Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Việc tham gia tố tụng dân sự của Viện Kiểm sát cấp huyện qua thực tiễn tại Viện Kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 03

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ HỒNG HẠNH

VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT CẤP HUYỆN QUA THỰC
TIỄN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN
HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ HỒNG HẠNH

VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT CẤP HUYỆN QUA THỰC
TIỄN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN
HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Dân sự và tố tụng dân sự


: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẤN ANH TUẤN

HÀ NỘI - 2015

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Hồng Hạnh

3


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ 7
DANH MỤC BẢNG BIỂU .............................................................................. 7

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ ........
CỦA VIỆN KIỂM SÁT CẤP HUYỆN .......................................................... 13
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC THAM GIA TỐ
TỤNG DÂN SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ .............................................................................................. 13
1.1.1. Khái niệm về việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện .................................................................................................. 13
1.1.2. Đặc điểm của việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện .................................................................................................. 18
1.1.3. Ý nghĩa của việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện......................................................................................................... 20
1.2. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT CẤP HUYỆN .......................................................... 20
1.2.1. Chủ trƣơng của Đảng trong việc cải cách tƣ pháp là yếu tố thúc đẩy
hoạt động kiểm sát án dân sự của Viện kiểm sát cấp huyện ........................... 20
1.2.2. Tính hợp lý trong các quy định về việc tham gia tố tụng dân sự của
Viện kiểm sát cấp huyện là yếu tố tác động tới hiệu quả của công tác kiểm
sát án dân sự .................................................................................................... 21
1.2.3. Trình độ, năng lực của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cấp huyện là yếu
tố có ảnh hƣởng đến chất lƣợng kiểm sát án dân sự ....................................... 23
1.2.4. Sự gia tăng các án kiện dân sự và khiếu nại, tố cáo trong bối cảnh
hạn chế nguồn nhân lực dẫn tới sự quá tải của Viện kiểm sát cấp huyện ...... 23
1.3. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT............................................................................................ 24
4


1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 .................................................. 24
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1989 .................................................. 25

1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004 .................................................. 26
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay ............................................................ 28
1.4. VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT HAY
VIỆN CÔNG TỐ THEO PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƢỚC .................... 30
1.4.1. Viện kiểm sát Liên bang Nga ................................................................ 30
1.4.2. Viện kiểm sát Trung Quốc .................................................................... 31
1.4.3. Cơ quan công tố Hoa Kỳ ....................................................................... 32
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 33
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ VIỆC
THAM GIA TỐ TỤNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP
HUYỆN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ......................................................... 34
2.1. Kiểm sát Thông báo thụ lý vụ, việc dân sự; kiểm sát thông báo trả lại
đơn khởi kiện ................................................................................................... 34
2.2. Tham gia phiên toà, phiên họp giải quyết vụ, việc dân sự....................... 38
2.2.1. Về các trƣờng hợp tham gia phiên tòa .................................................. 37
2.2.2 Về các trƣờng hợp tham gia phiên họp dân sự. ..................................... 47
2.2.3 Về việc phân công Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp sơ
thẩm giải quyết vụ, việc dân sự ....................................................................... 53
2.2.4. Hoạt động của Kiểm sát viên trƣớc và tại phiên tòa, phiên họp sơ
thẩm giải quyết vụ, việc dân sự ....................................................................... 52
2.3. Kiểm sát các Bản án, quyết định tố tụng ................................................. 56
KẾT LUẬN CHƢƠNG II ............................................................................... 61

CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................... 62
5


3.1. THỰC TIỄN THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA VIỆN KIỂM

SÁT QUẬN HAI BÀ TRƢNG ....................................................................... 62
3.1.1. Khái quát về đặc điểm tình hình, tổ chức, cán bộ của Viện kiểm sát
nhân dân Quận Hai Bà Trƣng ......................................................................... 62
3.1.2. Về kiểm sát việc thụ lý giải quyết các vụ, việc dân sự ......................... 65
3.1.3. Về việc Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp dân sự ............... 70
3.1.4. Về kiểm sát bản án, quyết định về dân sự của Toà án .......................... 77
3.1.5. Những tồn tại, hạn chế và vƣớng mắc, bất cập trong thực tiễn tham
gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát Quận Hai Bà Trƣng, Thành phố Hà
Nội ................................................................................................................... 89
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TỪ VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................ 106
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về việc tham gia tố tụng của Viện
kiểm sát cấp huyện ........................................................................................ 106
3.2.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về việc tham gia tố tụng của Viện kiểm
sát Quận Hai Bà Trƣng.................................................................................. 112
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.............................................................................. 117
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 120

6


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
KSND : Kiểm sát nhân dân.
TTDS : Tố tụng dân sự.
HĐXX : Hội đồng xét xử.
BHXH : Bảo hiểm xã hội.
TTLT : Thông tƣ liên tịch.

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao.
TCĐC : Tổng cục Địa chính.

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng

Trang

Bảng 3.1

65

Bảng 3.2

74

Bảng 3.3

75

7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS) ra đời, một trong
những vấn đề quan trọng, có sự thay đổi lớn so với các quy định về tố tụng dân
sự kinh tế, lao động trƣớc đây là hạn chế hơn quyền hạn của Viện kiểm sát trong
tố tụng dân sự nhƣ quyền khởi tố vụ án dân sự, quyền tham gia phiên tòa, phiên

họp giải quyết các vụ việc dân sự. Tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004 quy định “ Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên Tòa đối với những
vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát
kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án”.
Sau một thời gian áp dụng trong thực tiễn, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật TTDS năm 2011 lại có những sửa đổi theo hƣớng mở rộng hơn
thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc tham gia các phiên toà dân sự, bảo đảm
việc thực hiện có hiệu quả chức năng kiểm sát trong tố tụng dân sự. Theo quy
định tại Điều 21 BLTTDS sửa đổi năm 2011 thì “Viện kiểm sát nhân dân tham
gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên toà sơ thẩm đối với
những vụ án do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp
là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên
đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần”.
Xét thực tiễn thi hành BLTTDS trong thời gian qua cho thấy, quy định của
BLTTDS về việc tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập, chƣa tạo điều kiện cho Viện kiểm sát thực hiện đƣợc đầy
đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân. Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, do những khó
khăn về trình độ dân trí, điều kiện kinh tế của ngƣời dân nên việc tự bảo vệ hoặc
nhờ Luật sƣ bảo vệ quyền lợi cho mình trƣớc Toà án cũng còn nhiều hạn chế.
Mặt khác, do sự bất cập, thiếu ổn định của hệ thống pháp luật, những tác động
tiêu cực của nền kinh tế thị trƣờng, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ xét xử
còn bất cập so với yêu cầu cải cách tƣ pháp...nên dẫn tới có nhiều vụ việc giải
quyết chƣa bảo đảm tính khách quan, gây khiếu kiện bức xúc, kéo dài, quyền lợi
8


hợp pháp của ngƣời dân không đƣợc bảo vệ kịp thời. Việc khảo sát thực tiễn
kiểm sát án dân sự tại Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai Bà Trƣng, Thành phố

Hà Nội - nơi học viên đang công tác cũng phản ánh những tồn tại, hạn chế này.
Do sự hạn chế phạm vi tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát
chủ yếu chỉ thực hiện chức năng kiểm sát thông qua việc nghiên cứu các Thông
báo, Quyết định, Bản án của Tòa án nên dẫn tới công tác kiểm sát án dân sự
nhằm phát hiện và khắc phục những sai lầm, vi phạm của Toà án còn chƣa kịp
thời và hiệu quả.
Với những lý do trên, tác giả đã lựa chọn “Việc tham gia tố tụng dân sự
của Viện kiểm sát cấp huyện qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai
Bà Trưng, Thành phố Hà Nội” làm đề tài thực hiện Luận văn thạc sĩ luật học của
mình. Việc thực hiện công trình nghiên cứu này góp phần làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và thực tiễn về việc tham gia của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự từ
công tác kiểm sát án dân sự tại Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai Bà Trƣng đồng
thời đề xuất những giải pháp về pháp luật và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác này trên thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Việc nghiên cứu cho thấy, trƣớc đây đã có một số công trình nghiên cứu,
bài viết về VKSND, nhƣ: “Vị trí, vai trò của VKS trong tố tụng dân sự theo yêu
cầu cải cách tư pháp”, của tập thể tác giả, do TS. Khuất Văn Nga làm chủ biên,
Nhà xuất bản Tƣ pháp 2008; “Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của VKS
trong tiến trình cải cách tư pháp” của TS. Lê Hữu Thể, Tạp chí Kiểm sát số 1416/2008; “Một số ý kiến về đổi mới tổ chức VKS trong chiến lược cải cách tư
pháp” của PGS. TS. Trƣơng Đắc Linh, Tạp chí Kiểm sát số 14-16/2008; “Bàn về
thẩm quyền khởi tố (khởi kiện) của VKS trong tố tụng dân sự” của TS. Nguyễn
Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát số 24/2010; “VKS hay Viện Công tố” của PGS,
TS. Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 2 (39)/2007; “Vai trò của
VKSND trong TTDS” của Phạm Vũ Ngọc Quang, Tạp chí Kiểm sát số
3/2004...Tuy nhiên, những công trình này chủ yếu tập trung nghiên cứu các vấn
đề chung về chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức bộ máy và một số quyền hạn

9



của VKS trong TTDS mà chƣa có sự nghiên cứu một cách hệ thống về việc tham
gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện.
Việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát cấp huyện qua thực tiễn
tại Viện kiểm sát Nhân dân Quận Hai Bà Trƣng, Thành phố Hà Nội là vấn đề
pháp lý tƣơng đối hẹp nên trong khoa học luật tố tụng dân sự từ trƣớc đến nay
chƣa có công trình nghiên cứu khoa học riêng biệt và chuyên sâu về những vấn
đề này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu về việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát
cấp huyện qua thực tiễn tại Viện kiểm sát Nhân dân Quận Hai Bà Trƣng, Thành
phố Hà Nội:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc tham gia tố tụng dân sự của
Viện kiểm sát cấp huyện theo các quy định của pháp luật Việt Nam.
+ Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam tại
Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai Bà Trƣng, Thành phố Hà Nội để từ đó tìm hiểu
một số những vƣớng mắc, bất cập trong thực tiễn tham gia tố tụng dân sự.
+ Đề xuất và luận chứng những quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao chất lƣợng về việc tham gia tố tụng dân sự tại Viện kiểm sát nhân dân Quận
Hai Bà Trƣng, Thành phố Hà Nội.
- Trong khuôn khổ của Luận văn thạc sỹ luật học, Luận văn giới hạn phạm
vi nghiên cứu công tác kiểm sát án dân sự ở Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
và thực tiễn ở một địa phƣơng cụ thể mà không tiếp cận nghiên cứu về công tác
kiểm sát thi hành án dân sự. Luận văn có những nghiên cứu, đánh giá tổng quan
về việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát cấp huyện nói chung và từ đó
lồng ghép phân tích về thực tiễn thực hiện tại Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai
Bà Trƣng trong những năm gần đây. Việc xác định giới hạn và định hƣớng
nghiên cứu này thực sự có ý nghĩa thiết thực và phục vụ trực tiếp cho công tác
kiểm sát án dân sự tại địa phƣơng nơi học viên công tác.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận:

10


Luận văn dựa trên phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, các quan điểm đƣờng lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về tăng cƣờng pháp chế, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền của
dân, do dân, vì dân đặc biệt là các quan điểm của Đảng chỉ đạo về cải cách tƣ
pháp.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phƣơng pháp của triết học duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử Mác xít, trong đó chú trọng các phƣơng pháp kết hợp giữa lý luận và thực
tiễn, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, phƣơng pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra
còn sử dụng các phƣơng pháp của bộ môn khoa học khác nhƣ thống kê, so sánh.
5. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về việc tham
gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát cấp huyện, thực trạng pháp luật và thực tiễn
thực hiện pháp luật tại Viện kiểm sát Nhân dân Quận Hai Bà Trƣng, Thành phố
Hà Nội và từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực hiện công tác kiểm sát án dân sự của Viện kiểm sát.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu riêng biệt và chuyên sâu về
việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát cấp huyện qua thực tiễn tại Viện
kiểm sát Nhân dân Quận Hai Bà Trƣng, Thành phố Hà Nội.
- Luận văn luận giải về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc tham gia tố
tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện; Những yếu tố ảnh hƣởng tới
việc tham gia tố tụng của Viện kiểm sát cấp huyện; Sự hình thành và phát triển
các quy định về việc tham gia tố tụng của Viện kiểm sát cấp huyện; Kinh nghiệm
lập pháp một số nƣớc về việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát.

- Luận văn luận giải và chỉ ra đƣợc những điểm mới của BLTTDS sửa đổi
năm 2011 về việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát cấp huyện; đánh giá
thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về việc tham gia tố tụng dân
sự của Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tại Viện kiểm sát Nhân dân Quận Hai
Bà Trƣng, Thành phố Hà Nội.

11


- Luận văn đƣa ra đƣợc đề xuất và cơ sở của đề xuất hoàn thiện pháp luật
và thực hiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát án dân sự trong thực
tiễn.
- Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục sơ thẩm và về nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS trong tố tụng dân sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tƣ liệu tham khảo phục vụ cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy khoa học pháp lý nói chung và đào tạo chức danh
Tƣ pháp nói riêng. Nội dung của luận văn cũng có thể góp phần xây dựng kỹ
năng nghề nghiệp của chuyên viên, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên, kỹ năng nghiên
cứu hồ sơ, đặc biệt là đối với các Kiểm sát viên kiểm sát các vụ, việc dân sự tại
Viện KSND Quận Hai Bà Trƣng, Thành phố Hà Nội theo BLTTDS sửa đổi năm
2011.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chƣơng.
- Chương 1: Khái quát về việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát
cấp huyện.
- Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về việc tham gia tố tụng
dân sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện.
- Chương 3: Thực tiễn việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát

nhân dân Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội và kiến nghị

12


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT CẤP HUYỆN

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC THAM GIA TỐ
TỤNG DÂN SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm về việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện
Ở nƣớc CHXHCN Việt Nam, “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [11]. Việc thi hành có hiệu lực chức năng
nhiệm vụ của mình, với sự phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ giữa hệ thống các cơ
quan lập pháp, hành pháp và tƣ pháp có vị trí, vai trò quan trọng để tạo nên sức
mạnh tổng hợp của quyền lực Nhà nƣớc. Quyền tƣ pháp đƣợc thực hiện bởi hệ
thống các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (VKS), Toà án, Cơ quan thi hành án.
Các cơ quan này đều có nhiệm vụ chung là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa
(XHCN), bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể, bảo
vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Trong đó, VKS
đƣợc thành lập nhƣ một hệ thống cơ quan chuyên môn, chịu trách nhiệm trƣớc
Quốc hội và thực hiện chức năng kiểm sát do Quốc hội giao cho.
Ở nƣớc ta, chức năng của VKS đã từng đƣợc xác định trong Tờ trình
Quốc hội về Luật tổ chức Viện KSND năm 1960: “…Vì lẽ trên phải tổ chức ra
Viện KSND để kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế XHCN,
đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Đây cũng
chính là chức năng cơ bản của Viện KSND. Việc giao cho Viện kiểm sát đảm

nhiệm chức năng này là hoàn toàn phù hợp với lý luận cũng nhƣ thực tiễn. Theo
V.I Lênin trong tác phẩm “Bàn về chế độ trực thuộc song trùng và pháp chế” đã
khẳng định: “…pháp chế chỉ có một, để thiết lập pháp chế thống nhất chống lại
một cách hiệu quả bệnh cục bộ, địa phương chủ nghĩa cần thành lập cơ quan
VKS”. [2]. Viện kiểm sát chỉ làm một công việc mà thôi, tức là làm thế nào cho
pháp chế đƣợc hiểu biết và tuân thủ thống nhất trong toàn nƣớc cộng hòa.
13


Trong quá trình đổi mới, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam, Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi) đã xác định vai trò của Viện KSND. Theo đó, Viện
KSND là một hệ thống cơ quan có vị trí độc lập trong bộ máy nhà nƣớc, đƣợc tổ
chức thành một hệ thống từ trung ƣơng xuống địa phƣơng (cấp tỉnh và huyện), có
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp, bảo đảm
cho pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Tại Điều 1 của Luật
tổ chức Viện KSND công bố ngày 12/4/2002 cũng ghi nhận lại chức năng của
VKS: “Viện KSND thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”. Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 sửa
đổi, bổ sung năm 2002 quy định “VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp”. Nghị quyết 49-NQ/TƢ ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 vẫn khẳng định hai chức năng cơ bản
của Viện kiểm sát: “Viện KSND giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”.
Xuất phát từ chức năng chung của ngành kiểm sát, Viện KSND cấp huyện
tham gia vào quá trình giải quyết các vụ, việc dân sự của Toà án nhằm kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ quá trình tố tụng, bảo đảm tính pháp chế
trong các phán quyết của Toà án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc
cũng nhƣ mọi thành viên trong xã hội. Việc tham gia của Viện KSND cấp huyện
vào quan hệ pháp luật TTDS là tất yếu và khách quan, nhằm đáp ứng yêu cầu về
bảo đảm sự tuân thủ theo pháp luật trong tố tụng dân sự của Toà án cấp huyện –

cơ quan tƣ pháp có thẩm quyền sơ thẩm phần lớn các vụ việc dân sự, đồng thời
bảo đảm quyền của con ngƣời, quyền công dân trong lĩnh vực dân sự.
Dựa trên các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nƣớc ta, Toà án và
Viện kiểm sát đƣợc tổ chức thành các hệ thống cơ quan có chức năng riêng biệt,
độc lập với nhau và đều chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc
hội. Toà án cấp huyện có nhiệm vụ xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
nhằm bảo đảm thực hiện các quyền của công dân trong hầu hết các vụ việc dân
sự thuộc thẩm quyền của dân sự của hệ thống Toà án. Tuy nhiên, để Toà án cấp
huyện có thể đảm đƣơng một cách tốt nhất chức năng và nhiệm vụ của mình, hạn
chế những sai lầm thiếu sót của Toà án cấp huyện trong quá trình xét xử thì cần
14


phải chịu sự giám sát nhất định từ phía VKS. Với chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật, Viện KSND cấp huyện tham gia vào quá trình giải quyết các vụ
việc dân sự nhằm tạo ra sự kiềm chế, giám sát đối với Toà án cấp huyện, đảm
bảo cho quá trình TTDS đƣợc diễn ra theo đúng các quy định của pháp luật, các
quyền và nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự đƣợc tôn trọng.
Bên cạnh việc đảm bảo sự tuân thủ pháp luật về tố tụng, việc tham gia của
Viện KSND cấp huyện trong hoạt động TTDS cũng góp phần tăng cƣờng tính
pháp chế trong các quan hệ pháp luật dân sự về nội dung. Theo Mác: “Nhiệm vụ
của công tác xét xử bảo vệ pháp luật khỏi những vi phạm chỉ ra rằng: tố tụng là
hình thức bảo vệ pháp luật”[1,tr.1958]. Nhƣ vậy, Viện kiểm sát cấp huyện là cơ
quan tiến hành tố tụng với chức năng kiểm sát các hoạt động tƣ pháp – một chức
năng Hiến định của Viện kiểm sát, Luật tổ chức VKSND năm 2002 xác định
kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự là một lĩnh vực công tác thực hiện chức
năng trên. Cụ thể theo quy định của các điều 20, 21, 22 Luật Tổ chức Viện
KSND năm 2002 đã quy định rất rõ ràng và chi tiết.
Điều 20 Luật Tổ chức Viện KSND năm 2002 quy định: “Viện kiểm sát
nhân dân kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, hành

chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật nhằm
bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật, kịp thời”.
Điều 21 Luật Tổ chức Viện KSND năm 2002 quy định: “ Khi kiểm sát
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh tế, lao
động và những việc khác theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ vụ án; yêu cầu Toà án nhân dân hoặc tự
mình xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án;
2. Khởi tố vụ án theo quy định của pháp luật;
3. Tham gia các phiên tòa và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân
dân về việc giải quyết vụ án;
4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án
nhân dân;
5. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;
15


6. Kiểm sát các bản án và quyết định của Toà án nhân dân;
7. Yêu cầu Toà án nhân dân áp dụng những biện pháp khẩn cấp tạm thời
theo quy định của pháp luật;
8. Yêu cầu Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ
án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc
khác theo quy định của pháp luật để xem xét, quyết định việc kháng nghị.
Điều 22 Luật Tổ chức Viện KSND năm 2002 quy định: “Khi kiểm sát việc
giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động
và những việc khác theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án,
quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật; kiến nghị với Toà
án nhân dân cùng cấp và cấp dưới khắc phục những vi phạm pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án; nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự”.

Tại Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tƣ pháp”. Khoản 1 Điều 2
LTCVKSND công bố ngày 24/11/2014 đã ghi nhận chức năng của VKSND:
“Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Xuất phát từ chức năng
chung của ngành, VKSND tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự của
TAND nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng, bảo đảm
tính pháp chế trong các phán quyết của Toà án, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật đƣợc chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Nếu so sánh với các quy định trƣớc đây thì quyền hạn của Viện kiểm sát
cấp huyện theo quy định tại Điều 27 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014 đã bị thu hẹp hơn. Theo đó, Viện kiểm sát cấp huyện đã không còn quyền
tự mình xác minh hoặc yêu cầu Toà án xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ
nhằm giải quyết đúng đắn vụ án và cũng không còn quyền khởi tố vụ án dân sự
nhƣ theo quy định của trƣớc đây nữa. Cụ thể là khi kiểm sát việc giải quyết vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động thì Viện
16


kiểm sát cấp huyện có quyền kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu;
kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án, vụ việc; thu thập tài liệu, chứng cứ trong
trƣờng hợp pháp luật quy định; tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan
điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án, vụ việc theo quy định của pháp
luật; kiểm sát bản án, quyết định của Toà án; kiểm sát hoạt động tố tụng của
ngƣời tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý
nghiêm minh ngƣời tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; kháng nghị, kiến nghị
bản án, quyết định của Toà án có vi phạm pháp luật; kiến nghị, yêu cầu Toà án,
cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng.v.v...

Nhƣ vậy, VKS cấp huyện tham gia vào TTDS góp phần giúp Toà án cấp
huyện giải quyết đúng đắn vụ, việc dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nƣớc và công dân, đó cũng chính là bảo đảm pháp chế XHCN đƣợc tôn
trọng trong toàn bộ quá trình tố tụng của Toà án. Từ việc phân tích trên, có thể
định nghĩa về việc tham gia tố tụng dân sự của VKSND cấp huyện nhƣ sau:
“Việc tham gia tố tụng dân sự của VKSND cấp huyện là việc VKSND cấp huyện
tham gia vào quá trình tố tụng dân sự với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng,
có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật
được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự
tại Toà án”.
Theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì VKSND cấp
huyện gồm có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc do Viện trƣởng, các Phó
viện trƣởng phụ trách. Viện KSND cấp huyện gồm có Viện trƣởng, các Phó viện
trƣởng và các Kiểm sát viên. Theo đó, Viện KSND cấp huyện là cơ quan tiến
hành tố tụng; Viện trƣởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên Viện KSND cấp huyện
là những ngƣời tiến hành tố tụng thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp
thời, đúng pháp luật. Do vậy, nếu hiểu theo góc độ chủ thể cụ thể tiến hành việc
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự thì “Việc tham gia tố tụng
dân sự của VKSND cấp huyện là hoạt động của Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm
sát viên thuộc Viện KSND cấp huyện trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Toà án cấp sơ thẩm, của đương sự và những người tham gia tố tụng khác
17


trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm, nhằm bảo đảm
việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật”.
1.1.2. Đặc điểm của việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện
Trong suốt quá trình tham gia kiểm sát việc giải quyết vụ, việc dân sự,

VKSND đƣợc ghi nhận là cơ quan tiến hành tố tụng và đƣợc giao nhiệm vụ thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tƣ pháp. Việc
tham gia của Viện KSND cấp huyện trong TTDS có những đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện là cơ quan chủ yếu kiểm sát
hoạt động tố tụng dân sự của Toà án cấp huyện
Theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành, VKSND là cơ quan có chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp. Với chức năng,
nhiệm vụ của mình, Viện KSND cấp huyện thực hiện quyền lực Nhà nƣớc trực
tiếp tham gia giám sát các hoạt động tƣ pháp góp phần bảo vệ pháp chế XHCN,
quyền làm chủ của nhân dân; bảo đảm trật tự xã hội.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
giải quyết vụ việc dân sự của TAND, Viện KSND cấp huyện có nhiệm vụ, quyền
hạn kiểm sát thông báo, quyết định và các văn bản có liên quan đến việc giải
quyết vụ việc dân sự của Toà án; kiểm sát việc chuyển giao các loại văn bản có
liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự của Toà án; kiểm sát việc chuyển
giao các loại văn bản trên của Toà án có đúng quy định của pháp luật tố tụng dân
sự hay không…
- Thứ hai, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thuộc Viện KSND cấp
huyện là chủ thể thực hiện việc kiểm sát hoạt động tố tụng dân sự và phải tuân
thủ những quy định về trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
VKSND cấp huyện là chủ thể của quan hệ pháp luật TTDS, có những
quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định (quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị) với
vị trí pháp lý hoàn toàn khác với vị trí của các chủ thể tham gia tố tụng để thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình toàn bộ quá
trình TTDS. Là cơ quan tiến hành tố tụng, song khác với Toà án cấp huyện là chủ
thể chính có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, trực tiếp tham gia vào tất cả
18


các giai đoạn của quá trình sơ thẩm vụ việc dân sự, sự có mặt của Viện KSND

cấp huyện không mang tính chất bắt buộc thƣờng xuyên liên tục. Về mặt pháp lý,
Viện KSND cấp huyện chỉ tham gia một số hoạt động kiểm sát nhƣ kiểm sát
thông báo thụ lý, kiểm sát thông báo trả lại đơn khởi kiện, kiểm sát bản án, quyết
định…
Khi tham gia phiên tòa, phiên họp Kiểm sát viên đại diện cho Viện KSND
cấp huyện thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện KSND đƣợc pháp luật TTDS
quy định. Đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án, ngƣời tham gia tố
tụng. Vấn đề này đƣợc thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa mà chủ thể tiến hành là
Kiểm sát viên Viện KSND cấp huyện. Việc tham gia tố tụng dân sự của Kiểm sát
viên cấp huyện tại phiên tòa, phiên họp vừa thể hiện vai trò giám sát, vừa thể
hiện sự hỗ trợ cùng với Toà án trong việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
Tuy thực hiện việc kiểm sát trong tố tụng dân sự nhƣng Kiểm sát viên Viện
KSND cấp huyện cũng phải tuân theo các quy định về trình tự, thủ tục đƣợc pháp
luật tố tụng dân sự quy định.
- Thứ ba, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện chỉ thực hiện việc kiểm sát
việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tố tụng tại Toà án cấp huyện
Việc kiểm sát của Viện kiểm sát cấp huyện chỉ giới hạn trong phạm vi
những hoạt động tố tụng dân sự tại Toà án cấp sơ thẩm nhƣ kiểm sát việc thụ lý,
trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự; tham gia phiên tòa,
phiên họp sơ thẩm tại Toà án cấp huyện, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát
về việc giải quyết vụ án, vụ việc; kiểm sát bản án, quyết định của Toà án; kiểm
sát hoạt động tố tụng của ngƣời tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền xử lý ngƣời tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; kháng nghị,
kiến nghị bản án, quyết định của Toà án có vi phạm pháp luật; kiến nghị, yêu cầu
Toà án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng.v.v...Nếu phát hiện
sai lầm, vi phạm của Toà án cấp huyện thì Viện trƣởng Viện kiểm sát cấp huyện
có thể kháng nghị phúc thẩm nhƣng không đƣợc tiến hành các hoạt động kiểm
sát tại Toà án cấp phúc thẩm, không có quyền tham gia phiên toà và phát biểu
quan điểm của Viện kiểm sát cấp huyện tại Toà án cấp phúc thẩm.


19


1.1.3. Ý nghĩa của việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện
Việc tham gia tố tụng của Viện KSND cấp huyện trong TTDS có ý nghĩa
to lớn trong việc bảo vệ tính tối cao của pháp luật. Viện KSND cấp huyện có vai
trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ giám sát việc thực thi pháp luật của
các cơ quan tƣ pháp.
Việc tham gia của Viện KSND cấp huyện góp phần hạn chế, phát hiện và
đẩy lùi kịp thời những hạn chế, tiêu cực thiếu sót trong quá trình giải quyết vụ,
việc dân sự của Toà án từ cơ sở, đồng thời góp phần nâng cao tinh thần trách
nhiệm của Thẩm phán trong hoạt động giải quyết vụ, việc dân sự, hạn chế ở mức
thấp nhất có thể việc quyền lợi của đƣơng sự không đƣợc bảo đảm từ cấp sơ
thẩm dẫn tới việc kháng cáo và phải tiến hành phúc thẩm một cách không cần
thiết.
Việc tham gia của Viện KSND cấp huyện đảm bảo việc giải quyết vụ,
việc dân sự nhanh chóng, khách quan, toàn diện, đầy đủ và kịp thời, bảo vệ lợi
ích của Nhà nƣớc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân; bảo đảm bản án, quyết định của Toà án cấp huyện có căn cứ và đúng pháp
luật.
1.2. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI VIỆC THAM GIA TỐ
TỤNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT CẤP HUYỆN
1.2.1. Chủ trƣơng của Đảng trong việc cải cách tƣ pháp là yếu tố thúc đẩy
hoạt động kiểm sát án dân sự của Viện kiểm sát cấp huyện
Hiện nay, Đảng và Nhà nƣớc ta chủ trƣơng đẩy mạnh xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền XHCN, mà nội dung cốt lõi chính là sự quản lý nhà nƣớc và xã hội
bằng pháp luật, đòi hỏi sự tuân theo pháp luật triệt để của các cơ quan nhà nƣớc,
các tổ chức và công dân. Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của Đảng ta (bổ sung, phát triển năm 2011) và Báo cáo chính trị

của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X trình Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI nêu rõ: Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân...Quyền lực Nhà nƣớc là thống nhất; có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tƣ pháp. Nhà nƣớc ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng
20


pháp luật và không ngừng tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cƣờng các
cơ chế giám sát [26, tr 85, 251] . Qua sơ kết 03 năm thực hiện Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến
năm 2020, Bộ chính trị đã chỉ rõ: Một trong những nguyên nhân làm cho chất
lƣợng xét xử các vụ án dân sự thời gian qua còn thấp là do chƣa có cơ chế giám
sát, kiểm sát hiệu quả việc giải quyết các vụ án này[14]. Kết luận số 79-KL/TW
ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động Toà án,
VKS, Cơ quan điều tra khẳng định: “VKSND có chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay...”. Báo cáo chính trị của
Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Khóa X trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI yêu cầu cần phải “bảo đảm tốt hơn các điều kiện để VKSND thực hiện hiệu
quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” [32,
tr ] . Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng (khóa XI)
xác định: VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tƣ pháp. Trong hệ thống cơ quan kiểm sát thì Viện kiểm sát cấp huyện là cơ quan
đóng vai trò quan trọng, phần lớn các hoạt động tố tụng dân sự của Toà án cần
phải kiểm sát là hoạt động tố tụng do Toà án cấp huyện thực hiện. Nếu thực hiện
tốt đƣợc khâu kiểm sát tố tụng dân sự tại cấp sơ thẩm này thì sẽ hạn chế đƣợc
khối lƣợng công việc phát sinh ở Viện kiểm sát cấp tỉnh và cấp tối cao. Vì vậy,
đƣờng lối cải cách tƣ pháp dân sự với định hƣớng nâng cao hiệu quả kiểm sát
hoạt động tƣ pháp dân sự là yếu tố tạo thêm sức mạnh, động lực và quyết tâm của
ngành trong việc tăng cƣờng công tác kiểm sát án dân sự của Viện kiểm sát cấp
huyện.

1.2.2. Tính hợp lý trong các quy định về việc tham gia tố tụng dân sự của
Viện kiểm sát cấp huyện là yếu tố tác động tới hiệu quả của công tác kiểm
sát án dân sự
Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nƣớc, mặc dù chức năng của
VKS có sự điều chỉnh: Thực hiện chức năng KSVTTPL và thực hành quyền
công tố theo quy định của Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và các Luật Tổ chức
VKSND 1960, 1981, 1992; thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tƣ pháp theo Hiến pháp 1992, đƣợc sửa đổi, bổ sung năm
21


2001 và Luật Tổ chức VKSND năm 2002. Song, yêu cầu kiểm sát hoạt động tƣ
pháp nói chung và trong lĩnh vực dân sự nói riêng luôn đặt ra và đƣợc pháp luật
ghi nhận. KSVTTPL trong TTDS xuất phát từ chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp (cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên
ngoài) và gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của VKSND.
Trƣớc năm 2004, phạm vi và quyền hạn của Viện kiểm sát cấp huyện đối
với kiểm sát án dân sự sơ thẩm đƣợc mở rộng. Theo đó, Viện kiểm sát cấp huyện
có quyền khởi tố vụ án dân sự, quyền yêu cầu Toà án điều tra xác minh hoặc tự
mình tiến hành điều tra xác minh nếu thấy cần thiết; có quyền tham gia các phiên
toà sơ thẩm dân sự...Với phạm vi quyền hạn này, Viện kiểm sát cấp huyện có thể
thực hiện tốt hơn và có hiệu quả vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự. Tuy nhiên, BLTTDS sửa đổi năm 2011 đã hạn chế hơn quyền hạn
của Viện kiểm sát cấp huyện, đặc biệt là quyền tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ
thẩm. Sự hạn chế này đã làm ảnh hƣởng không nhỏ tới hiệu quả công tác kiểm
sát án dân sự, do tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác kiểm sát việc giải quyết
các vụ việc dân sự bị thu hẹp; số lƣợng cán bộ, Kiểm sát viên bị giảm thiểu do
hạn chế nhu cầu công việc.
Hoạt động chủ yếu của cán bộ, Kiểm sát viên là tiếp nhận thông báo thụ
lý, các quyết định, bản án do Toà án chuyển đến sau khi đã giải quyết và có

nhiệm vụ nghiên cứu để phát hiện vi phạm, sai lầm của Toà án khi giải quyết
tranh chấp. Vấn đề đặt ra là nếu chỉ kiểm sát thông qua nghiên cứu vụ án bằng
việc đọc các quyết định, bản án để phát hiện sai lầm, vi phạm của Toà án khi giải
quyết tranh chấp là không khả thi. Việc bãi bỏ quy định về quyền kiểm sát hồ sơ
của Toà án dẫn tới việc hạn chế, thậm chí làm giảm đáng kể hiệu quả kiểm sát
của Viện kiểm sát cấp huyện đối với công tác kiểm sát án dân sự. Xét cả về lý
thuyết và thực tiễn, bản án đƣợc ban hành có thể không phản ánh đầy đủ, đúng
các tình tiết, sự kiện, chứng cứ có trong hồ sơ, tính chân thực trong lời khai báo,
trình bày của đƣơng sự, ngƣời làm chứng. Ngoài ra, việc Toà án chƣa thu thập
đầy đủ chứng cứ, tài liệu cần thiết để giải quyết vụ án, hoặc không còn khả năng
để xác minh làm rõ hơn, tình tiết quan trọng của vụ án, bỏ qua một vài tình tiết
có liên quan đến đánh giá, vận dụng pháp luật nội dung...cũng có thể dẫn tới bản
22


án của Toà án có những sai lầm nghiêm trọng. Nếu chỉ dựa vào bản án, quyết
định thì Viện kiểm sát cấp huyện cũng thiếu dữ liệu cần thiết, không thể đủ cơ sở
tin cậy để phát hiện sai lầm, vi phạm của Toà án. Trên phƣơng diện cải cách tƣ
pháp, nếu yêu cầu tăng cƣờng vai trò của Viện kiểm sát thực hiện chức năng
kiểm sát các hoạt động tƣ pháp thì việc hạn chế quyền hạn của Viện kiểm sát
trong tố tụng dân sự có thể dẫn tới Viện kiểm sát cấp huyện không thể thực hiện
có hiệu quả chức năng của mình.
1.2.3. Trình độ, năng lực của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cấp huyện là yếu
tố có ảnh hƣởng đến chất lƣợng kiểm sát án dân sự
Việc nghiên cứu cho thấy kiểm sát án dân sự là một lĩnh vực khá phức tạp
và nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của dân nên đòi hỏi cán bộ làm
công tác này phải am hiểu sâu sắc về chính sách pháp luật về dân sự, hôn nhân
gia đình, thƣơng mại, lao động qua từng thời kỳ lịch sử đồng thời phải nắm vững
quy trình và thủ tục tố tụng tƣ pháp. Do vậy, trình độ, năng lực của Kiểm sát viên
Viện kiểm sát cấp huyện là yếu tố có ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng kiểm

sát án dân sự. Nếu các Viện kiểm sát địa phƣơng không coi trọng nhiệm vụ công
tác kiểm sát dân sự, không có sự đầu tƣ cán bộ bảo đảm năng lực và phẩm chất
để thực hiện nhiệm vụ công tác này, bố trí cán bộ mới vào ngành, ít kinh nghiệm
hoặc bố trí cán bộ năng lực hạn chế để làm công tác kiểm sát dân sự thì chất
lƣợng công tác kiểm sát không thể đạt yêu cầu.
1.2.4. Sự gia tăng các án kiện dân sự và khiếu nại, tố cáo trong bối cảnh hạn
chế nguồn nhân lực dẫn tới sự quá tải của Viện kiểm sát cấp huyện
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế số lƣợng các tranh chấp dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh thƣơng mại và lao động phát sinh tại Toà án cấp huyện
ngày một nhiều và phức tạp. Thực tiễn giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
dân sự những năm qua cũng cho thấy các đơn thƣ khiếu nại, tố cáo của công dân,
cơ quan, tổ chức gửi đến Viện kiểm sát ngày một gia tăng dẫn tới ngành kiểm sát
quá tải về công việc gây ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng của công tác kiểm
sát án dân sự. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong số các đơn thƣ khiếu nại, tố cáo
của công dân, cơ quan, tổ chức gửi đến Viện kiểm sát thì chủ yếu là các đơn thƣ
khiếu nại, tố cáo về việc giải quyết các tranh chấp dân sự (chiếm với tỷ lệ 70%).
23


Các đơn khiếu nại, tố cáo này tập trung vào việc khiếu nại các phán quyết của cơ
quan tố tụng hoặc tố cáo cán bộ tƣ pháp giải quyết các tranh chấp dân sự của Toà
án không bảo đảm sự vô tƣ, khách quan, gây khó khăn, không tạo thuận lợi cho
việc thực thi quyền con ngƣời, quyền công dân hoặc không đúng pháp luật. Để
có thể xử lý toàn bộ và có hiệu quả các khiếu nại, tố cáo này đòi hỏi phải có một
đội ngũ đông đảo các kiểm sát viên chuyên nghiệp có đủ năng lực và phẩm chất
để hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao. Do vậy, vấn đề cân đối giữa nguồn nhân lực
và số lƣợng công việc phát sinh cần kiểm sát đƣợc coi là then chốt của công tác
kiểm sát án dân sự của Viện kiểm sát cấp huyện. Sự mất cân đối giữa số lƣợng
công việc và biên chế kiểm sát sẽ ảnh hƣởng không nhỏ tới hiệu quả và chất
lƣợng của công tác kiểm sát.

1.3. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ VIỆC THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Ngay từ sau cách mạng tháng tám, để xây dựng và củng cố chính quyền
cách mạng non trẻ, Nhà nƣớc ta đã ban hành hàng loạt văn bản pháp luật quy
định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc. Pháp luật Nhà nƣớc ta
trong giai đoạn này quy định về vị trí, chức năng và nhiệm vụ của Công tố viên
trong TTDS nhƣ sau: Trong cuộc cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta lần đầu: Sắc lệnh số
13 ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa và các ngạch thẩm phán theo quy định thẩm
phán đƣợc chia thành hai ngạch: Sơ cấp và đệ nhị cấp (trong đó, Thẩm phán ở
ngạch đệ nhị cấp đƣợc chia thành hai loại: Thẩm phán xét xử và Thẩm phán buộc
tội). Công tố viện lúc đó đƣợc ra đời ở Tòa thƣợng thẩm và chịu sự lãnh đạo của
Bộ trƣởng tƣ pháp, đứng đầu Công tố viện và chƣởng lý. Cơ quan công tố không
đƣợc thành lập ở tòa đệ nhị mà chỉ có cán bộ làm công tác biện lý. Trong giai
đoạn này, Thẩm phán buộc tội đã hợp thành một bộ phận độc lập và chịu sự lãnh
đạo của Chƣởng lý. Khi tham gia phiên tòa, “Biện lý ngồi ghế Công tố viên”. Sắc
lệnh số 7/SL ngày 15/1/1946 còn quy định: “Đứng buộc tội, tùy quyết nghị của
Bộ trƣởng Bộ tƣ pháp sẽ là nhân viên của Công tố viện do Chƣởng lý Tòa
thƣợng thẩm chỉ định”. Theo quy định của Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 thì
24


Công tố viện tham gia TTDS dƣới hình thức, đó là tham gia tố tụng đối với
những vụ án dân sự với tƣ cách là ngƣời thi hành quyền công tố (Điều 22 sắc
lệnh) và khởi tố vụ án dân sự (đứng làm Chánh tố - Điều 41 Sắc lệnh). Nhƣ vậy,
công tố viện bƣớc đầu đƣợc hình thành và nằm trong hệ thống của cơ quan Toà
án với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố
Nhà nƣớc.
Công cuộc cải cách tƣ pháp lần thứ hai: Bắt đầu vào năm 1950, Công tố

viện đƣợc đặt dƣới sự điều khiển của Ủy ban kháng chiến hành chính. Trong giai
đoạn này, Công tố viện nằm trong cơ cấu của cơ quan hành pháp, các đƣờng lối
phạm vi hoạt động, sự tham gia tố tụng của Công tố viện đƣợc mở rộng sang các
vụ việc dân sự.
Công cuộc cải cách tƣ pháp lần thứ ba: diễn ra vào năm 1958, đây là giai
đoạn giao thời, quyết định cho việc chuyển Công tố viện thành VKSND, một
hình thức hoàn thiện hơn, đáp ứng nhu cầu mới của Cách mạng trong những năm
tiếp theo. Trong TTDS, theo Công văn số 1137/HCTP ngày 5/6/1958 Bộ tƣ pháp
về việc đơn giản một số thủ tục ở phiên toà quy định rõ hơn về quyền khởi tố và
tham gia tố tụng của Công tố viện có hƣớng dẫn nhƣ sau: “Về việc dân sự, Công
tố viện có nhiệm vụ khởi tố và tham gia tố tụng đối với những vụ án dân sự quan
trọng có liên quan đến lợi ích Nhà nƣớc của nhân dân. Còn đối với những vụ án
dân sự thƣờng thì Công tố viện không cần phải tham dự phiên tòa”.
Nhƣ vậy, trong giai đoạn này, vai trò của Viện KSND trong TTDS đã
đƣợc quy định tƣơng đối đầy đủ, khẳng định đƣợc vị trí và vai trò của Viện
KSND trong TTDS là cơ sở cho sự kế thừa và phát triển cho việc hoàn thiện các
quy định của pháp luật TTDS Việt Nam sau này.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1989
Hiến pháp 1959 ra đời, Công tố viện chính thức đƣợc chuyển thành Viện
KSND đƣợc tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ trung ƣơng đến địa
phƣơng không phụ thuộc vào cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính địa
phƣơng. Ngoài chức năng công tố, Viện KSND còn đƣợc giao chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật từ các Bộ trở xuống; trong đó có cả hệ thống các
TAND. Quyền hạn và nhiệm vụ của Viện KSND trong TTDS đƣợc quy định cụ
25


×