Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Xây dựng khung pháp luật nhằm phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 60 38 50

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

LÊ HÀ VŨ

XÂY DỰNG KHUNG PHÁP LUẬT NHẰM PHÁT
TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2006
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT


LÊ HÀ VŨ

XÂY DỰNG KHUNG PHÁP LUẬT NHẰM PHÁT
TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Ngô Đức Mạnh

HÀ NỘI - 2006


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 3
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 3
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài .............................................................. 5
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 7
5. Nội dung nghiên cứu ............................................................................. 7
6. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 8
Chƣơng 1 THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC
PHÁT TRIỂN THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở NƢỚC TA ........................ 9
1.1. Một số vấn đề cơ bản về thương mại điện tử ..................................... 9
1.2. Phát triển thương mại điện tử ở nước ta là đòi hỏi mang tính tất yếu
khách quan ............................................................................................... 21
Chƣơng 2 NHỮNG YÊU CẦU PHÁP LÝ ĐỐI VỚI TMĐT VÀ THỰC
TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT NƢỚC TA VỀ TMĐT.............................. 26
2.1. Những yêu cầu pháp lý cơ bản ......................................................... 26
2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về thương mại điện tử ................... 32
2.3. Kinh nghiệm của các nước về xây dựng khung pháp luật cho thương
mại điện tử ............................................................................................... 47
Chƣơng 3 GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN KHUNG
PHÁP LUẬT NHẰM PHÁT TRIỂN TMĐT Ở NƢỚC TA.................. 61
3.1. Các nguyên tắc cơ bản ..................................................................... 61
3.2. Các nhóm giải pháp ......................................................................... 62
KẾT LUẬN ................................................................................................ 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 76

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ATM: Máy rút tiền tự động
BCVT: Bưu chính viễn thông
BLDS: Bộ luật dân sự
CA: Tổ chức chứng thực
CKĐT: Chữ ký điện tử
CNTT: Công nghệ thông tin
EU: Liên minh Châu Âu
GDĐT: Giao dịch điện tử
OECD: Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế
RAM: Bộ nhớ máy tính tạm thời
SWIFT: Hệ thống viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu
TRIPs: Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ
TMĐT: Thương mại điện tử
TP.HCM: Thành phố Hồ Chí Minh
UNCITRAL: Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật thương mại Quốc tế
WTO: Tổ chức thương mại thế giới

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, chúng ta đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Máy tính được sử dụng phổ biến trong
xã hội, trở thành một công cụ không thể thiếu tại các cơ quan, doanh nghiệp,
trường học và cả nhà riêng. Không chỉ là một công cụ văn phòng đắc lực,
máy tính còn là một công cụ sáng tạo, phương tiện sản xuất tại các doanh
nghiệp, một công cụ ưu việt cho học tập và nâng cao kiến thức, một thiết bị

giải trí đa năng. Sự lan truyền và phổ biến của Internet từ giữa thập kỷ 90 của
thế kỷ trước đã có tác động sâu sắc tới đời sống xã hội nước ta. Chúng ta có
thể trao đổi thông tin dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn, tìm hiểu được nhiều
thông tin hơn từ kho tàng tri thức phong phú của nhân loại. Tính đến cuối
tháng 7 năm 2006, Việt Nam có trên 3,688 triệu thuê bao internet. Số người
sử dụng dịch vụ này là khoảng 13,4 triệu, tương đương 16% dân số. Dự kiến
đến năm 2010, tỷ lệ dân số sử dụng internet có thể đạt tới 35%. 1 Internet cũng
trở thành một môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình
quảng bá hình ảnh, xúc tiến thương mại, mở rộng phạm vi giao dịch và kinh
doanh ngay trên Internet.
Việc ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin vào lĩnh vực
thương mại đã mang lại những kết quả, những giá trị to lớn đối với nhiều loại
chủ thể khác nhau. Và điều này đã dẫn đến sự hình thành của một phương
thức kinh doanh mới - thương mại điện tử. Theo số liệu thống kê, doanh thu
từ thương mại điện tử trên toàn thế giới trong năm 2000 là gần 280 tỉ USD,
năm 2001 là gần 480 USD, năm 2002 là gần 825 tỉ USD, năm 2003 là hơn
1.400 tỉ USD, năm 2004 là gần 2.400 tỉ USD và năm 2005 là gần 4.000 tỉ
USD. Các số liệu này cho thấy thương mại điện tử tăng trưởng gần 70% mỗi
năm. Cũng theo thống kê, trong năm 2002, chi phí dành cho quảng cáo trên

1

Xem địa chỉ (truy cập ngày 5/11/06).

3


Internet của toàn thế giới là 23 tỉ USD, trong đó châu Á đã chi 3 tỉ USD cho
quảng cáo trên Internet2.
Nhiều doanh nghiệp của nước ta đã nắm bắt được những lợi ích mà

thương mại điện tử có thể đem lại đối với việc giảm thiểu các chi phí sản
xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường cho hàng hóa dịch vụ của mình, và nhờ
đó nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế. Hiện nay, theo thống
kê nước ta có trên 30% doanh nghiệp có kết nối Internet, 10% có trang Web
để phục vụ kinh doanh, tiếp thị trong nước và quốc tế3.
Với tốc độ ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thương mại và
những giá trị to lớn mà thương mại điện tử mang lại, đặc biệt là trong điều
kiện hội nhập mạnh mẽ kinh tế khu vực và quốc tế của nước ta hiện nay,
Đảng và Nhà nước đã chủ trương xây dựng chiến lược quốc gia, kế hoạch
tổng thể cho thương mại điện tử trong đó có việc xây dựng một khung pháp
lý hiện đại và phù hợp với tình hình phát triển cụ thể của Việt Nam.
Thực hiện chủ trương đó, Chính phủ và các bộ ngành đã ban hành một
số văn bản pháp luật về xây dựng mạng tin học diện rộng, về sử dụng các dữ
liệu thông tin trên vật mang tin để làm các chứng từ kế toán và thanh toán của
ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Gần đây nhất là ban hành Luật giao dịch
điện tử, Luật công nghệ thông tin, Nghị định của Chính phủ về thương mại
điện tử v.v. Tuy nhiên, Luật giao dịch điện tử là luật khung và các văn bản
hướng dẫn chậm được ban hành. Các văn bản pháp luật của Chính phủ chỉ là
những giải pháp tình thế để giải quyết những yêu cầu trước mắt, hiệu lực
pháp lý của các văn bản không cao. Nhìn chung, các quy định pháp luật về
thương mại điện tử ở Việt Nam vẫn còn nhiều khoảng trống, nhiều chồng
chéo, bất cập, thiếu tính đồng bộ và tạo ra sự manh mún.

2

Xem chi tiết tại: />
3

Xem chi tiết tại: />
4



Thương mại điện tử mang lại cho chúng ta nhiều thuận lợi và thời cơ
nhưng đồng thời, việc phát triển của thương mại điện tử cũng có nhiều thách
thức4 và đòi hỏi về hạ tầng công nghệ thông tin, về mức độ tham gia của các
tổ chức, cá nhân, về đội ngũ nhân lực, về hệ thống thanh toán và đặc biệt là
đòi hỏi về mặt pháp lý. Mặt khác, đất nước ta đang hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế khu vực và toàn cầu, điều này đồng nghĩa với việc chúng ta cần tính
đến việc thực thi của Việt Nam đối với các cam kết trong Hiệp định khung e
– ASEAN, các quy định trong khuôn khổ Tổ chức thương mại thế giới về
thương mại điện tử.
Trước bối cảnh đó, việc nghiên cứu chuyên sâu về những đặc điểm
riêng và những yêu cầu, đòi hỏi về mặt pháp lý của thương mại điện tử;
nghiên cứu thực trạng pháp luật của chúng ta hiện nay liên quan đến thương
mại điện tử để từ đó, đề xuất những giải pháp mang tính tổng thể cho việc
xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật thúc đẩy sự phát triển thương mại
điện tử ở Việt Nam là một việc làm có ý nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài
Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề
thương mại điện tử. Ở trong nước, năm 2000, Viện nghiên cứu khoa học pháp
lý - Bộ tư pháp đã biên soạn Số thông tin khoa học pháp lý về thương mại
điện tử. Bộ thương mại cũng đã xuất bản tài liệu Tìm hiểu về thương mại điện
tử và một số ấn phẩm khác về đề tài này. Một số học viên cao học đã chọn
thương mại điện tử làm đề tài luận văn tốt nghiệp như học viên Vũ Hải Anh ở
Đại học Luật Hà Nội với tên đề tài là “Một số khía cạnh pháp lý về thương
mại điện tử”. Ngoài ra, có một số bài viết trên đăng trên các tạp chí chuyên

4

Theo thống kê của Trung tâm An ninh Mạng, Đại học Bách Khoa Hà Nội (BKIS), trong tháng

9/2006, có hơn nửa triệu máy tính bị lây nhiễm virus từ các virus nội. Nổi bật nhất trong tháng 9 là sự kiện
Chợ Điện Tử của Công ty PeaceSoft bị hacker tấn công. Rạng sáng ngày 23/9/, hàng loạt các tên miền trong
hệ thống Chợ Điện Tử của PeaceSoft là chodientu.com, chodientu.net, chodientu.com.vn, chodientu.vn, v.v...,
lần lượt bị hacker tấn công. Các chuyên gia của BKIS xác định đây là hình thức tấn công chiếm quyền quản lý
tên miền và ánh xạ địa chỉ IP.

5


ngành luật, kinh tế như: bài viết của TS Mai Hồng Quỳ về “Một số vấn đề
pháp lý về thương mại điện tử và việc áp dụng ở Việt Nam” trên Tạp chí Nhà
nước và pháp luật; bài viết của Ths Nguyễn Minh Hằng về “giao kết hợp
đồng điện tử và giao kết hợp đồng truyền thống – những vấn đề khác biệt”
trên tạp chí Kinh tế đối ngoại; bài viết của Ths Lê Thị Thu Hương về
“Thương mại điện tử trong mối quan hệ với WTO và giải pháp đột phá đối
với Việt Nam” … Nhiều bài phát biểu về các khía cạnh của thương mại điện
tử đã được các chuyên gia trình bày tại các Hội thảo, hội nghị khoa học trong
nước ...
Ở nước ngoài, theo tìm hiểu của chúng tôi, rất nhiều quốc gia như Đức,
Trung Quốc, Mỹ … đều có các công trình nghiên cứu về thương mại điện tử.
Hoa Kỳ có Tạp chí Nghiên cứu về thương mại điện tử của trường đại học
California với Hội đồng biên tập là các giáo sư danh tiếng của nhiều nước.
Nhưng tiêu biểu nhất là cuốn “Thương mại điện tử và vai trò của WTO” của
Marc Bacchetta, Patrick Low, Aa ditya Mattoo, Ludger Schuknecht, Hannu
Wager và Madelon Wehrens.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên chủ yếu tập trung vào
ba hướng nghiên cứu chính. Một là, tập trung vào bản chất, đặc trưng, ý
nghĩa của thương mại điện tử và những vấn đề hạ tầng kỹ thuật – công nghệ.
Hai là, có sự kết hợp giữa nghiên cứu bản chất của thương mại điện tử, những
đòi hỏi về hạ tầng công nghệ và hạ tầng pháp lý. Ba là, tập trung đi sâu

nghiên cứu một số khía cạnh pháp lý cụ thể của thương mại điện tử.
Khác với những nghiên cứu trên, trong đề tài này, chúng tôi tập trung
nghiên cứu về hệ thống pháp luật của Việt Nam về thương mại điện tử ở giác
độ khái quát, tổng thể, mà không nặng về các yếu tố kỹ thuật của thương mại
điện tử cũng như không tập trung quá sâu vào một hoặc một số vấn đề pháp
lý cụ thể. Hơn nữa, luận văn này được tiến hành trong bối cảnh Việt Nam đã
trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới, đồng nghĩa
với việc chúng ta phải thực hiện các cam kết, các “luật chơi” của Tổ chức

6


này, trong đó có vấn đề thương mại điện tử; Quốc hội đã ban hành Luật giao
dịch điện tử làm cơ sở cho việc ban hành các văn bản trong các lĩnh vực cụ
thể liên quan đến thương mại điện tử; Chính phủ đã ban hành Kế hoạch tổng
thể triển thương mại điện tử giai đoạn 2006 – 2010.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất phương hướng và các giải
pháp xây dựng, hoàn thiện khung pháp luật nhằm phát triển thương mại điện
tử ở nước ta đáp ứng những yêu cầu của hội nhập và phát triển.
Thương mại điện tử là một vấn đề phức tạp trong đó có cả những vấn
đề về mặt kỹ thuật và công nghệ. Trong phạm vi một luận văn Thạc sĩ luật
học, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu thương mại điện tử về khía cạnh pháp
lý. Mặt khác, chúng tôi không tham vọng có thể đi sâu khảo sát đầy đủ tất cả
những nội dung pháp lý cụ thể của các lĩnh vực pháp luật liên quan đến
thương mại điện tử. Do đó, luận văn sẽ nghiên cứu các vấn đề ở mức độ khái
quát và tổng thể hơn. Cụ thể là cần ban hành mới hay sửa đổi, bổ sung những
văn bản pháp luật nào và trong những văn bản đó phải giải quyết được những
nhiệm vụ trọng tâm gì để hình thành nên một khung pháp lý điều chỉnh các
vấn đề liên quan đến thương mại điện tử.

4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ những đặc thù của đối tượng và phạm vi nghiên cứu, các
phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài này là:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp;
- Phương pháp so sánh,
- Thống kê – phân loại;
- Phương pháp lô gic.
5. Nội dung nghiên cứu
Luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:

7


1. Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về thương mại điện tử như khái
niệm, đặc điểm, những lợi ích và những đòi hỏi của việc ứng dụng thương
mại điện tử trên các mặt khác nhau như cơ sở pháp lý, thanh toán điện tử và
thuế quan .vv.. ;
2. Phân tích và chứng minh việc ứng dụng và phát triển thương mại
điện tử ở Việt Nam như là một đòi hỏi tất yếu khách quan;
3. Đi sâu nghiên cứu những yêu cầu, đòi hỏi về khung pháp lý khi
chúng ta ứng dụng và phát triển thương mại điện tử;
4. Phân tích thực trạng pháp luật hiện hành của nước ta trước những
yêu cầu pháp lý của việc phát triển thương mại điện tử;
5. Trình bày kinh nghiệm của một số nước trong việc xây dựng khung
pháp luật nhằm phát triển thương mại điện tử;
6. Và từ đó, xây dựng phương hướng và các giải pháp xây dựng và
hoàn thiện khung pháp lý cho việc ứng dụng và phát triển thương mại điện tử
ở nước ta trong thời gian tới.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn

có cấu trúc gồm ba chương:
Chương 1: Thương mại điện tử và sự cần thiết của việc phát triển
thương mại điện tử ở nước ta;
Chương 2: Những yêu cầu pháp lý đối với thương mại điện tử và thực
trạng của pháp luật nước ta về thương mại điện tử;
Chương 3: Giải pháp xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật nhằm
phát triển thương mại điện tử ở nước ta.

8


Chƣơng 1
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC PHÁT
TRIỂN THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở NƢỚC TA
1.1. Một số vấn đề cơ bản về thương mại điện tử
1.1.1. Khái niệm thương mại điện tử
Thương mại điện tử được sử dụng với nhiều tên gọi khác nhau như
“thương mại trực tuyến” (Online - Trade), “kinh doanh điện tử” (Electronic
Business), nhưng phổ biến nhất vẫn là “thương mại điện tử” (Electronic
Commerce viết tắt là e - commerce).
Không chỉ tồn tại nhiều tên gọi khác nhau, mà bản thân khái niệm
thương mại điện tử cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Nhiều tổ chức
quốc tế đã đưa ra khái niệm thương mại điện tử theo cách hiểu riêng của họ,
song tựu trung lại có hai cách tiếp cận cơ bản là hiểu thương mại điện tử theo
nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp. Hiểu thương mại điện tử theo nghĩa rộng có hai
đại diện tiêu biểu là Ủy ban Liên Hợp quốc về Luật thương mại Quốc tế
(UNCITRAL) và Ủy ban Châu Âu.
Theo Luật mẫu về Thương mại điện tử của Uỷ ban Liên Hợp quốc về
Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL) thì phạm vi điều chỉnh của Luật này
là mọi loại thông tin dưới dạng một thông điệp dữ liệu trong khuôn khổ các

hoạt động thương mại. Và thông điệp dữ liệu được hiểu là “thông tin được
tạo ra, gửi đi, tiếp nhận hoặc lưu trữ bằng phương tiện điện tử, quang học
hoặc các phương tiện tương tự, và bao gồm, nhưng không phải chỉ bao gồm,
trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), thư điện tử, điện tín, điện báo hoặc FAX”5.
Uỷ ban Châu Âu lại đưa ra định nghĩa về Thương mại điện tử như sau:
Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua
các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới

5

Điều 1, 2 Luật mẫu của UNCITRAL về Thương mại điện tử.

9


dạng text, âm thanh và hình ảnh. Thương mại điện tử gồm nhiều hành vi
trong đó có hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ qua phương tiện điện tử,
giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán
cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài
nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và
các dịch vụ sau bán hàng. Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả
thương mại hàng hoá (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên
dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ
pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khoẻ, giáo
dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo).
Như vậy, tuy mỗi tổ chức trên định nghĩa về thương mại điện tử theo
những cách khác nhau song điểm chung giữa hai định nghĩa này là thương
mại điện tử được hiểu theo nghĩa rộng. Nó được hiểu là các giao dịch tài
chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử;
chuyển tiền điện tử và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng ...

Bên cạnh cách hiểu thương mại điện tử theo nghĩa rộng, một số tổ chức
lại hiểu thương mại điện tử theo nghĩa hẹp, bao gồm các hoạt động thương
mại được thực hiện thông qua mạng Internet. Các tổ chức như: Tổ chức
thương mại Thế giới (WTO), Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế (OECD) đưa
ra các khái niệm về thương mại điện tử theo hướng này. Thương mại điện tử
được nói đến ở đây là hình thức mua bán hàng hoá được bày tại các trang
Web trên Internet với phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng.
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới: Thương mại điện tử bao gồm việc
sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và
thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả

10


các sản phẩm được giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua
mạng Internet 6.
Khái niệm về Thương mại điện tử do Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế
của Liên Hợp quốc (OECD) đưa ra là: Thương mại điện tử được định nghĩa
sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng
truyền thông như Internet.
Theo các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu được rằng ở nghĩa hẹp
thương mại điện tử chỉ bao gồm những hoạt động thương mại mà chủ yếu là
mua bán hàng hóa và dịch vụ được thực hiện thông qua mạng Internet mà
không tính đến các phương tiện điện tử khác như điện thoại, fax, telex ...
Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì hoạt động thương mại được thực hiện
thông qua các phương tiện thông tin liên lạc đã tồn tại hàng chục năm nay và
đạt tới doanh số hàng tỷ USD mỗi ngày. Theo nghĩa hẹp thì thương mại điện
tử mới chỉ tồn tại hơn 4 năm nhưng đã đạt được những kết quả rất đáng quan
tâm. Trên thực tế, chính các hoạt động thương mại thông qua mạng Internet
đã làm phát sinh thuật ngữ “thương mại điện tử”7.

Ở Việt Nam, một số học giả và cán bộ quản lý đã đưa ra các khái niệm
về thương mại điện tử. Tại Hội thảo về thương mại điện tử quốc tế và các
chính sách cơ sở hạ tầng thông tin được tổ chức vào tháng 11 năm 2002 tại
Hà Nội tác giả Nguyễn Hữu Anh cho rằng: “thương mại điện tử là hình thái
sử dụng các phương tiện và phương pháp điện tử để thực hiện các hoạt động
thương mại không cần đến giấy tờ tại bất kỳ công đoạn nào của quá trình
giao dịch (còn gọi là thương mại không giấy tờ).

6

Xem “Thương mại điện tử và vai trò của WTO” của Marc Bacchetta, Patrick Low, Aa ditya
Mattoo, Ludger Schuknecht, Hannu Wager và Madelon Wehrens, Tr. 1
7

Xem: TS Mai Hồng Quỳ - Một số vấn đề pháp lý của thương mai điện tử và việc áp dụng ở Việt
Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2 năm 2000.

11


Còn theo TS Mai Anh thì “thương mại điện tử bao gồm mọi giao dịch
được thực hiện nhờ công nghệ số, nhất là việc dùng Internet, dùng các mạng
riêng để trao đổi thông tin (EDI) và thẻ tín dụng”.
Nghị định số 57/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 9/6/2006
về thương mại điện tử không đưa ra định nghĩa cụ thể về thương mại điện tử.
Tuy nhiên, tại dự thảo Nghị định về thương mại điện tử (tài liệu kèm theo dự
án Luật giao dịch điện tử trình Quốc hội xem xét, thông qua) thì khái niệm
thương mại điện tử được hiểu là việc tiến hành một phần hay toàn bộ hoạt
động thương mại sử dụng thông điệp dữ liệu.
Như vậy, thương mại điện tử là một khái niệm phức tạp mà mỗi tổ

chức và cá nhân hiểu và định nghĩa nó theo những cách khác nhau. Trên thế
giới hiện nay cũng chưa có một cách hiểu thống nhất về thuật ngữ này.
Theo quan niệm của chúng tôi, khái niệm thương mại điện tử có thể
được hiểu bao gồm một số đặc trưng cơ bản sau:
Một là, thương mại điện tử là hình thái sử dụng các phương tiện và
phương pháp điện tử để thực hiện các hoạt động thương mại.
Hai là, thương mại trong khái niệm thương mại điện tử cần được hiểu
theo nghĩa rộng, bao quát hầu như mọi hoạt động kinh tế, mà không chỉ bao
gồm mua bán hàng hóa và dịch vụ.
Ba là, các phương tiện truyền thông điện tử bao gồm điện thoại, fax, vô
tuyến truyền hình, hệ thống thanh toán điện tử, các mạng nội bộ và internet.
1.1.2. Những đặc điểm của thương mại điện tử
So với các hoạt động thương mại truyền thống, thương mại điện tử có
một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, các bên trong giao dịch thương mại điện tử không tiếp xúc
trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải có quan hệ quen biết từ trước. Trong
thương mại truyền thống, các bên thường gặp gỡ trực tiếp để tiến hành đàm

12


phán, thỏa thuận và ký kết các hợp đồng. Các giao dịch được thực hiện chủ
yếu theo nguyên tắc vật lý như chuyển tiền, séc hoá đơn, vận đơn, gửi báo
cáo ... Việc sử dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống
thường chỉ để chuyển tải thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối tác của
cùng một giao dịch. Từ khi xuất hiện mạng máy tính toàn cầu Internet thì
việc trao đổi thông tin trong các hoạt động thương mại đa dạng đã mở rộng
nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới với số lượng người tham gia ngày
càng tăng. Những người tham gia là cá nhân hoặc doanh nghiệp, có thể đã
biết hoặc hoàn toàn chưa biết nhau bao giờ.

Thứ hai, thương mại điện tử được thực hiện trong một thị trường
không có biên giới hay nói cách khác thương mại điện tử được thực hiện trên
thị trường thống nhất toàn cầu. Trong nền kinh tế số, thông tin được số hoá
thành các byte, lưu giữ trong các máy tính và truyền qua mạng với tốc độ cao.
Điều này tạo ra những khả năng hoàn toàn mới làm thay đổi thói quen tiêu
dùng và mua bán của con người mà trong đó, người bán và người mua hàng
có thể giao dịch với đối tác ở bất cứ đâu trên thế giới. Thương mại điện tử
cho phép mọi người cùng tham gia, từ các vùng xa xôi hẻo lánh đến các khu
vực đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp mọi nơi đều có cơ
hội ngang nhau tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu.
Nếu như trong thương mại truyền thống, biên giới quốc gia có một ý
nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa thì trong thương mại điện tử khái niệm biên giới quốc gia không còn ý
nghĩa quá lớn. Thương mại điện tử trực tiếp tác động tới môi trường cạnh
tranh toàn cầu và máy tính cá nhân trở thành cửa sổ cho doanh nghiệp hướng
ra thị trường trên khắp thế giới. Không chỉ các công ty hàng đầu thế giới mới
có thể tiếp cận những thị trường mới, mà ngay cả một công ty vừa mới khởi
sự cũng có một mạng lưới tiêu thụ và phân phối không biên giới thông qua
website của mình.

13


Thứ ba, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch thương mại
truyền thống, trong giao dịch thương mại điện tử xuất hiện thêm một bên thứ
ba là các nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực ... Đây là
những người tạo môi trường cho các giao dịch thương mại điện tử được thực
hiện. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có nhiệm vụ chuyển
đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử,
đồng thời họ cũng xác nhận tính xác thực của các thông tin trong giao dịch

thương mại điện tử.
Thứ tư, đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là
phương tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới
thông tin chính là thị trường. Các trang Web nổi tiếng như Yahoo! America
Online, Google hay Alta Vista... đóng vai trò như các Website gốc đưa khách
hàng truy cập vào nhiều trang Web khác với vô số thông tin. Các trang Web
này đã trở thành các “khu chợ” khổng lồ trên Internet. Với mỗi lần nhấn
chuột, khách hàng có khả năng tìm được hàng ngàn các cửa hàng điện tử
khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào thăm rồi mua hàng là khá cao.
Các chủ cửa hàng, doanh nghiệp ngày nay cũng đang tích cực đưa
thông tin về cửa hàng mình lên Web để khai thác mảng thị trường rộng lớn
trên internet. Ở nước ta, theo thống kê chưa đầy đủ thì hiện có hơn 17.500
doanh nghiệp có website riêng.
Thứ năm, các loại hình giao dịch trong thương mại điện tử là rất phong
phú, bao gồm:
(i) Giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp – B2B;
(ii) Giao dịch giữa doanh nghiệp với khách hàng – B2C;
(iii) Giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước – B2G;
(iv) Giao dịch trực tiếp giữa các cá nhân với nhau – C2C;
(v) Giao dịch giữa cơ quan nhà nước với cá nhân – G2C.

14


1.1.3. Những lợi ích do thương mại điện tử mang lại
Thương mại điện tử mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp nói
riêng và nền kinh tế đất nước nói chung, thể hiện ở một số mặt sau:
Một là, giúp cho doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú và
nhanh chóng. Muốn kinh doanh có hiệu quả thì điều hết sức quan trọng
không thể thiếu là doanh nghiệp phải nắm được thông tin về thị trường. Có

nhiều phương cách khác nhau để có thể có được thông tin, tuy nhiên, sử dụng
các phương tiện của thương mại điện tử, doanh nghiệp sẽ nắm được thông tin
một cách nhanh chóng và phong phú về thị trường hơn cả. Nếu chúng ta vào
trang Google và gõ cụm từ “cần mua ô tô” thì chỉ sau 0,10 giây, sẽ có trong
tay 4.400 website đề cập đến vấn đề này8. Bởi thế, thương mại điện tử có thể
giúp chúng ta tiến hành ký kết và thực hiện các giao dịch một cách thuận lợi
hơn, đồng thời xây dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh phù hợp với
xu hướng pháp triển của thị trường trong nước, khu vực và quốc tế.
Hai là, thương mại điện tử giúp cho doanh nghiệp giảm được các chi
phí sản xuất kinh doanh:
- Về chi phí sản xuất: Theo số liệu của hãng General Electricity ở Mỹ,
khi sử dụng các phương tiện điện tử vào các hoạt động thương mại, doanh
nghiệp có thể tiết kiệm tới 30% chi phí văn phòng bởi các văn phòng không
giấy tờ thường chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm, chuyển
giao tài liệu giảm nhiều lần9.
- Về chi phí bán hàng và tiếp thị: Bằng phương tiện Internet/Web,
nhân viên bán hàng có thể giao dịch với rất nhiều khách hàng thông qua
catalo điện tử trên Web mà không cần phải đi lại nhiều, đỡ mất thời gian và
chi phí (ví dụ như tiền gọi điện thoại để hẹn gặp – theo số liệu của hãng máy
bay Boeing ở Mỹ mỗi ngày giảm được 600 cú điện thoại, tiền đi lại...). Bên

8

Truy cập bằng đường ADSL ngày 10/11/2006.

15


cạnh đó các catalo điện tử trên trang Web luôn luôn có thể thay đổi được vì
vậy nó phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với catalo in ấn

- Về chi phí giao dịch: chi phí giao dịch ở đây được hiểu là chi phí từ
quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng, giao dịch thanh toán. Một
điều tra khá thuyết phục được Trung tâm Thông tin thương mại – Bộ thương
mại dẫn chứng về khả năng tiết kiệm chi phí trong giao dịch TMĐT cho thấy:
Trong lĩnh vực ngân hàng, nếu giao dịch thủ công mất 1,75 USD, giao dịch
thông qua cuộc gọi điện thoại mất 1,5 USD thì dùng hệ thống giao dịch ATM
chi phí chỉ còn 0,25 USD và khi áp dụng TMĐT bằng hình thức hiện đại nhất
là Internet Banking, chi phí chỉ là 0,5 cent.10
Ba là, thương mại điện tử thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thương
mại quốc tế. Thương mại điện tử cho phép các doanh nghiệp tiếp cận khách
hàng nhanh chóng hơn, làm giảm độ phức tạp việc hoàn tất các thủ tục giấy
tờ, xoá bỏ hoàn toàn các đường biên đối với các sản phẩm ở dạng kỹ thuật số.
Với những đặc tính ưu việt nói trên, thương mại điện tử sẽ đóng góp vai trò
quan trọng trong thương mại quốc tế - lĩnh vực vốn gặp trở ngại nhất định về
khoảng cách không gian. Đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị trở
thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới, thì thương mại
điện tử sẽ là một trong những công cụ hữu hiệu để các doanh nghiệp tiếp cận
mà mở rộng thị trường của mình. Thương mại điện tử tạo điều kiện cho tất cả
mọi người ở khắp mọi nơi tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu. Hay
nói một cách ngắn gọn: Thương mại điện tử không giới hạn cơ hội tham gia
của bất kỳ đối tượng nào.
Bốn là, thương mại điện tử mở rộng thị trường hiện có và tạo ra các cơ
hội kinh doanh mới. Thông qua Thương mại điện tử nhiều loại hình kinh
doanh mới được hình thành. Ví dụ các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy

9

/>
10


/>
16


tính, hình thành nên các nhà trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới, trọng tài
cho giới kinh doanh và tiêu dùng; các siêu thị ảo được hình thành để cung
cấp hàng hoá và dịch vụ trên mạng máy tính.
Năm là, tạo điều kiện sớm tiếp cận kinh tế số hoá. Chúng ta đều biết
rằng, việc sớm chuyển sang kinh tế số hoá có thể giúp một nước đang phát
triển tạo ra một bước nhảy vọt, tiến kịp các nước đi trước trong thời gian
ngắn. Tuy nhiên, để làm được việc đó đòi hỏi phải có hệ thống thương mại
điện tử phát triển. Khi thương mại điện tử phát triển sẽ kéo theo sự phát triển
của ngành công nghệ. Đây là ngành có lợi nhuận cao nhất, đóng vai trò ngày
càng lớn trong nền kinh tế và tạo điều kiện cho việc sớm tiếp cận với nền
kinh tế số hoá.
1.1.4. Những yêu cầu của việc ứng dụng TMĐT
Thứ nhất, là xây dựng một cơ sở hạ tầng về công nghệ đáp ứng các yêu
cầu đặt ra của thương mại điện tử. Một hạ tầng cơ sở công nghệ được coi là
đủ năng lực phải đáp ứng được hai tính năng cơ bản là tính toán (computing)
và truyền thông (communications). Hai tính năng này ngoài công nghệ về
thiết bị máy móc còn cần phải có một nền công nghiệp điện lực thực sự vững
mạnh làm nền tảng. Hạ tầng cơ sở công nghệ vừa phải tiên tiến, hiện đại về
công nghệ và thiết bị lại vừa phải đảm bảo tính phổ cập về kinh tế, có mức
chi phí thích hợp để đông đảo mọi người có thể tiếp cận được.
Hạ tầng công nghệ bao gồm: công nghệ thông tin; công nghệ viễn
thông; công nghệ Internet; công nghệ điện tử; công nghệ điện lực; tiêu chuẩn
công nghệ quốc gia. Trong đó, hạ tầng công nghệ thông tin là điều kiện tiên
quyết đảm bảo thông tin, bao gồm công cụ (phần cứng và phần mềm) và các
dịch vụ thích hợp để áp dụng và phát triển thương mại điện tử nhằm mang lại
hiệu quả kinh tế. Cùng với hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng cơ sở công

nghệ viễn thông là điều kiện thiết yếu để áp dụng và phát triển thương mại
điện tử. Yêu cầu đặt ra là phải có một hạ tầng cơ sở công nghệ viễn thông tốt
và được phép hình thành hệ thống các mạng viễn thông quốc gia, kết nối trực

17


tuyến với quốc tế và có thể cung cấp nhiều loại hình dịch vụ viễn thông tiên
tiến với giá cước rẻ. Hạ tầng công nghệ Internet cung cấp thông tin phong
phú, đa dạng, nhanh chóng là điều kiện thúc đẩy lao động sáng tạo, tạo cơ hội
thành công trong cạnh tranh và đưa lại hiệu quả tốt cho các hoạt động hợp tác
trao đổi. Tiêu chuẩn công nghệ quốc gia và quốc tế về thương mại, thanh
toán, vận chuyển, hải quan, tài chính v.v. sẽ tạo điều kiện cho việc trao đổi
trên phạm vi quốc gia và toàn cầu được thuận lợi. Công nghệ thông tin và
thương mại điện tử chỉ có thể hoạt động đáng tin cậy trên nền của một hạ
tầng cơ sở điện lực vững chắc, đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ, ổn định
và giá cả hợp lý.
Thứ hai, là về cơ sở hạ tầng nhân lực. Thương mại điện tử là vấn đề
liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, từ người tiêu thụ đến nhà sản xuất
và phân phối, từ các cơ quan chính phủ đến các doanh nghiệp và khách hàng.
Do đó, mọi người trong hệ thống này cần phải có những hiểu biết nhất định
cả về khoa học - công nghệ và hoạt động thương mại, phải có lòng tin và
tính trách nhiệm cao.
Vấn đề nhân tố con người đáp ứng nhu cầu phát triển của thương mại
điện tử thể hiện ở các cấp độ khác nhau. Ngoài đội ngũ nhân lực có tri thức
về kinh doanh và pháp lý như trong thương mại truyền thống thì yêu cầu đầu
tiên là phải có một đội ngũ chuyên gia về công nghệ đủ mạnh cả về chất
lượng và số lượng. Đội ngũ này sẽ đảm trách công việc trong các lĩnh vực
như quản lý nhà nước về thương mại điện tử; hệ thống thanh toán tự động
trong hệ thống ngân hàng; dịch vụ bưu chính và viễn thông cũng như thực

hiện công tác đào tạo đội ngũ những người có trình độ cao về công nghệ
thông tin. Yêu cầu tiếp theo là đa số những người muốn tham gia vào hoạt
động thương mại điện tử phải có kỹ năng thực tế ứng dụng công nghệ thông
tin một cách có hiệu quả, có thói quen làm việc trên máy tính, trên mạng máy
tính.

18


Thứ ba, là các đòi hỏi về hệ thống tài chính và thanh toán điện tử. Đối
với việc phát triển thương mại điện tử cần có một hệ thống thuế quan công
bằng và hoạt động có hiệu quả khi xử lý các dữ liệu và các giao dịch qua
mạng máy tính. Việc tính và thu thuế đối với thương mại điện tử chỉ có thể
thực hiện được trên thực tế và có hiệu quả khi đã có một môi trường kinh tế
đã tiêu chuẩn hoá ở mức độ cao.
Hoạt động thanh toán điện tử được thực hiện dưới các hình thức như:
bằng máy tính cá nhân thông qua mạng Internet; Mobile Phone; ATM; Điểm
chấp nhận các loại thẻ thanh toán tại các trung tâm thương mại và nhà cung
ứng dịch vụ; Telephone Banking; thanh toán qua các mạng “giá trị gia tăng”
ví dụ như: hệ thống SWIFT (Society for wold wide Interbank and Finance
Telecommunication - Mạng Viễn thông Liên Ngân hàng toàn cầu); Trung tâm
thanh toán bù trừ liên ngân hàng. Các hình thức thanh toán nêu trên được
thực hiện bằng các phương tiện như: Thẻ tín dụng quốc tế; Thẻ ghi nợ; Ví
tiền điện tử; Séc điện tử; các chứng từ điện tử; giấy nghi nợ điện tử .v.v.
Thương mại điện tử chỉ có thể thực hiện được khi thực tế đã tồn tại một hệ
thống thanh toán tài chính phát triển cho phép thực hiện thanh toán tự động
hay còn gọi là thanh toán điện tử. Nếu chưa có hệ thống này thì thương mại
điện tử chỉ ứng dụng được phần trao đổi thông tin, còn khâu thanh toán vẫn
phải thực hiện bằng các phương tiện thanh toán truyền thống.
Thứ tư, là vấn đề bảo mật thông tin. Rủi ro tiềm ẩn đối với thông tin

trong hệ thống mạng phục vụ hoạt động thương mại điện tử là rất lớn. Các
chuyên gia cho rằng, nguy cơ tiềm tàng nguy hiểm nhất đối với mạng máy
tính mở là tin tặc chuyên đột nhập vào các máy chủ để đánh cắp hoặc phá hủy
dữ liệu. Đây là những đối tượng có chuyên môn cao và sử dụng kỹ thuật tinh
vi; hoạt động của chúng là có chủ đích và trên phạm vi rộng; những tác hại
mà chúng gây ra ảnh hưởng không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả đối với
lĩnh vực chính trị, an ninh - quốc phòng. Bởi vậy, vấn đề bảo mật thông tin
trong thương mại điện tử có ý nghĩa sống còn cho sự tồn tại của thương mại
điện tử.

19


Thứ năm, là vấn đề tiêu chuẩn hoá công nghiệp và thương mại. Trong
hoạt động thương mại điện tử thì tiêu chuẩn hoá là tạo ra các chuẩn mực về
văn bản pháp lý, hợp đồng thương mại được liên thông trên mạng; thống nhất
các khái niệm, thuật ngữ, ký hiệu, mã hoá .v.v. góp phần cho hoạt động
thương mại điện tử được thuận tiện; thống nhất hoá, đơn giản hoá đảm bảo
tính tương hợp trong các thiết bị, sản phẩm phần cứng, phần mềm. Cùng với
các tiêu chuẩn trên, người ta còn sử dụng các tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn, môi
trường, các tiêu chuẩn quy định tính năng, công dụng của hàng hoá vì mục
đích cuối cùng của tiêu chuẩn hoá là nhằm bảo vệ người tiêu dùng. Trong
thương mại điện tử, người mua thường không trực tiếp tiếp xúc với hàng hoá
cho nên các tiêu chuẩn này lại càng cần thiết hơn.
Thứ sáu, là đòi hỏi về vấn đề an ninh quốc gia. Đối với nước ta cũng
như bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, khi tham gia vào mọi hoạt động
nói chung và các hoạt động kinh tế nói riêng cần phải quan tâm hàng đầu tới
tác động của việc tham gia đó đối với an ninh quốc gia. Thương mại điện tử
là một phương thức giao dịch mới có tác động trực tiếp tới vấn đề an ninh
quốc gia đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin. Do đó, để thương mại điện tử

hoạt động có hiệu quả và an toàn thì điều quan trọng là phải:
- Đảm bảo an ninh kinh tế;
- Đảm bảo an ninh văn hoá;
- Đảm bảo an ninh, an toàn thông tin.
Thứ bảy, là yêu cầu quản lý nhà nước về thương mại điện tử. Như đã
đề cập ở trên, thương mại điện tử là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh
vực, nhiều ngành, nhiều loại chủ thể và mức độ rủi ro cao. Bởi thế, làm rõ
mức độ tham gia và vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước trong thương
mại điện tử là vấn đề rất quan trọng. Trước hết, cần xác định quản lý nhà
nước về thương mại điện tử không đơn thuần là một bộ phận của quản lý nhà
nước về kinh tế hay về văn hoá, xã hội hoặc an ninh quốc gia mà nó là một
kiểu quản lý nhà nước có tính phức hợp. Đối tượng của quản lý nhà nước về

20


thương mại điện tử là toàn bộ các hoạt động thương mại điện tử của tất cả các
chủ thể ở mọi hình thức, mọi cấp độ và trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội. Nói đến quản lý nhà nước về thương mại điện tử là nói đến
hai nội dung: một là, quản lý bằng chiến lược, chính sách, pháp luật và cơ
chế; hai là, vai trò mở đường thúc đẩy, tổ chức, tham gia của nhà nước bằng
những hình thức, phương tiện và công cụ cụ thể.
Thứ tám, về xây dựng khung pháp luật cho thương mại điện tử (sẽ
được trình bày rõ hơn ở Chương II). Đây là một trong những ưu tiên cần phải
được quan tâm trong kế hoạch phát triển thương mại điện tử ở nước ta.
Khung pháp luật đầy đủ và thống nhất về thương mại điện tử là điều kiện
không thể thiếu. Khung pháp luật thương mại cần có tính thống nhất để có
thể điều chỉnh cả các hoạt động thương mại nói chung và các giao dịch
thương mại điện tử nói riêng, không phân biệt mục đích tiêu dùng hay kinh
doanh, không phụ thuộc vào công nghệ được sử dụng cho giao dịch. Mặt

khác, tính thống nhất của khung pháp luật về thương mại điện tử còn phải
được thể hiện sự thống nhất cả ở trong nước lẫn phạm vi toàn cầu, tạo thuận
lợi và giúp thực hiện các giao dịch điện tử toàn cầu để khuyến khích thương
mại điện tử phát triển.
Thương mại điện tử là một vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh
vực pháp luật khác nhau. Vì thế, xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật
nhằm phát triển thương mại điện tử đồng nghĩa với việc ban hành mới, sửa
đổi, bổ sung các quy định pháp luật về nhiều lĩnh vực khác nhau như: thương
mại, hợp đồng, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin, bảo vệ bí mật cá nhân,
pháp luật hình sự, bảo vệ người tiêu dùng …
1.2. Phát triển thương mại điện tử ở nước ta là đòi hỏi
mang tính tất yếu khách quan
Việc phát triển thương mại điện tử ở nước ta là một đòi hỏi mang tính
tất yếu khách quan. Điều này bắt nguồn từ những lý do cơ bản sau:
Thứ nhất là nhằm thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam.

21


Ngày 7/11/2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức được kết nạp thành
thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) sau hơn 10 năm
tiến hành đàm phán. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, theo lộ trình cụ thể,
Việt Nam sẽ phải thực thi tất các các cam kết, các quy định của WTO trong
đó có vấn đề thương mại điện tử.
Vào tháng 5/1998, tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 2 được tổ chức
tại Geneva (Thụy sĩ), các nước thành viên WTO đã ra tuyên bố về TMĐT
toàn cầu, trong đó yêu cầu Hội đồng chung của WTO đưa ra một chương
trình hành động cụ thể để xem xét các vấn đề liên quan đến thương mại phát
sinh từ TMĐT. Thực hiện tuyên bố trên, tháng 9/1998, Hội đồng chung đã
đưa ra Chương trình hành động về thương mại điện tử yêu cầu các cơ quan

thành viên của Hội đồng chung – đó là Hội đồng thương mại hàng hóa, Hội
đồng thương mại dịch vụ, Hội đồng thương mại liên quan đến lĩnh vực Sở
hữu trí tuệ, Ủy ban thương mại và phát triển, xem xét các mối liên hệ giữa
TMĐT với các hiệp định đa biên của WTO. Thực hiện Chương trình này, các
Hội đồng thành viên, theo định kỳ báo cáo lên Hội đồng chung các kết quả
đạt được và những vấn đề tiếp tục thảo luận tại các Hội nghị Bộ trưởng tiếp
theo (gần đây nhất là Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 6 diễn ra vào tháng
12/2005 tại Hồng Kông).
Những thỏa thuận đạt được chủ yếu của các nước thành viên WTO về
thương mại điện tử là: những nguyên tắc cơ bản cũng như các Hiệp định đa
biên của WTO đều có thể áp dụng cho thương mại điện tử. Đối với một hàng
hóa hay lĩnh vực nhất định, các quy tắc đó cần được quy định cụ thể hơn theo
hướng tạo thuận lợi cho sự phát triển của thương mại điện tử. Tạm thời, sẽ
không áp thuế quan đối với hàng hóa được chuyển tải thông qua phương tiện
điện tử.
Bên cạnh đó, ngày 24/11/2000, Việt Nam đã tham gia vào Hiệp định
khung về e-ASEAN (“Hiệp định e-ASEAN”) với các thành viên ASEAN,
theo đó các quốc gia thành viên trên cơ sở nhận thức được những lợi ích, cơ

22


hội mà thương mại điện tử mang lại, tạo thuận lợi cho sự phát triển của
thương mại điện tử. Cụ thể là:
(a) Nhanh chóng đưa vào luật và các chính sách quốc gia các vấn đề
quan đến các giao dịch điện tử dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế;
(b) Tạo điều kiện thuận lợi cho sự công nhận lẫn nhau về khuôn khổ
chữ ký điện tử (Digital signature frameworks);
(c) Tạo thuận lợi đảm bảo an toàn cho các thanh toán và chuyển tiền
điện tử thông qua các cơ chế cụ thể như Cổng thanh toán điện tử;

(d) Áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phát sinh từ
thương mại điện tử. Các nước thành viên cần xem xét việc chấp thuận các
Hiệp ước của Tổ chức quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ (còn gọi là tổ chức
WIPO), chủ yếu là “Hiệp ước bản quyền WIPO 1996”.
(e) Thực hiện các biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân và bí mật riêng tư
của người tiêu dùng;
(f) Khuyến khích sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp thay thế
(ADR) cho các giao dịch trực tuyến.
Thứ hai, là tận dụng những giá trị mà thương mại điện tử mang lại
Như đã có dịp phân tích ở trên, thương mại điện tử mang lại cho các
chủ thể rất nhiều lợi ích. Điều này không những được thể hiện ở Việt Nam
chúng ta mà còn được thể hiện rõ nét ở những quốc gia trên thế giới có
thương mại điện tử phát triển. Ở Pháp, doanh thu từ thương mại điện tử của
năm 2003 đạt 2,39 tỷ euro (tăng 65% so với năm 2001), năm 2003 đạt 3,5 tỷ
euro theo đánh giá của hãng Benchmark Group. Còn doanh thu trực tuyến
của Mỹ, theo hãng Forrester Research và Shop.org (Hiệp hội các nhà bán
hàng trực tuyến của Mỹ) đạt 48% năm 2002, bằng 76 tỷ USD, chiếm 3,6%

23


×