chưa thành niên
nhưng không phải là tất cả.
Tựu trung lại, dựa trên các quan điểm phổ biến ở Việt Nam cũng như
trên thế giới, khái niệm về người chưa thành niên có thể được đúc kết như sau:
Người (nam và nữ) chưa đủ (tròn) mười tám (18) tuổi là người chưa thành niên.
1.1.2. Khái niệm về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại

1.1.2.1. Khái quát về quá trình phát triển của trách nhiệm bồi thƣờng
thiệt hại
Trước khi được hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý chịu sự điều
chỉnh của Luật tư như hiện nay thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã trải qua
một quá trình phát triển với nhiều giai đoạn thể hiện bản chất khác biệt. Có
thể khái quát các giai đoạn phát triển cơ bản của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại như sau [11]:
Giai đoạn thứ nhất: Trong thời kỳ cổ đại, khi chính quyền trong xã
hội còn chưa được tổ chức một cách vững chãi, các cá nhân, mỗi khi bị xâm
phạm vào quyền lợi được tự ý trả thù để trừng phạt đối phương, hoặc bắt đối
phương làm nô lệ, hay lấy tài sản của họ. Chế độ này còn được gọi là chế độ

tư nhân phục thù.
Trong giai đoạn thứ hai, người gây ra sự tổn hại có thể nộp một số
tiền chuộc hay thục kim cho nạn nhân để tránh trả thù. Chế độ này còn được
gọi là chế độ thục kim. Chế độ thục kim đã trải qua hai giai đoạn phát triển:

11


1) Khi chưa có sự can thiệp của pháp luật, các bên tự thỏa thuận với
nhau về tiền chuộc, đó là chuộc lỗi tự nguyện;
2) Nhờ sự can thiệp của chính quyền, các bên tranh chấp bắt buộc phải
giải quyết tranh chấp bằng cách trả cho nhau số tiền chuộc lỗi theo ngạch giá
do pháp luật quy định, đó là chế độ thục kim bắt buộc. Tiền thục kim này có
thể coi như vừa là một hình phạt, vừa có tính chất bồi thường thiệt hại. Vào
thời kỳ Luật 12 bảng, Cổ luật La Mã mới bắt đầu chuyển từ chế độ tự ý thục
kim sang bắt buộc thục kim.
Giai đoạn thứ ba, chứng kiến sự phân biệt hai trách nhiệm hình sự và
dân sự. Chính quyền, trước hết, can thiệp để trừng phạt những tội phạm chỉ
liên quan đến trật tự xã hội, không liên hệ đến cá nhân. Sự can thiệp này rất
cần thiết, vì nếu không có sự thanh trừng của xã hội, những vụ phạm pháp
này không được chú ý tới vì không làm hại trực tiếp đến quyền lợi của tư
nhân. Sự can thiệp của chính quyền dần dần được nới rộng đến sự phạm pháp
liên quan đến quyền lợi của các cá nhân như các vụ ẩu đả, trộm cắp. Về
phương diện hình sự, cá nhân mất hết quyền phục thù và chỉ còn quyền xin
bồi thường tổn hại của mình về dân sự.
Tuy trong một số trường hợp, Luật La Mã đã tiến tới sự phân biệt hai
trách nhiệm hình sự và dân sự, nhưng nhà làm luật chưa quy định được hẳn
một nguyên tắc trách nhiệm tổng quát, bắt buộc người gây ra sự tổn thất phải
bồi thường thiệt hại bất luận trường hợp nào.
Ở Việt Nam, cổ luật cũng không tách biệt trách nhiệm bồi thường thiệt

hại là một loại trách nhiệm thuộc luật tư và cũng chỉ giải quyết các vấn đề thuộc
trật tự công. Vì vậy, các điều luật trong bộ luật cổ như bộ Quốc triều Hình luật
của nhà Lê hay Hoàng Việt Luật lệ của Gia Long đều quy định các điều khoản
trách nhiệm về luật hình, ví dụ: Điều 582 Quốc triều Hình luật đã quy định:
Súc vật và chó có tính hay húc, đá và cắn người mà làm
hiệu buộc tròng không đúng phép - (đúng phép vật nào hay húc
người thì phải cắt hai sừng, đá người thì phải buộc hai chân, cắn

12


người thì phải cắt hai tai)- hay có chó hóa dại mà không giết thì
đều phải phạt 60 trượng. Nếu vì thế mà làm cho người chết hay bị
thương thì xử theo tội lầm lỡ. Nếu cố ý thả rong làm cho người chết
hay bị thương thì xử nhẹ hơn tội tội đánh người bị thương hay đánh
chết người một bậc. Người được thuê đến để chữa bệnh cho súc vật,
hay là vô cớ trêu ghẹo những vật kia, mà bị thương hay chết, thì
người chủ không phải tội [32].
Tuy nhiên, trong một vài trường hợp đặc biệt, cổ luật Việt Nam cũng
quy định sự bồi thường. Đối với trường hợp đánh người bị thương, điều 468
Quốc triều hình luật đã quy định sự nuôi bảo cô. Thí dụ: đánh bị thương bằng
chân tay thì phải nuôi 10 ngày, bằng vật khác thì phải nuôi 20 ngày, bằng thứ
có mũi nhọn hay bằng nước sôi, lửa, thì phải nuôi 40 ngày, đánh gãy xương
thì phải nuôi 80 ngày…. Nhưng ngoài những trường hợp đặc biệt, Cổ luật
Việt Nam không phân biệt rõ rệt hai trách nhiệm hình sự và dân sự và cũng
không nêu lên một nguyên tắc tổng quát nào về trách nhiệm dân sự.
Ở giai đoạn hiện nay, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định
và điều chỉnh bởi Luật tư và các nguyên tắc tổng quát về trách nhiệm này đã
được đặt ra ở tất cả các nước. Ở Việt Nam, bồi thường thiệt hại hiện nay được
hiểu là một loại trách nhiệm Dân sự theo đó người có hành vi gây ra thiệt hại

cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
1.1.2.2. Khái niệm bồi thường thiệt hại và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại
Về mặt lý luận, khi nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì
tìm hiểu về khái niệm và những đặc điểm nổi bật của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại là một việc làm cần thiết phải được coi trọng.
* Khái niệm
"Trách nhiệm pháp lý" là hệ thống những qui định của nhà nước về
các biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật

13


thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó, chủ thể vi phạm pháp
luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi được qui định ở chế tài của các qui
phạm pháp luật.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng của pháp
luật Dân sự các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng cho những người bị thiệt hại từ hành vi vi phạm
nghĩa vụ của chủ thể khác. Ở các nước khác nhau thì vấn đề trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được qui định khác nhau về hình thức bồi thường và cách xác
định thiệt hại. Tuy nhiên, tất cả đều hướng tới một nguyên tắc thống nhất:
"Người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại".
Điều 1382 Bộ luật Dân sự Pháp qui định: "Bất cứ hành vi nào của một
người gây thiệt hại cho người khác thì người đã gây thiệt hại do lỗi của mình
phải bồi thường thiệt hại". Điều 1383 Bộ luật Dân sự Pháp cũng quy định:
"Mỗi người phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do mình gây ra, không những
do hành vi mà còn do sự cẩu thả hoặc không thận trọng" [4].
Điều 420 Bộ luật Dân sự Thái Lan qui định: "Một người cố tình hay
vô tình làm tổn thương một cách trái pháp luật đến đời sống thân thể, sức

khỏe, tự do, tài sản hoặc bất cứ quyền nào của người khác thì bị coi là phạm
một hành vi sai trái và có nghĩa vụ bồi thường tổn thương đó" [5].
Điều 416 Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định:
Yêu cầu bồi thường thiệt hại sẽ có giá trị đối với việc bồi
thường các thiệt hại mà bình thường sẽ xảy ra do việc không thực
hiện trái vụ. Trái chủ có quyền được bồi thường cả những thiệt hại
xảy ra trong những tình huống đặc biệt, nếu các bên biết trước hoặc
phải biết trước những tình huống đó [3].
Trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005, vấn đề trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng được qui định thành một chương riêng
(chương XXI). Theo Điều 604: "người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm

14


đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm đến danh dự, uy tín, tài sản của
pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường" [21].
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quan niệm pháp lý của
Việt Nam và hầu hết các nước trên thế giới đều được hiểu là hình thức trách
nhiệm dân sự mang tính tài sản áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm
pháp luật gây thiệt hại nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần
cho bên bị thiệt hại.
Như vậy, bồi thường thiệt hại là một biện pháp dân sự quan trọng và
hữu hiệu được áp dụng để xử lý các hành vi xâm phạm và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được hiểu là hình thức trách nhiệm dân sự mang tính tài sản
áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại nhằm bù
đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại.
* Đặc điểm pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự nên

cũng mang đầy đủ những đặc điểm của trách nhiệm dân sự nói chung. Tuy
nhiên, theo qui định của pháp luật, nó có những đặc điểm pháp lý riêng biệt:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự.
Bồi thường thiệt hại là một biện pháp dân sự nhằm khôi phục lại tình
trạng ban đầu của chủ thể bị thiệt hại. Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt
hại mang đầy đủ đặc điểm và tính chất của một trách nhiệm dân sự.
- Cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là sự vi phạm nghĩa
vụ (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc nghĩa vụ luật định).
Sự vi phạm nghĩa vụ được biểu hiện thông qua sự không thực hiện,
thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ. Cơ sở
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra khi thỏa mãn các điều
kiện nhất định đó là:

15


- Có thiệt hại xảy ra;
- Có hành vi gây thiệt hại là hành vi trái luật;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra;
- Có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc).
Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một
người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp đặc biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phát sinh khi
không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể do luật định hoặc do các
bên tự thỏa thuận áp dụng.
Xuất phát từ nguyên tắc của quan hệ dân sự là "tự do, tự nguyện cam kết
thỏa thuận" trong khuôn khổ pháp luật, quan hệ dân sự được xây dựng và duy trì
bởi ý chí của các chủ thể tham gia. Bởi vậy, các bên không những có thể tự thỏa

thuận để xác lập quyền và nghĩa vụ thông qua những cam kết mà còn có thể thỏa
thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và tự áp dụng khi có hành vi vi phạm
nghĩa vụ đã được định trước, ngoài các trường hợp pháp luật quy định.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được thực hiện bởi người
gây thiệt hại nhưng cũng có thể được thực hiện bởi người khác.
Mục đích chính của trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quan điểm
pháp lý của Việt Nam không phải là biện pháp trừng phạt mà chủ yếu nhằm
khắc phục hậu quả thực tế - (ở một số nước đặc biệt là các nước theo hệ thống
luật Common law, quan niệm pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
không đơn thuần mang tính khắc phục thiệt hại mà còn mang tính trừng phạt).
Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chú trọng nhiều tới khả năng khắc
phục hậu quả. Về bản chất pháp lý, nghĩa vụ bồi thường trong dân sự là một
"khoản nợ" mà người gây thiệt hại phải trả cho người bị thiệt hại vì những gì
anh ta đã làm như là một hậu quả. Giống các món nợ khác, nó có thể được

16


thanh toán bởi bên thứ ba mà không bắt buộc phải là người mang nghĩa vụ
như: cha mẹ bồi thường thay cho con chưa thành niên, con không có năng lực
hành vi hay chủ sử dụng lao động bồi thường thay cho người làm công…
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn mang đến một hậu quả bất lợi
về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho
người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp
luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực
hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không
thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật
để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện
trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.
Ngoài người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi

thường thiệt hại còn được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha,
mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp
nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện
trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự
gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề…
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm tài sản.
Tính tài sản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trước
hết được thể hiện ở việc các thiệt hại xảy ra dù là vật chất hay tinh thần đều được
xác định dưới hình thức là tài sản. Vì vậy, người gây thiệt hại luôn phải bồi thường
bằng tài sản để bù đắp và khôi phục những thiệt hại xảy ra từ hành vi của mình.
* Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ xác định cơ sở giải quyết bồi
thường theo hợp đồng và ngoài hợp đồng sẽ rất khác nhau. Chính vì vậy, xác

17


định được rõ hai loại trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật dân
sự một cách đúng đắn.
* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm
dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra
thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất
mà mình gây ra.
* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một
loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do
pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.

Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao giờ cũng
được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy
định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân
và tổ chức khác.
Căn cứ vào lợi ích bị bị xâm phạm và những thiệt hại xảy ra mà trách
nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại
về vật chất và trách nhiệm bù đắp tổn thất về tinh thần.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bồi
thường tổn thất vật chất thực tế được tính thành tiền do bên vi phạm gây ra,
bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục
thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần được hiểu là người
gây thiệt hại cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi

18


phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù
đắp những tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại như sự buồn rầu, lòng
đau thương…
Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa trong việc xác định
nghĩa vụ chứng minh và mức bồi thường: Về nguyên tắc, người bị thiệt hại
phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại xảy ra và mức bồi thường sẽ bằng mức
thiệt hại. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ có thể áp dụng đối với trường hợp đó
là trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất còn trong trường hợp bồi

thường thiệt hại về tinh thần thì rõ ràng những tổn thất về tinh thần là những
tổn thất không thể nhìn thấy, không thể tính toán và không thể chứng minh
được. Chính vì vậy, trong trường hợp này pháp luật cần quy định một mức
nhất định để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong trường hợp một
người có hành vi xâm phạm đến các quyền nhân thân của người khác.
Căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt
hại được phân chia thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của
con người gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra
được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi thiệt hại xảy ra là
kết quả tất yếu của hành vi của con người gây ra. Trường hợp này người gây
thiệt hại đã thực hiện hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành động và
hành vi đó chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại phát sinh khi tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại như hoạt
động của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, cây cối đổ gẫy gây ra thiệt
hại, nhà công trình xây dựng bị sụt, đổ gây thiệt hại, gia súc gây thiệt hại…
Việc phân loại hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa trong việc xác định
căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Đối với trường hợp bồi
thường thiệt hại do hành vi gây ra thì một điều kiện không thể thiếu là hành vi

19


×