Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 121 trang )

Nguyễn Thị Thu Hhiền

Trường đại học Quố gia Hà nội
Khoa luật

--&--

Nguyễn Thị Thu Hiền

LUẬT KINH TẾ

HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG
HÓA THEO QUYẾT ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM

Luận văn thạc sĩ Luật học
Hà Nội - 2011

Hà Nội - 2011


Trường đại học Quốc Gia Hà Nội
Khoa luật

--&--

Nguyễn Thị Thu Hiền

HỢP ĐỒNG ỦY THÁC MUA BÁN HÀNG
HÓA THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM


Chuyên ngành
Mã số

: Luật Kinh tế
: 60 38 50

Luận văn thạc sĩ Luật học
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diến

Hà Nội - 2011


MỤC LỤC
Lời cam đoan

Trang

Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1. LÝ LUẬN CHUNG VÊ HỢP ĐỒNG UỶ THÁC MUA BÁN
HÀNG HOÁ

8

1.1 Khái niệm HĐMBHH


8

1.2 Khái niệm HĐUTMBHH

10

1.3 Đặc điểm của HĐUTMBHH

15

1.4 Phân biệt HĐUTMBHH và một số hoạt động TGTM khác

18

1.5 Một số nguyên tắc cơ bản của HĐUTMBHH

25

1.6 Giao kết và thực hiện HĐUTMBHH

27

1.7 Vai trò và ‎ý nghĩa của HĐUTMBHH

36

1.8 Nguồn luật điều chỉnh

38


Kết luận chương 1

39

Chƣơng 2. CÁC ĐIỀU KIỆN HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐÔNG UỶ THÁC MUA
BÁN HÀNG HOÁ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG
TƢƠNG QUAN SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƢỚC

41

2.1 Khái niệm điều kiện hiệu lực của hợp đồng

41

2.2 Điều kiện hiệu lực của HĐUTMBHH

41

2.2.1 Điều kiện hiệu lực của HĐUTMBHH theo quy định của pháp luật Việt Nam 42
2.2.1.1 HĐUTMBHH thông thường

42

2.2.1.2 HĐUTMBHH có yếu tố nước ngoài

50

2.2.2 Điều kiện hiệu lực của hợp đồng theo quy định pháp luật của một số nước 59
2.2.2.1 Các nước theo hệ thống thông luật (Common Law)


59


2.2.2.2 Các nước theo hệ thống dân luật(Civil Law)

74

Kết luận chương 2

85

Chƣơng 3. THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
UỶ THÁC MUA BÁN HÀNG HOÁ VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUÂT

87

3.1 Thực trạng thực thi HĐUTMBHH giữa các thương nhân trong nước

89

3.2 Thực trạng thực thi HĐUTMBHH có yếu tố nước ngoài

94

3.3 Tranh chấp và giải quyết tranh chấp về HĐUTMBHH

99

3.4 Giải pháp đề xuất


103

Kết luận chương 3

109

KẾT LUẬN

111

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

115


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động UTMBHH là chế định quan trọng của LTM. Các quy định
pháp luật về hoạt động UTMBHH đã khẳng định vai trò và ý nghĩa to lớn của
nó trong sử dụng TGTM như một kênh không thể thiếu trong giao thương.
Trên thế giới, TGTM được sử dụng từ lâu và được xem là thiết yếu, đặc
biệt trong lĩnh vực MBHH. Khoảng thế kỷ XIII, nhu cầu của việc mở rộng
quy mô và cường độ buôn bán hàng hoá của thương nhân từ nước này sang
nước khác qua đường biển, thương nhân thay vì theo hàng hoá giao tại cảng
đến, họ uỷ thác cho các thương nhân khác thực hiện công việc đó thay mình
và trả thù lao. Đó là khởi nguồn của việc sử dụng uỷ thác trong thương mại.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, uỷ thác
khẳng định vai trò và ý nghĩa của nó chủ yếu trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Đến nay, uỷ thác được tìm thấy trong mọi lĩnh vực của kinh doanh và là giải
pháp lý tưởng cho các thương nhân không muốn mất toàn bộ chi phí vào việc

mua bán hàng hoá hay đầu tư mà không đem lại hiệu quả.
Khi một người hay tổ chức (pháp nhân) không có đủ điều kiện cần thiết
để thực hiện các hoạt động thương mại, họ cần đến một thương nhân có năng
lực thực tế để thực hiện các hoạt động đó một cách chuyên nghiệp và hiệu quả
nhất, đặc biệt đối với MBHHQT, lĩnh vực đòi hỏi người mua phải nắm vững
thị trường, am hiểu pháp luật, phong tục tập quán nước sở tại và rõ ràng, nếu
thiếu một trong các kỹ năng này người mua sẽ gặp khó khăn, thậm chí thất bại
ở một thị trường xa lạ. Uỷ thác qua trung gian là giải pháp cho những đòi hỏi này.
Các quy định pháp luật về hoạt động UTMBHH là hành lang pháp lý quan
trọng, Tuy nhiên, chế định này chưa được quy định hoàn thiện và tương xứng
với vị trí, vai trò của nó và đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh, khi được thực
hiện nó bộc lộ nhiều hạn chế:

1


Mâu thuẫn giữa nguyên tắc chung và quy định cụ thể
Nguyên tắc thiện chí được coi là một trong những nguyên tắc nền tảng
khi xác lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự và là điều kiện căn bản để
các bên giao kết và thực hiện hợp đồng. Song nguyên tắc chung lại không
thống nhất với các quy định cụ thể của LTM. Thiện chí là yêu cầu đòi hỏi tinh
thần hợp tác giữa các bên khi tạo lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ hợp
đồng. Như vậy, về nguyên tắc nếu việc thực hiện quyền pháp lý của một bên
chủ thể có khả năng gây thiệt hại cho chủ thể phía bên kia hoặc ảnh hưởng
đến quan hệ hợp đồng thì hành vi đó phải được loại trừ.
Tuy nhiên, LTM quy định bên nhận uỷ thác có thể nhận uỷ thác mua
bán hàng hoá của nhiều bên uỷ thác khác nhau. Trong thực tế, nếu bên nhận
uỷ thác nhận uỷ thác bán hàng cho nhiều bên uỷ thác mà hàng hoá nhận uỷ
thác cùng chủng loại, cùng tính năng sử dụng, dẫn đến khả năng không thể
thực hiện đúng cam kết, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đã ký kết hoặc gây áp lực

tăng phí uỷ thác. Như vậy, trong một chừng mực, đã vi phạm yêu cầu của
nguyên tắc thiện chí.
Vấn đề xử lý hàng hoá uỷ thác không được tiếp nhận
Trong thực tế, hàng hoá được uỷ thác mua đã sẵn sàng giao nhận theo
yêu cầu của bên uỷ thác nhưng người chủ uỷ, vì nhiều lý do khác nhau, không
tiếp nhận hàng hoá được uỷ thác mặc dù người nhận uỷ thác, trong quá trình
thực hiện hợp đồng, đã thực hiện theo các chỉ dẫn và đã nhận thù lao. Điều
này có thể dẫn đến nhiều rắc rối cho người nhận uỷ thác trong việc giải phóng
hàng và thanh lý hợp đồng (thời hạn cập cảng, phí thuê tàu, địa điểm và phí
lưu kho...). Đây cũng là những đòi hỏi bức thiết cần có quy định cụ thể của
pháp luật xử lý trường hợp hàng hóa uỷ thác mua không được tiếp nhận.
Vấn đề phạm vi uỷ thác
LTM Việt Nam giới hạn hoạt động uỷ thác trong lĩnh vực MBHH
trong khi các nước quy định hoạt động đại diện trong tất cả các lĩnh vực

2


thương mại. Trong thực tiễn, hoạt động uỷ thác đầu tư, uỷ thác cho vay tín
dụng là hoạt động thương mại quan trọng và phổ biến song lại chưa được quy
định cụ thể trong LTM và các văn bản pháp luật liên quan. Với phạm vi uỷ
thác được quy định như hiện nay trong LTM sẽ là bất cập lớn khi các chủ thể,
trong hoạt động thương mại muốn sử dụng uỷ thác như một hành vi kinh
doanh (uỷ thác đầu tư xây dựng, uỷ thác cho vay tín dụng, uỷ thác cho thuê tài
sản...) nhưng không có hình thức pháp lý phù hợp. Rõ ràng, không thể mượn
hình thức UTMBHH áp dụng cho cho vay tín dụng hay uỷ thác đầu tư. Yêu
cầu cần phải có quy định hoặc chỉ dẫn áp dụng pháp luật đối với những
trường hợp tương tự trong LTM là vô cùng cần thiết. Hướng tới hoàn thiện
chế định HĐUT trong LTM, đây cũng là điểm cần sửa đổi, bổ sung.
Về khái niệm HĐUTMBHH

Hoạt động UTMBHH thể hiện đầy đủ các yếu tố của một giao dịch
thương mại và là giao dịch thương mại chủ yếu, quan trọng, cơ sở pháp lý cho
HĐUTMBHH được thực hiện nhưng không được quy định là giao dịch hay
hợp đồng UTMBHH trong LTM. Hơn nữa, LTM sử dụng thuật ngữ uỷ thác
trong khi BLDS dùng thuật ngữ uỷ quyền mà không có sự phân định rõ ràng.
Tại sao LTM không sử dụng thuật ngữ uỷ quyền MBHH? Tuy bản chất của uỷ
quyền trong dân sự khác uỷ thác trong thương mại ở tư cách pháp lý của
người thụ uỷ khi thực hiện nghĩa vụ uỷ nhiệm, nhân danh người chủ uỷ
(trong uỷ quyền) và nhân danh chính người thụ uỷ (trong uỷ thác). Tuy vậy,
ranh giới phân định giữa uỷ thác trong thương mại và uỷ quyền trong dân sự
vẫn mờ nhạt và không thể chỉ dựa trên căn cứ đó. Như vậy, trong trường hợp
vẫn giữ nguyên thuật ngữ này, LTM cần có sự phân định cụ thể giữa uỷ thác
trong LTM và uỷ quyền trong BLDS. Đây không chỉ là vấn đề mang tính học
thuật về một khái niệm trong khoa học pháp lý, đó còn là yêu cầu khách quan
và sự phù hợp với tinh thần của BLDS. Do đó, chế định HĐUTMBHH cần

3


được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện tương xứng với vị trí, vai trò của nó và
đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh.
Trong bối cảnh đó, nghiên cứu và đề xuất những giải pháp mang tính
tổng thể cho việc bổ sung, hoàn thiện chế định pháp luật về HĐUTMBHH là
một việc làm có

‎ý

nghĩa. Tác giả lựa chọn đề tài “HĐUTMBHH theo quy

định của pháp luật Việt Nam” cho luận văn với mong muốn giải quyết

những yêu cầu đó.
2.Tình hình nghiên cứu
HĐUTMBHH là một lĩnh vực nghiên cứu mới. Trong nước, đã có một
số tác giả viết về đại diện thương mại, uỷ quyền thương mại như, TS Ngô
Huy Cương, Chế định đại diện thương mại theo quy định của pháp luật Việt
Nam, nhìn từ góc độ luật so sánh; PGS. TS Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo
Luật Kinh tế; Cao Văn Tuân, Đại diện trong giao kết hợp đồng. Ở nước
ngoài, hiện cũng chưa có công trình khoa học chuyên sâu nào nghiên cứu
HĐUTMBHH ở bình diện l‎ý luận cơ bản cũng như các điều kiện hiệu lực và
thực trạng thực thi pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam.
Đi vào lĩnh vực nghiên cứu mới trên cả phương diện lý luận và thực
tiễn là một điểm khó, cần thời gian và nỗ lực không nhỏ trong khảo sát,
nghiên cứu các quy định pháp luật và năng lực tư duy trong phân tích, đánh
giá tình hình thực tiễn. Trong khuôn khổ thời gian và phạm vi nghiên cứu của
luận văn, tác giả đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất
của HĐUTMBHH, trên cơ sở đó, từ bình diện so sánh điều kiện hiệu lực của
HĐUTMBHH theo quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số
nước về điều kiện hiệu lực của hợp đồng và thực trạng thực thi pháp luật về
HĐUTMBHH ở Việt Nam đưa ra những kiến nghị, đề xuất góp phần hoàn
thiện chế định.

4


3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ
bản về HĐUTMBHH cũng như vai trò và ý nghĩa của UTMBHH đối với hoạt
động kinh doanh và sự vận động, phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Mặt khác, nghiên cứu và phân tích điều kiện hiệu lực của

HĐUTMBHH theo quy định của pháp luật Việt Nam trong tương quan so
sánh với pháp luật của một số nước và thực trạng thực thi pháp luật về
HĐUTMBHH ở Việt Nam, nhằm phát hiện và đề xuất một số giải pháp bước
đầu góp phần hoàn thiện chế định pháp luật về HĐUTMBHH.
3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của
HĐUTMBHH, điều kiện hiệu lực của HĐUTMBHH theo quy định của pháp
luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật của một số nước điển
hình cho hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới, Common Law và Civil Law
và thực trạng thực thi pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam. Tuy nhiên,
luận văn có chiều sâu, trong một chừng mực nhất định, những chuẩn mực và
kinh nghiệm pháp lý của một số nước phát triển cũng được đề cập đến.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài được cụ thể hoá trong việc
giải quyết những nhiệm vụ sau:
1) Nghiên cứu l‎ý luận chung về HĐUTMBHH.
2) Nghiên cứu các điều kiện hiệu lực của HĐUTMBHH theo quy định
của pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật của một số nước.
3) Nghiên cứu thực trạng thực thi pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Phép biện chứng duy vật của Triết học Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh được sử dụng với tư cách là phương pháp luận cho việc nghiên cứu.

5


Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng vấn đề, từng
lĩnh vực của đề tài cũng được vận dụng như: phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp phân tích quy phạm, phương pháp luận giải và diễn dịch,
phương pháp thống kê, phương pháp so sánh.

6. Đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận
- Có thể nói đây là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ
thống và tương đối toàn diện về HĐUTMBHH dưới giác độ luật học. Luận
văn xây dựng một số khái niệm trên cơ sở phân tích các quy định của BLDS
và LTM như, HĐUTMBHH, HĐUTMBHH có yếu tố nước ngoài. Đây không
chỉ là những vấn đề có tính chất phương pháp luận cho việc nghiên cứu,
hoạch định, xây dựng chế định pháp luật về HĐUTMBHH mà còn là tư liệu
cho việc xác định và xây dựng các khái niệm khác.
- Luận văn so sánh và luận giải một cách có hệ thống và có chiều sâu
HĐUTMBHH với HĐUQ, HĐDV và các hoạt động TGTM khác nhằm làm
rõ đặc điểm pháp lý của UTMBHH trong mối liên hệ với việc xác định bản
chất của uỷ thác, vấn đề mà từ trước đến nay còn nhiều ý kiến khác nhau
trong quá trình giải thích và áp dụng pháp luật.
- Lần đầu tiên, luận văn với tính chất là công trình khoa học nghiên cứu
chuyên sâu về điều kiện hiệu lực của HĐUTMBHH theo quy định của pháp
luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật của một số nước điển
hình cho hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới, Common Law và Civil Law,
phát hiện những điểm tương đồng và khác biệt, những chuẩn mực và kinh
nghiệm pháp lý làm cơ sở cho việc đề xuất một số kiến nghị bước đầu góp
phần hoàn thiện chế định pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam.
- Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát thực trạng thực thi pháp luật về
HĐUTMBHH ở Việt Nam, luận văn đã chỉ rõ nguyên nhân của những tồn tại

6


cũng như tranh chấp trong giao kết và thực hiện HĐUTMBHH và xu hướng
lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp HĐUTMBHH ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó đề ra phương hướng và giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung hoàn

thiện chế định.
Về mặt thực tiễn
- Nội dung và các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm
tư liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách trong việc sửa đổi, bổ
sung góp phần hoàn thiện chế định pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt Nam.
- Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo
phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập cho cán bộ, giáo viên và sinh
viên chuyên ngành luật.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và tư liệu tham khảo, luận văn chia làm ba chương:
Chương 1. Lý luận chung về HĐUTMBHH.
Chương 2. Điều kiện hiệu lực của của HĐUTMBHH theo quy định
của pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật của một
số nước.
Chương 3. Thực trạng thực thi pháp luật về HĐUTMBHH ở Việt
Nam và giải pháp đề xuất.

7


Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG UỶ THÁC
MUA BÁN HÀNG HOÁ
Hoạt động UTMBHH là chế định quan trọng trong pháp luật thương
mại. Để hiểu rõ chế định này, trước tiên luận văn sẽ tìm hiểu khái niệm
HĐMBHH. Từ đó, luận văn sẽ đề cập tới khái niệm, định nghĩa và các đặc
điểm của HĐUTMBHH. Các mục tiếp theo của luận văn sẽ trình bày về các
nguyên tắc cơ bản, giao kết và thực hiện, vai trò, ý nghĩa và nguồn luật điều
chỉnh HĐUTMBHH.
1.1 KHÁI NIỆM HĐMBHH

Mua bán hàng hoá có lịch sử phát triển lâu đời, tiền thân của nó gắn
liền với sự xuất hiện của xã hội loài người thời cổ đại, trao đổi đồ vật. Đó là
hình thức giao dịch cổ xưa của buổi bình minh sơ khai, con người lấy đó làm
cơ sở cho sự sinh tồn. Khi đồng tiền xuất hiện thì vật đổi tiền trở thành hình
thức trung gian cơ bản, sau này Adam Smith xây dựng trong công thức gắn
với tên tuổi của ông H-T-H, đánh dấu sự phát triển của lịch sử xã hội loài
người trong sử dụng vật trung gian để trao đổi tài sản. Khi giao thương phát
triển, trao đổi hàng hoá không chỉ diễn ra trong phạm vi vùng, lãnh thổ, nó
vượt ra ngoài biên giới quốc gia và trở thành động lực chính cho sự ra đời của
mua bán hàng hóa quốc tế.
Pháp luật Việt Nam hiện hành có hai đạo luật cơ bản điều chỉnh quan
hệ mua bán hàng hoá, BLDS 2005 và LTM 2005.
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình
thức pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hoá, một dạng riêng của hợp đồng
mua bán tài sản trong giao lưu dân sự.
Hợp đồng mua bán hàng hoá có bản chất chung của hợp đồng, là sự
thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong

8


quan hệ mua bán hàng hoá. LTM không đưa ra định nghĩa về HĐMBHH song
có thể xác định bản chất pháp lý của HĐMBHH trên cơ sở quy định của
BLDS về hợp đồng mua bán tài sản [§ 428].
HĐMBHH là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán;
bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hoá theo thoả thuận.
Quan niệm về HĐMBHH của Pháp và Nhật Bản có nhiều nét tương
đồng với Việt Nam. Điều này xuất phát từ truyền thống pháp luật của ba nước

theo hệ thống Civil Law mà điểm mấu chốt là, với lợi thế xây dựng pháp luật
sau, Việt Nam đã tham khảo pháp luật của nhiều nước, trong đó có Pháp và
Nhật Bản. Do vậy, pháp luật về hợp đồng của ba nước cơ bản là giống nhau.
Quan niệm pháp luật của Anh và một số nước chịu ảnh hưởng của hệ
thống pháp luật Common Law như, Mỹ, Australia, Canada, New Zealand, Ấn
Độ và Nam Phi thì HĐMBHH được hiểu là thoả thuận được tạo ra và xác
định bởi các nghĩa vụ (obligations) giữa hai hoặc nhiều bên về việc mua hoặc
bán các sản phẩm (products), dịch vụ (services) có thanh toán hoặc bù đắp
(compensation) [37].
Các nước theo hệ thống thông luật xác định HĐMBHH hình thành
khi có thoả thuận được xác lập giữa các bên về việc mua bán các sản
phẩm, dịch vụ có thanh toán hoặc bù đắp. Như vậy, nội hàm của khái
niệm được hiểu rộng hơn với hai tiêu chí, các nghĩa vụ được xác lập trên
cơ sở thoả thuận mua bán hàng hoá hay dịch vụ và có thanh toán hay bù
đắp. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam xác định nội hàm của khái niệm
cụ thể và hẹp hơn, ngoài nghĩa vụ giao nhận hàng hoá và thanh toán còn
quy định tiêu chí chuyển quyền sở hữu hàng hoá, thêm đó dịch vụ không
được coi là hàng hoá [§ 3.2 LTM].

9


Tiểu kết
Nền kinh tế càng phát triển, xã hội càng văn minh thì chế định hợp
đồng càng được coi trọng và hoàn thiện. Khái niệm hợp đồng ở các hệ thống
pháp luật khác nhau quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết pháp luật các
nước đều thừa nhận bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận có nguồn gốc căn
bản là sự thống nhất ý chí, nền tảng pháp lý cho các chủ thể tham gia quan hệ
hợp đồng thực hiện các quyền, nghĩa vụ.
1.2 KHÁI NIỆM HĐUTMBHH

Trên thế giới, các hoạt động trung gian thương mại đã xuất hiện từ lâu,
do nhu cầu của việc mở rộng quy mô và cường độ buôn bán hàng hoá của
thương nhân. Có thể nói, khởi nguồn của việc sử dụng hoạt động trung gian
này bắt nguồn từ thời kỳ mà việc vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước
khác bắt đầu được thực hiện bằng đường biển (khoảng thế kỷ XIII). Các
thương nhân, thay vì theo hàng hoá giao tại cảng đến, họ uỷ thác cho thương
nhân khác thực hiện công việc đó thay mình và trả thù lao. Đó là khởi nguồn
của việc sử dụng uỷ thác trong thương mại.
Cùng với sự phát triển của thương mại toàn cầu, đặc biệt từ nửa sau thế
kỷ XIX, khi các quan hệ quốc tế gia tăng đáng kể thì uỷ thác trong thương
mại, đặc biệt uỷ thác mua bán hàng hoá hay xuất nhập khẩu và một số hoạt
động trung gian khác càng trở nên có ý nghĩa.
Đến nay, ở hầu hết các nước đều tồn tại các hoạt động thương mại qua
trung gian, trong đó có uỷ thác (đại diện) mua bán hàng hoá. Ở Việt Nam, uỷ
thác là hoạt động thương mại qua trung gian được lưu ý sớm nhất.
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, uỷ thác thương mại chủ
yếu tồn tại trong khu vực kinh tế có yếu tố nước ngoài. Các khu vực kinh tế
khác, hoạt động này chưa có điều kiện để hình thành. Thời kỳ này, một số văn
bản pháp luật của Bộ ngoại thương (sau này là Bộ Thương Mại) dưới hình

10


thức Thông tư, được ban hành để điều chỉnh các hoạt động uỷ thác xuất nhập
khẩu và đặt đại lý mua bán hàng hoá ở nước ngoài [2, 3].
Khi đất nước tiếp nhận nền kinh tế thị trường, trước những đòi hỏi bức
thiết của việc sử dụng các hoạt động thương mại qua trung gian, LTM 1997 ra
đời, có những quy định cơ bản về hoạt động UTMBHH và một số hoạt động
trung gian thương mại khác như, đại lý mua bán hàng hoá, môi giới thương
mại, đại diện cho thương nhân. Sau hơn bảy năm thi hành, LTM năm 1997

bộc lộ nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung, tạo điều kiện thúc đẩy phát
triển thương mại trong nước và quốc tế.
LTM 2005 được ban hành đã có những sửa đổi, bổ sung, quy định mới,
đặc biệt đối với các hoạt động trung gian thương mại, trong đó có UTMBHH.
Theo quy định của LTM, UTMBHH là hoạt động thương mại, theo đó
bên nhận uỷ thác thực hiện công việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của
mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù
lao uỷ thác [§ 155].
Bản chất của UTMBHH là một quan hệ hợp đồng, trở lại với nguồn
gốc ban đầu của hợp đồng, đó là sự xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền, nghĩa vụ pháp lý. Cụ thể trong quan hệ này là các quyền, nghĩa vụ liên
quan đến công việc mua bán hàng hóa, được tiến hành trên cơ sở thoả thuận
uỷ thác giữa hai bên, bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác.
LTM không đưa ra định nghĩa về HĐUTMBHH, song với biểu hiện
đầy đủ các yếu tố của một hợp đồng dịch vụ [§ 518 BLDS], HĐUTMBHH
được hiểu là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên nhận uỷ thác thực hiện
công việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện
đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác.
HĐUTMBHH được xác lập trên cơ sở có đề nghị giao kết và có chấp
nhận đề nghị giao kết hay thoả thuận được tạo ra và xác định bởi nghĩa vụ về
công việc mua, bán hàng hoá có điều kiện giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác.

11


Như vậy, HĐUTMBHH mang bản chất của hợp đồng dịch vụ nhưng
chứa đựng trong đó các dấu hiệu của hợp đồng uỷ quyền.
HĐUTMBHH mang bản chất của hợp đồng dịch vụ hay HĐUTMBHH là
HĐDV dân sự trong thương mại. Về phương diện chủ thể, bên nhận uỷ thác, thực
thể cung ứng dịch vụ thương mại chuyên nghiệp được thuê thực hiện công việc

mua bán hàng hoá, nhân danh chính mình cho bên thuê và được trả thù lao theo
thoả thuận. Về đối tượng, công việc MBHH là đối tượng đặc thù của dịch vụ dân
sự trong thương mại. Về nội dung, HĐUTMBHH chứa đựng các điều khoản của
HĐDV, thoả thuận về công việc phải làm, thời hạn, thù lao...
Yếu tố uỷ quyền được thể hiện ở nghĩa vụ thực hiện công việc của
người thụ uỷ trong phạm vi được uỷ quyền và được nhận thù lao theo thoả
thuận. Tuy nhiên, uỷ thác không đồng nhất với uỷ quyền. Về bản chất của
hành vi, uỷ quyền trong dân sự là hành vi giao cho người khác sử dụng một số
quyền mà pháp luật đã trao cho mình; uỷ thác trong MBHH là hành vi giao
cho người khác làm thay công việc MBHH cho mình. Do đó, về tư cách chủ
thể khi thực hiện hành vi, bên được uỷ quyền thực hiện công việc được uỷ
quyền nhân danh bên uỷ quyền; bên nhận uỷ thác thực hiện công việc được
uỷ thác nhân danh chính mình. Về phạm vi, bên được uỷ quyền có thể được
uỷ quyền thực hiện một hoặc nhiều hành vi thương mại trong khi UTMBHH
mang tính vụ việc, thu hẹp trong lĩnh vực MBHH. Về năng lực pháp lý, bên
được uỷ quyền có thể là cá nhân, thương nhân hay tổ chức, tuỳ thuộc vào
hành vi được uỷ quyền; bên nhận uỷ thác phải là thương nhân, đặc biệt phải
có giấy phép kinh doanh phù hợp với hàng hoá được uỷ thác mua bán. Như
vậy, uỷ thác có dấu hiệu của uỷ quyền dân sự nhưng không phải uỷ quyền dân
sự trong thương mại.
Đối với HĐMBHH (thông thường), HĐUTMBHH cũng có những điểm
tương đồng và khác biệt. Về bản chất, quan hệ HĐUTMBHH là quan hệ ba

12


bên, sử dụng dịch vụ TGTM; quan hệ HĐMBHH là quan hệ mua bán trực
tiếp. Về phương diện chủ thể, bất kỳ cá nhân, thương nhân hay tổ chức cũng
có thể trở thành chủ thể của HĐMBHH trong khi HĐUTMBHH có yêu cầu
đặc thù đối với năng lực chủ thể của bên nhận uỷ thác. Về hình thức,

HĐMBHH có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào trong khi
HĐUTMBHH bắt buộc về hình thức. Tuy nhiên, chúng có điểm tương đồng
đáng lưu ý, cùng hướng đến MBHH. Điều này dẫn đến trong hợp đồng có
nhiều điều khoản quy định tương tự nhau, chẳng hạn: chủng loại hàng hoá, số
lượng, chất lượng, quy cách, giá, địa điểm, phương thức, thời hạn giao hàng.
Như vậy, HĐUTMBHH, HĐUQ và HĐDV cùng có chung đặc điểm là
sử dụng trung gian trong thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý. Điểm khác
biệt thể hiện trên phương diện bản chất hợp đồng, các yếu tố chủ thể, đối
tượng và hình thức. HĐMBHH không được xếp vào nhóm các hợp đồng trên,
bởi đây là quan hệ mua bán trực tiếp giữa các bên giao kết hợp đồng, không
sử dụng yếu tố trung gian. Tuy nhiên, giữa HĐMBHH và HĐUTMBHH có
chung nhiều điều khoản, việc phân biệt các loại hợp đồng này trong mối liên
hệ với HĐUQ và HĐDV có ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Tại sao phải uỷ thác MBHH? UTMBHH có phải uỷ quyền dân sự trong
thương mại? HĐUTMBHH có phải một loại HĐDV? Bất kỳ chủ thể nào cũng
có thể tự mình thực hiện hành vi MBHH thông thường. Tuy nhiên, ở những
điều kiện nhất định, do hạn chế về khả năng tự nhiên hoặc khả năng pháp lý,
các chủ thể không thể thực hiện được hành vi đó, họ phải thông qua thực thể
có khả năng thực hiện hành vi này. Do vậy đòi hỏi tất yếu phải có uỷ thác.
UTMBHH mang bản chất của uỷ quyền nhưng không đồng nhất với uỷ quyền
bởi bên nhận uỷ thác không nhân danh người chủ uỷ và vì thế không phải uỷ
quyền dân sự trong thương mại. HĐUTMBHH là một dạng đặc thù của
HĐDV bởi nó đáp ứng tất cả các yêu cầu của một HĐDV, bên thuê dịch vụ

13


thuê bên trung gian cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp nhân danh chính mình
thực hiện công việc có thù lao.
Các nước theo hệ thống thông luật không có quy định riêng biệt về hoạt

động UTMBHH, các quy định liên quan đến việc sử dụng dịch vụ trung gian
thương mại áp dụng Luật về hợp đồng (Law of Contract) và Luật về đại diện
thương mại (Law of Commercial Agents).
Theo đó hoạt động đại diện thương mại được hiểu là, người đại diện
(thụ uỷ) tiến hành các hoạt động thương mại (trong phạm vi uỷ quyền) nhân
danh người giao đại diện (chủ uỷ) hay nhân danh chính mình, vì lợi ích của
người giao đại diện, thông qua thoả thuận (agreement), được tạo ra và xác
định bởi các nghĩa vụ (obligations) giữa các bên [25, § 2.-1].
Như vậy, pháp luật các nước theo hệ thống thông luật không có sự tách
bạch giữa uỷ thác và đại diện thương mại. Tất cả các hoạt động uỷ quyền
thương mại thông qua bên trung gian được xác định là hoạt động đại diện.
Vấn đề cơ bản là nhân danh bên giao đại diện hay nhân danh chính bên đại
diện khi tiến hành hoạt động đại diện?
Điều này có căn nguyên là, các nước theo hệ thống Common Law coi các
hoạt động thương mại qua trung gian mang bản chất của đại diện, thay mặt và vì
lợi ích của bên giao đại diện; hơn nữa, bên đại diện thương mại không bắt buộc
phải là thương nhân; trong khi đó theo quy định của pháp luật Việt Nam, bên
TGTM, bất kể trong hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới, đại lý hay uỷ
thác mua bán hàng hoá, đều phải là thương nhân; đặc biệt đối với hoạt động uỷ
thác mua bán hàng hoá, bên nhận uỷ thác còn phải đáp ứng yêu cầu đặc thù, kinh
doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá được uỷ thác [§156 LTM].
Tiểu kết
Hợp đồng là chế định pháp luật có bề dày lịch sử và được coi là chế
định quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tuy nhiên sự khác biệt về

14


truyền thống lịch sử, văn hoá, các yếu tố địa lý, đặc biệt trình độ phát triển
kinh tế quy định sự khác biệt giữa các nước về các yếu tố của hợp đồng. Uỷ

thác, uỷ nhiệm (hay đại diện) MBHH được quy định khác nhau ở mỗi nước
song đều được thừa nhận, về bản chất, chúng đều là hành vi thương mại được
thực hiện qua trung gian. Theo đó, người thụ uỷ thực hiện công việc MBHH
trong phạm vi uỷ quyền và vì lợi ích của bên chủ uỷ để nhận thù lao theo thoả thuận.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, HĐUTMBHH mang bản chất
của HĐDV nhưng có những dấu hiệu của HĐUQ. Đặt chúng trong mối liên
hệ cho thấy, HĐUTMBHH là một dạng cụ thể của HĐDV bởi nó đáp ứng tất
cả các yếu tố của một HĐDV trong thương mại, bên dịch vụ (trung gian cung
cấp dịch vụ chuyên nghiệp) được thuê nhân danh chính mình thực hiện công
việc MBHH có thù lao. HĐUTMBHH mang bản chất của HĐUQ nhưng
không đồng nhất với HĐUQ bởi bên nhận uỷ thác không nhân danh người
chủ uỷ và vì thế không phải uỷ quyền dân sự trong thương mại. Để có cái nhìn
toàn diện, luận văn sẽ đi vào nghiên cứu cụ thể các đặc điểm của HĐUTMBHH.
1.3 ĐẶC ĐIỂM CỦA HĐUTMBHH
1.3.1 Chủ thể
HĐUTMBHH được xác lập giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác.
Bên uỷ thác là bên giao cho bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán
hàng hoá theo yêu cầu của mình. Theo quy định của LTM, bên uỷ thác là
thương nhân hoặc không phải là thương nhân.
Thương nhân, bao gồm: tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh [§ 6 LTM].
Bên uỷ thác không nhất thiết phải có tư cách thương nhân, đó có thể là
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nhu cầu UTMBHH đều có thể trở thành
người chủ uỷ. Trong thực tiễn, một cá nhân có thể uỷ thác cho một thương

15


nhân bán sản phẩm, tác phẩm của mình. VD. Thợ thủ công, nghệ nhân uỷ thác

cho thương nhân có cửa hàng, cửa hiệu bán sản phẩm; người có đồ cũ, đồ cổ
nhờ bán ký gửi [10].
Bên nhận uỷ thác, là bên thực hiện công việc được uỷ thác có thù lao.
LTM quy định cụ thể, bên nhận uỷ thác là thương nhân kinh doanh mặt hàng
phù hợp với hàng hoá được uỷ thác và thực hiện việc MBHH theo những điều
kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác. Thương nhân nhận uỷ thác có thể nhận
UTMBHH cho nhiều bên uỷ thác khác nhau [§ 161].
Như vậy, để trở thành thương nhân nhận uỷ thác hợp pháp, một thực
thể phải đáp ứng hai điều kiện: điều kiện thứ nhất, phải là thương nhân; điều
kiện thứ hai, kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá được uỷ thác.
1.3.2 Đối tƣợng của HĐUTMBHH
Theo § 518 BLDS, HĐUTMBHH là một loại hợp đồng dịch vụ, do vậy
đối tượng của HĐUTMBHH là công việc MBHH do bên nhận uỷ thác tiến
hành theo sự uỷ quyền của bên uỷ thác.
Loại hàng hoá cụ thể được mua, bán theo yêu cầu của bên uỷ thác là
đối tượng của HĐMBHH giữa bên nhận uỷ thác và bên thứ ba.
1.3.3 Nội dung của HĐUTMBHH
Nội dung của HĐUTMBHH là các điều khoản thoả thuận giữa bên uỷ
thác và bên nhận uỷ thác, thể hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của các bên trong
quan hệ uỷ thác, theo đó bên nhận uỷ thác có nghĩa vụ thực hiện công việc uỷ
thác MBHH theo uỷ quyền của bên uỷ thác và được hưởng thù lao; bên uỷ
thác có nghĩa vụ trả tiền thù lao cho bên nhận uỷ thác.
Các quyền, nghĩa vụ cụ thể của mỗi bên được quy định trong LTM,
luận văn không đi sâu vào trình bày.
Trong thực tiễn, tuỳ thuộc vào công việc được uỷ thác, nội dung của
HĐUTMBHH được thể hiện khác nhau. Tuy nhiên, nội dung cơ bản của

16



HĐUTMBHH bao gồm các điều khoản chủ yếu: hàng hoá được uỷ thác mua,
bán; thù lao uỷ thác; thời hạn thực hiện HĐUTMBHH; các biện pháp bảo
đảm thực hiện hợp đồng; trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng; các
trường hợp miễn trách nhiệm; thủ tục giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, các bên
có thể thoả thuận về vấn đề mua bảo hiểm cho hàng hoá uỷ thác để dự liệu
cho trường hợp bên nhận uỷ thác đã thực hiện đúng nghĩa vụ bảo quản hàng
hoá uỷ thác song hàng hóa vẫn gặp rủi ro ngoài tầm kiểm soát…
Pháp luật các nước có những cách khác nhau trong quy định về nội
dung hợp đồng.
Các nước theo hệ thống thông luật, điển hình là Anh- Mỹ, như đã nói ở
trên, không có quy định riêng điều chỉnh các dịch vụ trung gian trong hoạt
động thương mại. Tất cả các giao dịch qua trung gian, bất kể nhằm mục đích
gì cũng được quy định chung trong Luật đại diện (The commercial Agents
Regulations- Anh; Law of Agency- Hoa Kỳ). Về nội dung hợp đồng, về cơ
bản chỉ bắt buộc thoả thuận về điều khoản đối tượng của hợp đồng [29, Art
2], những nội dung khác, nếu các bên không thoả thuận cụ thể, có thể được
viện dẫn tập quán thương mại để xác định.
Pháp luật Việt Nam quy định cụ thể về từng hoạt động TGTM. Đối với
vấn đề nội dung hợp đồng, luật cho phép thoả thuận. Theo đó, tuỳ từng loại
hợp đồng, các bên có thể thoả thuận các nội dung chủ yếu về đối tượng; số
lượng, chất lượng; giá, phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm, phương
thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ; trách nhiệm do vi phạm; phạt hợp
đồng [§402 BLDS].
Các nước khác theo hệ thống Civil Law, bên cạnh BLDS có ban hành
LTM, quy định cụ thể về từng hoạt động TGTM, trong đó có vấn đề nội dung
hợp đồng. Điển hình là Cộng hoà Pháp, nội dung hợp đồng phải thoả thuận rõ
về đối tượng, chất lượng, giá cả [1].

17



1.3.4 Hình thức của HĐUTMBHH
Một trong những căn cứ để HĐUTMBHH được thừa nhận hợp pháp là
tuân thủ các quy định của pháp luật về hình thức hợp đồng.
LTM quy định, HĐUTMBHH phải được lập thành văn bản hoặc bằng
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương [§ 159].
Các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương văn bản bao gồm:
điện báo, TELEX, FAX, thông điệp dữ liệu [§ 3.15].
Như vậy, từ những đặc điểm về chủ thể, đối tượng, nội dung và hình
thức của HĐUTMBHH cho thấy, HĐUTMBHH có bản chất pháp lý là hợp
đồng song vụ và là hợp đồng có điều kiện.
1.4. PHÂN BIỆT HOẠT ĐỘNG UTMBHH VÀ MỘT SỐ HOẠT
ĐỘNG TRUNG GIAN THƢƠNG MẠI KHÁC
1.4.1 Đại diện cho thƣơng nhân
Trên thế giới, chế định đại diện thương mại có lịch sử phát triển lâu đời
và được xem là chế định quan trọng bậc nhất trong số các dịch vụ TGTM.
Ở châu Âu, đại diện thương mại được sử dụng phổ biến và điển hình
nhất so với các hoạt động thương mại khác qua trung gian [24, tr.12]. Điều
này có căn nguyên là, đại diện thương mại (commercial agent) được sử dụng
với nội hàm rộng. Một commercial agent khi được uỷ quyền (authorized) có
thể thực hiện nhiều hành vi thương mại thay cho thương nhân giao đại diện
(the principal).
Pháp luật Việt Nam sử dụng thuật ngữ đại diện cho thương nhân, là một
dạng của đại diện theo uỷ quyền được thực hiện trong hoạt động thương mại.
Đại diện cho thương nhân, là việc một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi
là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện
các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó
và được hưởng thù lao về việc đại diện [§ 141 LTM].

18



Như vậy, đại diện cho thương nhân được hiểu là việc bên đại diện nhân
danh bên giao đại diện thực hiện các hoạt động thương mại trong phạm vi uỷ
nhiệm và được hưởng thù lao đại diện. Với bản chất là thực hiện công việc
trong nội dung uỷ nhiệm thay thương nhân giao đại diện, đại diện cho thương
nhân có những điểm khác căn bản so với UTMBHH trên các phương diện sau:
Thứ nhất, về chủ thể, đại diện cho thương nhân bắt buộc bên giao đại
diện và bên đại diện phải là thương nhân, trong khi đó, bên uỷ thác không
nhất thiết phải là thương nhân.
LTM cũng quy định, bên giao đại diện phải là thương nhân có quyền
thực hiện hoạt động thương mại mà mình uỷ quyền, trong khi, đối với uỷ
thác, bên uỷ thác không nhất thiết phải có quyền hoạt động thương mại đối
với lĩnh vực mà họ uỷ thác. VD. Nghệ nhân ký gửi đồ trang sức tại cửa hiệu
kim hoàn.
Điều này được lý giải dựa trên hoạt động mang tính nghề nghiệp của
thương nhân. Sẽ là không hợp lý khi người thực hiện công việc thay cho họ
không am hiểu nghiệp vụ thương mại. Do đó người được uỷ nhiệm thực hiện
hành vi thay họ buộc phải có nghiệp vụ thương nhân. Với uỷ thác, bên uỷ thác
không uỷ nhiệm thực hiện hành vi thay họ mà uỷ nhiệm đối tượng của hành
vi, công việc mua bán hàng hoá, những công việc xuất phát từ nhu cầu mua
hay bán hàng hoá phục vụ hành vi thương mại (sản xuất,chế biến, tiêu thụ sản
phẩm...), cũng có thể phục vụ mục đích tiêu dùng trong đời sống sinh hoạt.
Và do đó, không đòi hỏi tư cách thương nhân của bên uỷ thác.
Thứ hai, về tư cách pháp lý khi thực hiện uỷ nhiệm, đối với uỷ thác, bên
nhận uỷ thác nhân danh chính mình khi thực hiện giao dịch với bên thứ ba, do
vậy, mọi hậu quả pháp lý của hành vi từ giao dịch đó sẽ trực tiếp mang lại cho
chính bên nhận uỷ thác. Ngược lại, bên đại diện nhân danh bên giao đại diện
khi thực hiện giao dịch với bên thứ ba và như vậy, mọi hậu quả pháp lý phát
sinh từ hành vi của bên đại diện sẽ mang lại cho bên giao đại diện.


19


Thứ ba, về phạm vi nhận uỷ nhiệm, bên nhận uỷ thác có thể nhận UTMBHH
cho nhiều bên uỷ thác, trong khi bên đại diện cho thương nhân có thể không thực
hiện được điều này trừ trường hợp hợp đồng có thoả thuận [§ 145.4 LTM].
Thứ tư, về quyền chấp nhận hay không chấp nhận hợp đồng do bên
TGTM ký với bên thứ ba không đúng thẩm quyền, bên giao đại diện có quyền
quyết định chấp nhận hay không chấp nhận hợp đồng do bên đại diện ký với
bên thứ ba trong khi UTMBHH không đặt ra vấn đề này.
Do bản chất của hoạt động đại diện cho thương nhân, bên đại diện chỉ
là người được uỷ quyền thực hiện hành vi thay cho thương nhân, mọi hậu quả
pháp lý của hành vi đại diện trực tiếp mang lại cho chính bên giao đại diện, họ
có quyền chấp nhận hay không chấp nhận hợp đồng ký ngoài phạm vi đại
diện giữa bên đại diện với bên thứ ba [§ 146.1 LTM]; đối với UTMBHH, bên
uỷ thác nhân danh chính mình khi ký kết hợp đồng với bên thứ ba, mọi hậu
quả pháp lý phát sinh từ hành vi đó trực tiếp mang lại cho chính họ, do vậy
bên nhận uỷ thác có quyền tự do lựa chọn đối tác để giao kết hợp đồng, không
phụ thuộc vào vấn đề chấp nhận hay không chấp nhận việc giao kết hợp đồng
từ phía bên uỷ thác.
1.4.2 Môi giới thƣơng mại
So với các hoạt động TGTM khác, môi giới thương mại ở Việt Nam
mới có điều kiện hình thành và phát triển những năm gần đây.
Ở thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, hoạt động môi giới thương mại gần
như không có cơ hội phát triển. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung buộc các
thực thể kinh doanh vận động theo cơ chế đã được hoạch định, lên khung, do
đó khó có cơ hội cho các TGTM hoạt động.
Sau đổi mới, đặc biệt khi kinh tế thị trường tạo lập được nền móng và
đi vào phát triển tương đối ổn định, hoạt động môi giới thương mại mới thực

sự có điều kiện phát triển. Tuy thế, so với thế giới, hoạt động môi giới thương

20


mại mới chỉ đi những bước đầu tiên. Ở các nước tư bản, đặc biệt là Mỹ, Anh,
Pháp, Nhật Bản, nơi có thị trường chứng khoán, tài chính, bất động sản phát
triển sôi động thì vai trò, vị thế và những hiệu quả to lớn mà môi giới thương
mại mang lại mới thực sự bộc lộ được những giá trị của nó.
Ở Việt Nam những năm gần đây, khi thị trường chứng khoán, tiền tệ,
bất động sản thực sự được giao dịch chính thức, công khai, vị thế của môi
giới thương mại mới khẳng định được những giá trị ban đầu của nó. Có nhiều
hơn những nhà môi giới chứng khoán, môi giới bất động sản, môi giới vận
tải... chuyên nghiệp. Tuy thế hoạt động môi giới vẫn chưa bộc lộ hết những
tiềm năng đích thực của nó.
Về phương diện pháp lý, LTM không dành nhiều quy định cho môi
giới thương mại, nếu không nói là thiếu nhiều quy định pháp lý cần thiết về
hoạt động môi giới, đặc biệt là các quy định liên quan đến quyền của bên môi
giới và bên được môi giới. Những năm tới đây, khi môi giới thương mại thực
sự phát huy tiềm năng, hiệu quả của nó, với tính chất phức tạp của hoạt động
này ở những thương trường nhạy cảm như chứng khoán, tiền tệ, bất động
sản... những sửa đổi, bổ sung cho hoạt động TGTM này là cần thiết.
Môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một bên thương
nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, dịch
vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới [§ 150 LTM].
Như vậy, môi giới được hiểu là người làm trung gian cho các bên tiếp
xúc, giao thiệp với nhau, trong hoạt động thương mại đó là người xúc tiến cho
các bên giao kết, xác lập quan hệ thương mại.
So với UTMBHH, môi giới thương mại có những điểm khác căn bản:
Thứ nhất, về phương diện chủ thể, LTM quy định, bên môi giới là

thương nhân, nhưng không nhất thiết phải có ngành nghề kinh doanh trùng
với ngành nghề kinh doanh của các bên được môi giới.

21


×